13. Lục
Tích
Lục Tích sinh vào đời Đông-Hán, mới lên 6 tuổi, đã biết hiếu-thảo. Có một hôm theo cha sang quận Cửu-giang với Viên Thuật; Thuật làm tiệc thết đãi. Tích thấy trong tiệc có quít ngon, bèn lấy giấu 2 quả bỏ vào tay áo, khi ra về cúi chào Viên Thuật không may quít ở trong tay áo rơi ra, Thuật nói đùa: "Sao lấy quít giấu như thế ? Tích trả lời: "Vì mẹ tôi thích ăn quít, nhân thấy quít ngon, giấu đi vài quả đem về biếu mẹ tôi". Thuật khen là người có hiếu .
Hiếu đễ giai thiên tính,
Nhân-gian lục tuế nhi,
Tụ trung hoài lục quất,
Dị mậu sự kham kỳ.
Dịch Nghĩa:
Lòng hiếu đễ do trời phú tính cho,
Đứa trẻ con lên 6 tuổi trong thế gian này,
Giấu quít vào trong tay áo,
Đem về biếu mẹ cũng đáng lấy làm lạ.
Dịch Thơ:
Cho hay phú giữ thiên chân,
Lên sáu tuổi, biết hiếu thân mới kỳ,
Quít ngon mấy quả giấu đi,
Đem về biếu mẹ, những thì ước-ao.
14. Giang Cách
Giang Cách sinh vào đời nhà Hán, mồ côi cha từ lúc bé, thờ mẹ rất hiếu, nhà nghèo, gặp buổi loạn-lạc, cõng mẹ đi lánh nạn, giữa đường gặp bọn giặc toan bắt ông đi, Ông khóc van với giặc nói là ông còn mẹ già, chỉ có 2 mẹ con nương-tựa nhau, nay bị bắt đi, thì không có ai nuôi mẹ già. Bọn giặc nghĩ thương tình, tha không bắt ông đi nữa, Ông cõng mẹ chạy về Hạ-bì, rồi ông cố sức làm thuê làm mướn, cũng nuôi mẹ được no đủ qua cơn loạn-lạc.
Phụ mẫu đào nguy gian,
Trung đồ tặc phạm tần,
Ai cầu câu hoạch miễu,
Dung lực dĩ cung thân.
Dịch Nghĩa:
Cõng mẹ đi tránh nạn,
Giữa đường gặp giặc bắt luôn luôn,
Kêu van đều được tha,
Cố sức làm thuê để nuôi mẹ.
Dịch Thơ:
Tránh nàn cõng mẹ gian-truân,
Giũa đường gặp giặc toan phần bắt đi,
Giãi tình van lạy nằn-nì,
Thoát vòng loạn-lạc, tới khi yên-lành.
15. Hoàng Hương
Hoàng Hương sinh vào đời Đông-Hán, năm lên chín tuổi mẹ chết, thương khóc thảm-thiết, trong làng ai cũng khen là người có hiếu. Ở với cha, sớm khuya hầu-hạ, không lúc nào rời, mùa đông thì nằm ủ vào chăn-chiếu của cha để lấy hơi nóng của mình vào chăn-chiếu cho cha khỏi lạnh, mùa hè thì lấy quạt quạt màn gối của cha cho hết hơi nóng, vì thế cha lúc nào cũng được vui-vẻ, quanh năm không biết có mùa đông mùa hè. Quan thái-thú quận ấy thấy Hương là người hiếu-thảo, làm sớ tâu lên vua Hán ban cho Hương tấm biển chữ vàng là người con hiếu-hạnh.
Đông nhật ôn khâm noãn,
Viên thiên phiến chẩm lương,
Nhi đồng tri tử chức,
Thiên cổ nhất Hoàng Hương.
Dịch Nghĩa:
Mùa đông thì ủ cho ấm chăn,
Mùa nực thì quạt cho mát gối,
Trẻ thơ đã biết đạo làm con,
Nghìn xưa chỉ có một Hoàng Hương mà thôi.
Dịch Thơ:
Đông thì ủ ấm chiếu-chăn,
Hè thì quạt mát mọi phần nồng-oi,
Trẻ thơ đã biết hiếu rồi,
Nghìn thu chỉ có một người không hai.
16. Vương Thôi
Vương Thôi người nước Ngụy (đời Tam-quốc) cha ông làm quan triều Ngụy, sau Tây-Tấn diệt Ngụy, thống nhất thiên-hạ, cha ông bị Tây-Tấn giết hại, ông thương xót quá, phục ở bên mộ mà khóc mãi, đến nỗi nước mắt của ông chảy ra thấm xuống gốc cây trắc bên mồ tươi lại. Cả đời ông không bao giờ ngồi ngảnh mặt về hướng tây (vì Tây-Tấn ở về phương tây ), để tỏ ý ông không làm tôi nhà Tây-Tấn. Mẹ ông lúc sinh thời hay sợ sấm, nên khi mẹ ông chết rồi, hễ khi nào mưa có sấm, ông lại ra áp mồ và khấn rằng: " có con ở đây rồi", để cho vong hồn mẹ khỏi sợ. Ông là người tài giỏi, vua nhà Tây-Tấn thường mời ra làm quan, ông nhất định không chịu ra, ở nhà mở trường dạy học, mỗi khi ông giảng sách cho học-trò, đến thiên Lục-nga trong Kinh Thi có câu rằng : phụ hề sinh ngã thì ông lại thương cha chảy nước mắt khóc. Vì thế, học-trò cũng cảm-động, bỏ thiên Lục-Nga không dám đọc đến nữa.
Từ mẫu phạ văn lôi,
Băng hồn túc dạ đài,
Át hương thời nhất chấn,
Đáo mộ nhiễu thiên hồi,
Dịch Nghĩa:
Mẹ hiền sợ nghe sấm
Hồn thơm nằm dưới suối vàng,
Khi thấy có tiếng sấm động,
Đến mồ mẹ di quanh nghìn lần.
Dịch Thơ:
Mẹ xưa tính sợ sấm vang,
Hồn thơm ở dưuới suối vàng những lo.
Mỗi khi mưa gió sấm to,
Thân ra ấp mộ quanh-co nghìn vàng.
17. Ngô Mãnh
Ngô Mãnh sinh vào đời nhà Tấn, lên 8 tuổi, thờ cha mẹ rất hiếu, nhà nghèo, mùa hè nhiều muỗi, không có tiền mua màn, ông sợ cha mẹ bị muỗi đốt không ngủ được, ông cởi trần nằm cho muỗi đốt, không dám xua, sợ rằng nếu mình xua đi thì muỗi lại đến đốt cha mẹ chăng ?
Hạ dạ vô văn trướng,
Văn đa bất cảm huy,
Tứ cừ bão cao huyết,
Miễn sử nhập thân vi.
Dịch Nghĩa:
Đêm mùa hè không có màn,
Muỗi nhiều không dám xua,
Cho nó đốt no máu của mình,
Để nó khỏi đến chỗ cha mẹ nằm.
Dịch Thơ:
Đêm hè lắm muỗi không màn,
Tha hồ muỗi đến hàng đàn vo ve,
Trần mình cho muỗi no-nê,
Hai thân được ổn giấc hòe là hơn.
18. Vương Tường
Vương Tường sinh vào đời nhà Tấn, mẹ chết sớm, ở với cha, bị mẹ kế cay nghiệt, ngày thường xúi-giục, làm cho cha ông ghét bỏ ông, nhưng ông vẫn dốc lòng hiếu-thảo với cha và mẹ kế. Mùa đông nước đóng váng, mẹ kế muốn ăn cá tươi, ông cởi trần nằm trên váng nước, để tìm cá, bỗng tự nhiên váng nước nứt đôi ra, có hai con cá chép nhảy lên, ông đem về cho mẹ kế xơi. Thấy ông hiếu-thảo như thế, sau cha và mẹ kế ông cảm-động, lại yêu-quý ông lắm.
Kế mẫu nhân-gian hữu
Vương Tường thiên-hạ vô,
Chí kim hà thượng thủy,
Nhất phiến ngọa băng vô.
Dịch Nghĩa:
Mẹ kế thì nhân-gian thường có.
Hiếu như Vương Tường thì thiên-hạ không có ai,
Đến bây giờ ở trên sông
Chả có ai nằm trần mình trên váng nước cả.
Dịch Thơ:
Nhân-gian mẹ kế là thường,
Lòng con hiếu tựa Vương Tường có đâu !
Gẫm xem từ đấy về sau,
Nằm trên váng nước sâu mấy người.
19. Dương Hương
Dương Hương sinh vào đời nhà Tấn, mới 14 tuổi, tính rất hiếu, cha đi đâu cũng theo đi hầu. Có một hôm, hai cha con cùng đi thăm ruộng đường xa, giữa đường gặp con hổ nhảy sổ đến định vồ cha ông, ông tay không, quyết xông vào dánh nhau với hổ, hổ phải bỏ chạy, cha con đều được vô sự cả
Thâm sơn phùng bạch ngạch,
Nỗ lực bác tinh phong,
Phụ tử câu vô dang,
Thoát ly hổ khẩu trung.
Dịch Nghĩa:
Chốn rừng sâu gặp con hổ trắng má,
Cố sức đánh đuổi giống hôi-tanh,
Cha con đều vô sự cả,
Khỏi được tai-nạn bị hổ ăn thịt.
Dịch Thơ:
Giữa rừng gặp cọp tay không,
Dù rằng thú dữ quyết xông đánh liền,
Cha con đều được bình-yên,
Miệng hầm đã thoát đoàn viên cùng về
20. Mạnh Tông
Mạnh Tông người ở Giang-hạ, về đời Tam-quốc, mồ côi cha, ở với mẹ, tính rất hiếu. Một hôm mẹ bị ốm, thèm ăn canh măng, nhưng vì khi ấy đương mùa đông, khó tìm được măng, ông lần vào rừng tre, một mình ngồi khóc, bỗng chốc có mấy giò măng mọc ở dưới đất lên, ông đem về nấu canh cho mẹ xơi, rồi mẹ khỏi ốm.
Lệ khấp sóc phong hàn,
Tiêu tiêu trúc sổ can,
Tu du đông duẩn xuất,
Thiên ý báo bình an,
Dịch Nghĩa:
Ngồi khóc trong khi gió bấc rét nặng.
Lèo tèo có mấy cây tre,
Phút chốc măng mùa đông mọc ra.
Ý trời cho mẹ được khỏi bệnh.
Dịch Thơ:
Mùa đông gió bấc lạnh lùng,
Một mình sùi-sụt trong vùng rừng tre,
Bỗng đâu măng mọc đem về,
Mẹ xơi, bệnh đã mọi bề tiêu-tan.
21. Sưu Kim Lâu
Kim Lâu người nước Tề, tính rất hiếu, được bổ làm thái-thú ở quận Bình-lăng, đến nhận chức chưa dược 10 hôm, bỗng tự nhiên thấy tâm thần bàng-hoàng, mồ hôi chảy ra như tắm, ông biết là ở nhà có việc chẳng lành, bèn từ chức về quê; khi về đến nhà thì cha bị ốm đã 2 ngày, ông thấy thầy thuốc nói rằng: "những người ốm mà phân đắng thì dễ chữa, không đáng lo ngại. Ông lấy làm lo-ngại, cứ đêm đêm 3 lần đốt hương hướng về sao Bắc-đẩu mà khấn, xin chết thay cho cha. Sau nằm thấy có người cầm một thẻ vàng có mấy chữ: "sắc trời cho bình-an". Ngày hôm sau cha ông được qua khỏi .
Đào huyện vị tuần nhật,
Xuân-đình tao tật thâm,
Nguyện tương thân đại tử,
Thường phẩn khởi ưu tâm.
Dịch Nghĩa:
Làm quan đến nhậm chức chưa được 10 ngày,
Cha ở nhà bị đau nặng.
Xin lấy mình chết thay cho cha,
Nếm phân sinh lòng lo-ngại.
Dịch Thơ:
Tới huyện nha, chưa bao lâu,
Xuân-đường thoát bị bệnh đau ở nhà,
Khấn trời xin chết thay cha,
Nếm phân thấy ngọt biết là bệnh nguy
22. Thôi phụ Đường-thị
Đường-thị là vợ một nhà họ Thôi, thờ mẹ chồng rất hiếu, mẹ chồng tuổi già răng móm, không nhai được cơm. Đường-thị cứ hàng ngày tắm-rửa sạch-sẽ, rồi đến cho mẹ chồng bú; hằng mấy năm mẹ chồng không phải ăn cơm mà cũng no. Cảm ơn ấy mẹ chồng không biết lấy gì đáp lại, khi mẹ chồng sắp chết, có khấn nguyện với trời xin cho con cháu dâu nhà họ Thôi ngày sau, ai ai cũng được hiếu-thảo như Đường-thị cả. Rồi sau các con-cháu dâu nhà họ Thôi bắt chước nhau người nào cũng hiếu-thuận. Vì thế, nhà họ Thôi được hưng-thịnh.
Hiếu báo Thôi gia phụ,
Nhũ cơ thân quán sơ,
Thử ân vô dĩ báo,
Nguyện đắc tử tôn như.
Dịch Nghĩa:
Vợ họ Thôi ở có hiếu với mẹ chồng.
Hành ngày tắm rửa rồi cho mẹ chồng bú,
Ơn ấy mẹ chồng không lấy gì báo lại,
Khấn trời mong cho con cháu dâu của Đường-thị lại hiếu-thảo với Đường-thị.
Dịch Thơ:
Dâu họ Thôi hiếu-thảo thay,
Cho mẹ chồng bú, hằng ngày tắm lau,
Giả ơn khấn nghuyện về sau,
Dâu nào cũng hiếu như dâu họ Đường.
23. Chu Thọ Xương
Chu Thọ Xương sinh vào đời nhà họ Tống, ông là con vợ thứ, năm ông lên 7 tuổi, thì mẹ đích ông đuổi mẹ ông đi, sau ông được làm quan, nghĩ đến công mẹ đẻ khó nhọc, nay mình được sung-sướng, để mẹ đẻ lưu-lạc trong lòng không đang. Ông quyết từ quan đi tìm mẹ đẻ. Trước khi đi, ông có thề rằng: "nếu không tìm thấy mẹ, thì chết cũng đành". Sau ngẫu nhiên đi đến Đồng-châu thì mẹ con gặp nhau. Mẹ con xa cách nhau đã 50 năm nay lại được gặp nhau, rất là vui-vẻ, ông bèn đem mẹ về phụng-dưỡng.
Thất tuế sinh ly mẫu,
Sâm Thương ngũ thập niên,
Nhất triêu tương kiến diện,
Hỷ khí động Hoàng Thiên.
Dịch Nghĩa:
Lên 7 tuổi bị lìa xa mẹ đẻ,
Như sao hôm sao mai đã 50 năm trời,
Một sớm được thấy mặt nhau,
Vui-mừng cảm-động đến trời.
Dịch Thơ:
Mẹ con chia rẽ đôi nơi,
Sâm Thương xa cách năm-mươi năm tròn,
Bỗng đâu mẹ lại gặp con,
Mừng này ai biết hãy còn hôm nay.
24. Hoàng Đình Kiên
Hoàng Đình Kiên sinh vào đời nhà Đường, làm quan đến chức Thái-sử (quan coi việc chép sử) thờ cha mẹ rất hiếu, tuy mình làm quan sang, có nhiều đầy-tớ hầu-hạ nhưng các đồ của cha mẹ dùng để đại tiểu tiện, dù dơ-bẩn đến đâu, ông cũng tự tay rửa lấy, không sai người nhà lau rửa bao giờ cả.
Quý hiển văn thiên-hạ,
Bình sinh hiếu sự thân,
Thân thân địch niệu khí,
Bất dụng hoán gia-nhân.
Dịch Nghĩa:
Giàu-sang thiên-hạ ai cũng biết tiếng,
Ngày thường thờ cha mẹ rất hiếu,
Chính tay mình rửa đồ để đại tiểu tiện của cha mẹ,
Không sai người nhà làm việc ấy bao giờ cả.
Dịch Thơ:
Dù mình chức trọng quyền cao,
Tấm lòng hiếu-thảo khi nào dám sai,
Đồ thân dùng dẫu bẩn hôi,
Tay rửa lấy, chẳng sai ai bao giờ.
__________________Lục Tích sinh vào đời Đông-Hán, mới lên 6 tuổi, đã biết hiếu-thảo. Có một hôm theo cha sang quận Cửu-giang với Viên Thuật; Thuật làm tiệc thết đãi. Tích thấy trong tiệc có quít ngon, bèn lấy giấu 2 quả bỏ vào tay áo, khi ra về cúi chào Viên Thuật không may quít ở trong tay áo rơi ra, Thuật nói đùa: "Sao lấy quít giấu như thế ? Tích trả lời: "Vì mẹ tôi thích ăn quít, nhân thấy quít ngon, giấu đi vài quả đem về biếu mẹ tôi". Thuật khen là người có hiếu .
Hiếu đễ giai thiên tính,
Nhân-gian lục tuế nhi,
Tụ trung hoài lục quất,
Dị mậu sự kham kỳ.
Dịch Nghĩa:
Lòng hiếu đễ do trời phú tính cho,
Đứa trẻ con lên 6 tuổi trong thế gian này,
Giấu quít vào trong tay áo,
Đem về biếu mẹ cũng đáng lấy làm lạ.
Dịch Thơ:
Cho hay phú giữ thiên chân,
Lên sáu tuổi, biết hiếu thân mới kỳ,
Quít ngon mấy quả giấu đi,
Đem về biếu mẹ, những thì ước-ao.
14. Giang Cách
Giang Cách sinh vào đời nhà Hán, mồ côi cha từ lúc bé, thờ mẹ rất hiếu, nhà nghèo, gặp buổi loạn-lạc, cõng mẹ đi lánh nạn, giữa đường gặp bọn giặc toan bắt ông đi, Ông khóc van với giặc nói là ông còn mẹ già, chỉ có 2 mẹ con nương-tựa nhau, nay bị bắt đi, thì không có ai nuôi mẹ già. Bọn giặc nghĩ thương tình, tha không bắt ông đi nữa, Ông cõng mẹ chạy về Hạ-bì, rồi ông cố sức làm thuê làm mướn, cũng nuôi mẹ được no đủ qua cơn loạn-lạc.
Phụ mẫu đào nguy gian,
Trung đồ tặc phạm tần,
Ai cầu câu hoạch miễu,
Dung lực dĩ cung thân.
Dịch Nghĩa:
Cõng mẹ đi tránh nạn,
Giữa đường gặp giặc bắt luôn luôn,
Kêu van đều được tha,
Cố sức làm thuê để nuôi mẹ.
Dịch Thơ:
Tránh nàn cõng mẹ gian-truân,
Giũa đường gặp giặc toan phần bắt đi,
Giãi tình van lạy nằn-nì,
Thoát vòng loạn-lạc, tới khi yên-lành.
15. Hoàng Hương
Hoàng Hương sinh vào đời Đông-Hán, năm lên chín tuổi mẹ chết, thương khóc thảm-thiết, trong làng ai cũng khen là người có hiếu. Ở với cha, sớm khuya hầu-hạ, không lúc nào rời, mùa đông thì nằm ủ vào chăn-chiếu của cha để lấy hơi nóng của mình vào chăn-chiếu cho cha khỏi lạnh, mùa hè thì lấy quạt quạt màn gối của cha cho hết hơi nóng, vì thế cha lúc nào cũng được vui-vẻ, quanh năm không biết có mùa đông mùa hè. Quan thái-thú quận ấy thấy Hương là người hiếu-thảo, làm sớ tâu lên vua Hán ban cho Hương tấm biển chữ vàng là người con hiếu-hạnh.
Đông nhật ôn khâm noãn,
Viên thiên phiến chẩm lương,
Nhi đồng tri tử chức,
Thiên cổ nhất Hoàng Hương.
Dịch Nghĩa:
Mùa đông thì ủ cho ấm chăn,
Mùa nực thì quạt cho mát gối,
Trẻ thơ đã biết đạo làm con,
Nghìn xưa chỉ có một Hoàng Hương mà thôi.
Dịch Thơ:
Đông thì ủ ấm chiếu-chăn,
Hè thì quạt mát mọi phần nồng-oi,
Trẻ thơ đã biết hiếu rồi,
Nghìn thu chỉ có một người không hai.
16. Vương Thôi
Vương Thôi người nước Ngụy (đời Tam-quốc) cha ông làm quan triều Ngụy, sau Tây-Tấn diệt Ngụy, thống nhất thiên-hạ, cha ông bị Tây-Tấn giết hại, ông thương xót quá, phục ở bên mộ mà khóc mãi, đến nỗi nước mắt của ông chảy ra thấm xuống gốc cây trắc bên mồ tươi lại. Cả đời ông không bao giờ ngồi ngảnh mặt về hướng tây (vì Tây-Tấn ở về phương tây ), để tỏ ý ông không làm tôi nhà Tây-Tấn. Mẹ ông lúc sinh thời hay sợ sấm, nên khi mẹ ông chết rồi, hễ khi nào mưa có sấm, ông lại ra áp mồ và khấn rằng: " có con ở đây rồi", để cho vong hồn mẹ khỏi sợ. Ông là người tài giỏi, vua nhà Tây-Tấn thường mời ra làm quan, ông nhất định không chịu ra, ở nhà mở trường dạy học, mỗi khi ông giảng sách cho học-trò, đến thiên Lục-nga trong Kinh Thi có câu rằng : phụ hề sinh ngã thì ông lại thương cha chảy nước mắt khóc. Vì thế, học-trò cũng cảm-động, bỏ thiên Lục-Nga không dám đọc đến nữa.
Từ mẫu phạ văn lôi,
Băng hồn túc dạ đài,
Át hương thời nhất chấn,
Đáo mộ nhiễu thiên hồi,
Dịch Nghĩa:
Mẹ hiền sợ nghe sấm
Hồn thơm nằm dưới suối vàng,
Khi thấy có tiếng sấm động,
Đến mồ mẹ di quanh nghìn lần.
Dịch Thơ:
Mẹ xưa tính sợ sấm vang,
Hồn thơm ở dưuới suối vàng những lo.
Mỗi khi mưa gió sấm to,
Thân ra ấp mộ quanh-co nghìn vàng.
17. Ngô Mãnh
Ngô Mãnh sinh vào đời nhà Tấn, lên 8 tuổi, thờ cha mẹ rất hiếu, nhà nghèo, mùa hè nhiều muỗi, không có tiền mua màn, ông sợ cha mẹ bị muỗi đốt không ngủ được, ông cởi trần nằm cho muỗi đốt, không dám xua, sợ rằng nếu mình xua đi thì muỗi lại đến đốt cha mẹ chăng ?
Hạ dạ vô văn trướng,
Văn đa bất cảm huy,
Tứ cừ bão cao huyết,
Miễn sử nhập thân vi.
Dịch Nghĩa:
Đêm mùa hè không có màn,
Muỗi nhiều không dám xua,
Cho nó đốt no máu của mình,
Để nó khỏi đến chỗ cha mẹ nằm.
Dịch Thơ:
Đêm hè lắm muỗi không màn,
Tha hồ muỗi đến hàng đàn vo ve,
Trần mình cho muỗi no-nê,
Hai thân được ổn giấc hòe là hơn.
18. Vương Tường
Vương Tường sinh vào đời nhà Tấn, mẹ chết sớm, ở với cha, bị mẹ kế cay nghiệt, ngày thường xúi-giục, làm cho cha ông ghét bỏ ông, nhưng ông vẫn dốc lòng hiếu-thảo với cha và mẹ kế. Mùa đông nước đóng váng, mẹ kế muốn ăn cá tươi, ông cởi trần nằm trên váng nước, để tìm cá, bỗng tự nhiên váng nước nứt đôi ra, có hai con cá chép nhảy lên, ông đem về cho mẹ kế xơi. Thấy ông hiếu-thảo như thế, sau cha và mẹ kế ông cảm-động, lại yêu-quý ông lắm.
Kế mẫu nhân-gian hữu
Vương Tường thiên-hạ vô,
Chí kim hà thượng thủy,
Nhất phiến ngọa băng vô.
Dịch Nghĩa:
Mẹ kế thì nhân-gian thường có.
Hiếu như Vương Tường thì thiên-hạ không có ai,
Đến bây giờ ở trên sông
Chả có ai nằm trần mình trên váng nước cả.
Dịch Thơ:
Nhân-gian mẹ kế là thường,
Lòng con hiếu tựa Vương Tường có đâu !
Gẫm xem từ đấy về sau,
Nằm trên váng nước sâu mấy người.
19. Dương Hương
Dương Hương sinh vào đời nhà Tấn, mới 14 tuổi, tính rất hiếu, cha đi đâu cũng theo đi hầu. Có một hôm, hai cha con cùng đi thăm ruộng đường xa, giữa đường gặp con hổ nhảy sổ đến định vồ cha ông, ông tay không, quyết xông vào dánh nhau với hổ, hổ phải bỏ chạy, cha con đều được vô sự cả
Thâm sơn phùng bạch ngạch,
Nỗ lực bác tinh phong,
Phụ tử câu vô dang,
Thoát ly hổ khẩu trung.
Dịch Nghĩa:
Chốn rừng sâu gặp con hổ trắng má,
Cố sức đánh đuổi giống hôi-tanh,
Cha con đều vô sự cả,
Khỏi được tai-nạn bị hổ ăn thịt.
Dịch Thơ:
Giữa rừng gặp cọp tay không,
Dù rằng thú dữ quyết xông đánh liền,
Cha con đều được bình-yên,
Miệng hầm đã thoát đoàn viên cùng về
20. Mạnh Tông
Mạnh Tông người ở Giang-hạ, về đời Tam-quốc, mồ côi cha, ở với mẹ, tính rất hiếu. Một hôm mẹ bị ốm, thèm ăn canh măng, nhưng vì khi ấy đương mùa đông, khó tìm được măng, ông lần vào rừng tre, một mình ngồi khóc, bỗng chốc có mấy giò măng mọc ở dưới đất lên, ông đem về nấu canh cho mẹ xơi, rồi mẹ khỏi ốm.
Lệ khấp sóc phong hàn,
Tiêu tiêu trúc sổ can,
Tu du đông duẩn xuất,
Thiên ý báo bình an,
Dịch Nghĩa:
Ngồi khóc trong khi gió bấc rét nặng.
Lèo tèo có mấy cây tre,
Phút chốc măng mùa đông mọc ra.
Ý trời cho mẹ được khỏi bệnh.
Dịch Thơ:
Mùa đông gió bấc lạnh lùng,
Một mình sùi-sụt trong vùng rừng tre,
Bỗng đâu măng mọc đem về,
Mẹ xơi, bệnh đã mọi bề tiêu-tan.
21. Sưu Kim Lâu
Kim Lâu người nước Tề, tính rất hiếu, được bổ làm thái-thú ở quận Bình-lăng, đến nhận chức chưa dược 10 hôm, bỗng tự nhiên thấy tâm thần bàng-hoàng, mồ hôi chảy ra như tắm, ông biết là ở nhà có việc chẳng lành, bèn từ chức về quê; khi về đến nhà thì cha bị ốm đã 2 ngày, ông thấy thầy thuốc nói rằng: "những người ốm mà phân đắng thì dễ chữa, không đáng lo ngại. Ông lấy làm lo-ngại, cứ đêm đêm 3 lần đốt hương hướng về sao Bắc-đẩu mà khấn, xin chết thay cho cha. Sau nằm thấy có người cầm một thẻ vàng có mấy chữ: "sắc trời cho bình-an". Ngày hôm sau cha ông được qua khỏi .
Đào huyện vị tuần nhật,
Xuân-đình tao tật thâm,
Nguyện tương thân đại tử,
Thường phẩn khởi ưu tâm.
Dịch Nghĩa:
Làm quan đến nhậm chức chưa được 10 ngày,
Cha ở nhà bị đau nặng.
Xin lấy mình chết thay cho cha,
Nếm phân sinh lòng lo-ngại.
Dịch Thơ:
Tới huyện nha, chưa bao lâu,
Xuân-đường thoát bị bệnh đau ở nhà,
Khấn trời xin chết thay cha,
Nếm phân thấy ngọt biết là bệnh nguy
22. Thôi phụ Đường-thị
Đường-thị là vợ một nhà họ Thôi, thờ mẹ chồng rất hiếu, mẹ chồng tuổi già răng móm, không nhai được cơm. Đường-thị cứ hàng ngày tắm-rửa sạch-sẽ, rồi đến cho mẹ chồng bú; hằng mấy năm mẹ chồng không phải ăn cơm mà cũng no. Cảm ơn ấy mẹ chồng không biết lấy gì đáp lại, khi mẹ chồng sắp chết, có khấn nguyện với trời xin cho con cháu dâu nhà họ Thôi ngày sau, ai ai cũng được hiếu-thảo như Đường-thị cả. Rồi sau các con-cháu dâu nhà họ Thôi bắt chước nhau người nào cũng hiếu-thuận. Vì thế, nhà họ Thôi được hưng-thịnh.
Hiếu báo Thôi gia phụ,
Nhũ cơ thân quán sơ,
Thử ân vô dĩ báo,
Nguyện đắc tử tôn như.
Dịch Nghĩa:
Vợ họ Thôi ở có hiếu với mẹ chồng.
Hành ngày tắm rửa rồi cho mẹ chồng bú,
Ơn ấy mẹ chồng không lấy gì báo lại,
Khấn trời mong cho con cháu dâu của Đường-thị lại hiếu-thảo với Đường-thị.
Dịch Thơ:
Dâu họ Thôi hiếu-thảo thay,
Cho mẹ chồng bú, hằng ngày tắm lau,
Giả ơn khấn nghuyện về sau,
Dâu nào cũng hiếu như dâu họ Đường.
23. Chu Thọ Xương
Chu Thọ Xương sinh vào đời nhà họ Tống, ông là con vợ thứ, năm ông lên 7 tuổi, thì mẹ đích ông đuổi mẹ ông đi, sau ông được làm quan, nghĩ đến công mẹ đẻ khó nhọc, nay mình được sung-sướng, để mẹ đẻ lưu-lạc trong lòng không đang. Ông quyết từ quan đi tìm mẹ đẻ. Trước khi đi, ông có thề rằng: "nếu không tìm thấy mẹ, thì chết cũng đành". Sau ngẫu nhiên đi đến Đồng-châu thì mẹ con gặp nhau. Mẹ con xa cách nhau đã 50 năm nay lại được gặp nhau, rất là vui-vẻ, ông bèn đem mẹ về phụng-dưỡng.
Thất tuế sinh ly mẫu,
Sâm Thương ngũ thập niên,
Nhất triêu tương kiến diện,
Hỷ khí động Hoàng Thiên.
Dịch Nghĩa:
Lên 7 tuổi bị lìa xa mẹ đẻ,
Như sao hôm sao mai đã 50 năm trời,
Một sớm được thấy mặt nhau,
Vui-mừng cảm-động đến trời.
Dịch Thơ:
Mẹ con chia rẽ đôi nơi,
Sâm Thương xa cách năm-mươi năm tròn,
Bỗng đâu mẹ lại gặp con,
Mừng này ai biết hãy còn hôm nay.
24. Hoàng Đình Kiên
Hoàng Đình Kiên sinh vào đời nhà Đường, làm quan đến chức Thái-sử (quan coi việc chép sử) thờ cha mẹ rất hiếu, tuy mình làm quan sang, có nhiều đầy-tớ hầu-hạ nhưng các đồ của cha mẹ dùng để đại tiểu tiện, dù dơ-bẩn đến đâu, ông cũng tự tay rửa lấy, không sai người nhà lau rửa bao giờ cả.
Quý hiển văn thiên-hạ,
Bình sinh hiếu sự thân,
Thân thân địch niệu khí,
Bất dụng hoán gia-nhân.
Dịch Nghĩa:
Giàu-sang thiên-hạ ai cũng biết tiếng,
Ngày thường thờ cha mẹ rất hiếu,
Chính tay mình rửa đồ để đại tiểu tiện của cha mẹ,
Không sai người nhà làm việc ấy bao giờ cả.
Dịch Thơ:
Dù mình chức trọng quyền cao,
Tấm lòng hiếu-thảo khi nào dám sai,
Đồ thân dùng dẫu bẩn hôi,
Tay rửa lấy, chẳng sai ai bao giờ.