Thứ Sáu, 20 tháng 2, 2015

mau ghi danh cung sao hoi

GI ÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM                                                           DANH SÁCH CẦU AN
            TT. Đ ỊNH QUANG                                                                         DƯƠNG SAO GIẢI HẠN
ẤP 2 - XUÂN T ÂY - CM M - ĐỒNG  NAI                                               NĂM ẤT MÙI: DL 2015
 ĐT: 0938128790 - Email:thichgiacvinh@gmail.com


 
Họ và Tên:…………………………Pháp Danh:…………………………
Đ ịa Chỉ:…………………………………………….....................................
Số Điện Thoại:……………………Email:…………………………………



STT

Họ Và Tên
Pháp Danh
Tuổi
Nam/Nữ
Sao
Hạn

1







2







3







4







5







6







7







8







9







10







11







12






13






14






15






16







Chủ Nhật, 8 tháng 2, 2015

nam bai giang mau



SÁM HỐI
A. Mỡ đề.
B. Chánh đề.
   II. Định nghĩa danh từ Sám hối.
   III. Các cách sám hối.
       1. Cách sám hối của thế gian và các tôn giáo.
       2. Cách sám hối của đạo Phật: có bốn cách.
           a. Tác Pháp Sám Hối     
           b. Thủ Tướng Sám Hối     
           c. Hồng Danh Sám Hối   
          d. Vô sanh Sám Hối: có hai cách.
              Quán pháp vô sanh.
              Quán tâm vô sanh.
                 3. Làm nhiều việc lành để sám hối.
              V. Lợi ích của pháp sám hối.
                 1. Luôn được mọi người hoan hỷ, tán dương.
                 2. Tiêu trừ được tội lỗi nghiệp chướng.
       3. Thân tâm được nhẹ dàng thảnh thơi.
       4. Sự tu tập mau tiến bộ.
    V. Ứng dụng pháp sám hối vào đời sống tu tập.
       1. chọn phương pháp sám hối phù hợp.
       2. Tin tấn tu hành, làm nhiều việc lành
C. Kết luận.















SÁM HỐI
A. Mỡ đề
Chúng ta ai không có tội, dù không có tội lớn thì cũng có tội nhỏ, nếu như không có tội lỗi, nghiệp chướng thì ta đâu có sanh ở cõi đời ngũ trược ác thế này. Vậy muốn làm cho tội lỗi, nghiệp chướng của mình được tiêu trừ, thì chúng ta phải tìm phương pháp để tẩy trừ chúng. Phương pháp này Đức Phật, chư Tổ đã chỉ dạy trong Tam tạng kinh điễn đó là pháp Sám hối. Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu pháp Sám hối này.
B. Chánh đề
  II. Định nghĩa danh từ Sám hối
Chữ "Sám", tiếng Phạn gọi là Samma; Tàu dịch là "Hối quá". Kinh nói: "Sám giả sám kỳ tiền khiên, Hối giả hối kỳ hậu quá". Nghĩa là Sám là ăn năn lỗi trước, còn hối là chừa bỏ lỗi sau.
Như vậy Sám Hối có nghĩa là ăn năn, hối hận những lỗi lầm trong quá khứ; bất luận là lâu mau, và nguyện bây giờ về sau, mình không tái phạm nữa.
 III. Các cách sám hối
      1. Tác Pháp Sám Hối
Phương pháp này là đối trước Chư Tăng thanh tịnh, thưa lên những lỗi lầm của mình và cầu xin sám hối, và hứa từ nay về sau không tái phạm lại nữa.
      2. Thủ Tướng Sám Hối
Phương pháp này là đối trước tượng Phật hay Bồ Tát lễ lạy, hổ thẹn ăn năng cầu xin sám hối. Mình thành tâm, tha thiết hướng về Phật, Bồ Tát cầu xin các Ngài chứng minh, gia hộ, hộ niệm cho mình tiêu trừ tội lỗi. Cứ như vậy ta lễ lạy, sám hối từ một ngày, hai ngày, bảy ngày cho đến bốn mươi chín ngày. Sám hối cho đến khi nào thấy được hảo tướng thì tội mới tiêu diệt. Hảo tướng là thấy hoa sen, thấy hào quang, thấy chư Phật, chư Bồ Tát xoa đầu v.v…
      3. Hồng Danh Sám Hối
Là phương pháp sám hối thông lệ vào mỗi tối ba mươi và mười lăm ở các chùa. Phương pháp sám hối này là lễ lại lễ lạy 108 vị Phật để thành tâm sám hối tội lỗi nghiệp chướng nhiều đời nhiều kiếp.      
      4. Vô sanh Sám Hối: có hai cách là quán pháp vô sang và quán tâmsanh
          Quán pháp vô sanh
Nghĩa là quán chiếu các pháp vô thường, sanh diệt, giả dối không thật. Con người chúng ta do thấy các pháp là thật nên tham đắm rồi chạy theo nó nên tạo vô số tội lỗi. Nay chúng ta quán chiếu thấy các pháp giả dối không thật, vì thấy không thật nên ta không tham đắm, mà không tham đắm nên không chạy theo do đó nên không gây tạo tội lỗi, nghiệp chướng.
          Quán tâm vô sanh
Tâm có hai loại là chơn tâm và vọng tâm. Do vì chúng ta sống theo vọng tâm, mà vọng tâm thì phiền não, điên đảo, vô minh, đầy dẫy tham sân si. Chơn tâm thì thanh tịnh, sáng suốt, thường hằng. Ta sống theo vọng tâm giả dối, vô minh nên mới tạo vô số tội lỗi rồi chịu nhiều khổ đau. Bây giờ ta trỡ về sống với chân tâm của thanh tịnh, sáng suốt, bất sanh bất diệt thì không bị vô minh, phiền não, nghiệp chướng sai sử, trói buột do đó mà không khởi hoặc nghiệp nghiệp nên không có tội lỗi.
            V. Lợi ích của pháp sám hối
               1. Luôn được mọi người hoan hỷ, tán dương
          Nếu như mình có tội mà thành tâm sám hối thì sẽ được mọi người hoan hỷ, tán dương. Ta có tội mà biết ăn năng sám hối thì luôn được các bật trên như cha mẹ, thầy cô, chư Tăng yêu quý, thương mến.
               2. Tiêu trừ được tội lỗi nghiệp chướng
          Chúng ta thường xuyên thành tâm sám hối, thì tội lỗi, nghiệp chướng sớm được tiêu trừ, dễ tiến tu đạo nghiệp giải thoát giác ngộ.
     3. Thân tâm được nhẹ dàng thảnh thơi
Người có tội thì luôn mặc cảm, hỗ thẹn, buồn rầu. Nay thành tâm sám hối thì thanh tâm được nhẹ dàng thảnh thơi. Như người đang gánh nặng mà được đặt gánh nặng xuống.
     4. Sự tu tập mau tiến bộ
Người tu tập gặp nhiều khó khăn là do phiền não, nghiệp chướng, tội lỗi làm chướng ngại. Muốn sự tu tập mau tiến bộ thì trước hết phải sám hối tội lỗi nghiệp chướng. Khi tội lỗi nghiệp chướng tiêu trừ thì sự tu tập mau tiến bộ.
  V. Ứng dụng pháp sám hối vào đời sống tu tập
    1. Chọn phương pháp sám hối phù hợp
Trong bốn phương pháp sám hối trên chúng ta phải tìm phương pháp sám hối phù hợp với mình. Nếu ta là người nghiệp chướng nặng thì phải thường hành pháp đối thú sám hối và hồng danh sám hối.
    2. Tin tấn tu hành, làm nhiều việc lành
Ngoài ra chúng ta tinh tấn tu hành, làm nhiều việc thiện cũng là một phương pháp sám hối. Tất cả tội lỗi là do ba nghiệp thân khẩu ý làm ác mà ra. Nay chúng ta đem ba nghiệp này làm lành, làm thiện thì phước đức của ta càng ngày càng tăng. Đây là cách sám hối thiết thực vậy.
C. Kết luận
Sám hối là pháp thiết thực và quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, nhất là trong đời sống tu tập, nhờ pháp sám hối mà con người biết cải ác làm lành, nhờ pháp sám hối con người cải hoá lòng mình tốt đẹp hơn, làm cho đời sống của mình được hạnh phúc, xã hội được hoà bình, an lạc.
Vậy chúng ta hãy ứng dụng, thực hành phương pháp sám hối để cho tội lỗi, nghiệp chướng của mình sớm được tiêu trừ, đời sống của mình được hạnh phúc, an lạc và sớm được giải thoát giác ngộ trên bước đường tu tập đạo giải thoát giác ngộ.




NGŨ UẨN

A. Mỡ đề
B. Chánh đề
    I. Ðịnh nghĩa
    II. Hành tướng năm uẩn
        1. Sắc uẩn        
        2. Thọ uẩn        
        3. Tưởng uẩn
        4. Hành uẩn
        5. Thức uẩn
    III. Tu tập quán chiếu năm uẩn
       1. Quán chiếu trên cơ sở các pháp ấn.
       2. Quán chiếu năm uẩn do duyên sinh, vô ngã.
              IV. Lợi ích khi hiểu và quán chiếu tu tập năm uẩn
C. Kết luận





















NGŨ UẨN
A. Mỡ đề
Phần lớn con người đau khổ là do không thấy, không biết, không ý thức rõ về bản thân mình, đạo Phật gọi là vô minh. Muốn cho con người hiểu rõ về bản thân mình, mà tự làm chủ lấy mình, để vơi bớt khổ đau đức Phật dạy giáo lý Ngũ uẩn. Ngũ uẩn là giáo lý giải thích, phân tích, chỉ rõ về thân phận con người. Vậy muốn biết giáo lý Ngũ uẩn như thế nào chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu giáo lý này. 
B. Chánh đề
    I. Ðịnh nghĩa
Ngũ uẩn, Phạn ngữ là Pãnca-skandha (Sanskrit), Pãnca khandha (Pàli). Pãnca là năm; Khandha là nhóm, là yếu tố là tích tụ, Ngài Huyền Trang dịch là Ngũ uẩn; Ngài La Thập dịch là Ngũ ấm, ấm nghĩa là ngăn che, chướng ngại (che mất chân tánh) - Năm uẩn được dùng phổ biến hơn.
Năm uẩn là năm yếu tố hay năm nhóm kết hợp lại tạo thành con người gồm có: Sắc uẩn, Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩn, Thọ uẩn và Tưởng uẩn.
    II. Hành tướng năm uẩn
        1. Sắc uẩn (Rùpa-khandha)
Là yếu tố vật chất gồm đất, nước, gió và lửa.
        2. Thọ uẩn (Vedanà-khandha)
Thọ là cảm giác, do sự tiếp xúc giữa giác quan và đối tượng mà sinh ra thọ.
        3. Tưởng uẩn (Sãnnã-khandha)
 Là tưởng tượng, suy ngẫm, tri giác nhận biết sự vật.
       4. Hành uẩn (Sankhàra-khandha)
Hành là sự hành động tạo tác gồm thân hành, khẩu hành và ý hành.
       5. Thức uẩn (Vinnãna-khandha)
Thức là sự nhận thức, hiểu biết, phân biệt sự vật.
    III. Tu tập quán chiếu năm uẩn
       1. Quán chiếu trên cơ sở các pháp ấn
Quán chiếu ngũ uẩn qua Tam pháp ấn là vô thường, vô ngã và Niết Bàn. Vậy ta quán hợp thể ngũ uẩn là vô thường, vô ngã. Khi sự tu tập quán chiếu thành công nghĩa là đạt được vô ngã thật sự thì ta sẽ được tự tại, Niết Bàn.
       2. Quán chiếu năm uẩn do duyên sinh, vô ngã
Ngũ uẩn là do năm phần là sắc, thọ, tưởng, hành, thức hợp thành. Nó do năm yếu tố hợp thành vậy nó là duyên sanh, nó duyên sanh nên vô ngã. Khi ta thấy rõ nó là vô ngã vậy ta không nên tham đắm, cố chấp, bảo thủ năm uẩn, nhờ vậy mà ta từ từ sẽ thoát khỏi khổ đau.
              IV. Lợi ích khi hiểu và quán chiếu tu tập năm uẩn
          Chúng ta khổ đau là do không hiểu, không biết, không làm chủ được mình. Nay nhờ Phật dạy cho ta biết thân này là do hợp thể ngũ uẩn tạo thành. Vậy là ta biết rõ được bộ mặt thật của thân tâm mình. Ta biết, thấy rõ được thân tâm của ta thì ta sẽ bớt khổ đi một phần. Nhưng muốn diệt tận khổ đau thì phải tu tập, quán chiếu ngũ ngũ vô thường, vô ngã. Khi sự tu tập quán chiếu thành công thì sẽ được ngũ uẩn giai không, khi đó mọi khổ đau sẽ được đoạn trừ, ta sẽ đạt được giải thoát giác ngộ.
C. Kết luận
          Giáo lý Ngũ uẩn đã giải thích, phân tích chỉ rõ thực thể của con người. Nếu ai học giáo lý này sẽ hiểu rõ về mình và sẽ vơt bớt sự khổ đau. Tuy nhiên khi hiểu, biết rõ về mình đây chỉ là giai đoạn đầu, không thể giải thoát hết mọi khổ đau. Muốn giải thoát hết mọi khổ đau thì phải tu tập, quán chiếu đạt đến Ngũ uẩn giai không, vô ngã mới thực sự đoạn tận hết mọi khổ đau. Giai đoạn đầu hiểu rõ ngũ uẩn là giai đoạn Kiến đạo. Giai đoạn quán chiếu tu tập là giai đoạn Tu đạo. Tu đạo mới dức sạch khổ đau thoát khỏi sanh tử.
          Giáo lý Ngũ uẩn có lợi ích to lớn như vậy, chúng ta là hàng Phật tử hãy học tập, và ứng dụng quán chiếu, tu tập để thoát khỏi khổ đau sanh tử luân hồi.



























ĐẠO PHẬT
A.      Dẫn nhập
B.      Nội dung
    I. Định nghĩa
        1. Chữ đạo nghĩa là gì? chữ đạo có ba nghĩa:
            Đạo là con đường.
            Đạo là bổn phận.
            Đạo là lý tánh tuyệt đối, là bản thể.
         2. Chữ Phật nghĩa là gì? Có ba nghĩa
              a. Tự giác
              b. Giác tha
              c. Giác hạnh viên mãn
         3. Đạo Phật nghĩa là gì?
    II. Đạo phật có từ lúc nào?
          1. Về phương diện bản thể hay lý tánh tuyệt đối
          2. về phương diện lịch sử
     III. Ai khai sáng ra đạo Phật
     IV. Giáo lý đạo Phật như thế nào?
         1. Kinh
         2. Luật
         3. Luận
    V. Sự truyền bá của đạo Phật
    VI. Lợi ích của đạo Phật
         1. Chơn thường
         2. Chơn lạc
         3. Chơn ngã
         4. Chơn tịnh
C. Kết luận











ĐẠO PHẬT
A. Dẫn nhập
Thông thường, mỗi khi làm một việc gì hay một nghề nghiệp nào thì chúng ta phải biết rõ công việc đó, nghề nghiệp đó vậy sau chúng ta mới làm. Ở lĩnh vực tôn giáo cũng vậy, muốn theo một tôn giáo nào thì chúng ta phải tìm hiểu kỷ tôn giáo đó, nếu không tìm hiểu mà chúng ta tin theo, tu đại thì dễ lạc vào đường tà. Qua nội dung bài này, chúng ta sẽ tìm hiểu Đạo Phật.
C.     Nội dung
   I. Định nghĩa Đạo Phật
      1. Đạo: có ba nghĩa:
        Đạo là con đường: như Nhân đạo, Thiên đạo là con đường đưa đến cõi người, cõi trời.
        Đạo là bổn phận: là bổn phận của mọi người phải làm như bổn phận làm con, bổn phận làm cha.
        Đạo là lý tánh tuyệt đối, là bản thể: Lý tánh tuyệt đối của các pháp là pháp. Lý tánh tuyệt đối của  chúng sanh là, pháp tánh hay chân tâm thì tồn, bất diệt, nó có từ vô thỉ đến vô chung.
      2. Phật
Chữ Phật là Bouddha, dịch nghĩa là giác giả. Giác có ba bậc:
        a. Tự giác
Phật là bậc đã đoạn tận vô minh phiền não, nên Ngài đã đạt giác ngộ hoàn toàn. 
        b. Giác tha
Ngài đã giác ngộ và đem điều  giác ngộ chỉ dạy cho chúng sanh được giác ngộ.
        c. Giác hạnh viên mãn
Công việc tự lợi, lợi tha nghĩa là sự tu tập và việc giáo hóa lợi ích chúng sanh Ngài tròn đầy, viên mãn.
      3. Đạo Phật
Vậy Đạo Phật là con đường đưa chúng sanh đến giác ngộ giải thoát, đưa chúng sanh trỡ về bản tánh thanh tịnh sáng suốt.
   II. Đạo phật có từ lúc nào?
      1. Về phương diện bản thể hay lý tánh tuyệt đối
Về phương diện bản thể hay lý tánh tuyệt đối đạo Phật có từ vô thỉ, từ khi có vũ trụ, chúng sanh thì có đạo Phật, vì đạo Phật chính là lý tánh tuyệt đối của các pháp.
        2. Về phương diện lịch sử
Về phương diện lịch sử thì đạo Phật có từ lúc thái tử Tất Đạt Đa thành đạo, nghĩa là cách đây hơn hai ngàn năm trăm năm.
   III. Ai khai sáng ra đạo Phật
Người khai sáng ra đạo Phật chính là Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
Lúc chưa thành đạo Ngài con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Gia. Ngài ra đời được bảy ngày thì mẹ chết và được di mẫu Ma Ha Bà Xà Bà Đề nuôi dưỡng. Đến tuổi trưởng thành Ngài cưới công chúa Gia Du Đà La và có một con là La Hầu La. Tuy Ngài sống trong cung vàng, điện ngọc, vợ đẹp con xinh nhưng Ngài vẫn ưu tư, trăn trỡ về kiếp sống nhân sinh, về cảnh sanh lão bệnh tử khổ đau của kiếp người. Do sự thôi thúc này nên cuối cùng Ngài đã vượt thành đi xuất gia để tìm đường cứu khổ cho mình và chúng sanh.
Sau năm năm tầm đạo, sáu năm tu khổ hạnh, bốn mươi chín ngày thiền định dưới cội Bồ Đề cuối cùng Ngài đã giác ngộ chứng vô thượng cánh đẳng chánh giác. Từ đó Ngài đem giáo pháp giác ngộ chỉ dạy chúng sanh.
Ngài hoằng pháp độ sanh được bốn mươi chín năm, sống được tám mươi tuổi. Ngài nhập Niết Bàn ở rừng Ta La song thọ.
   IV. Giáo lý đạo Phật
Giáo lý đạo Phật được kết tập lại thành Tam tạng là Kinh, Luật và Luận.
     1. Kinh
Kinh là những lời Đức Phật chỉ dạy, hay những lời các vị Thánh, được Đức Phật ấn chứng viết lại để lưu truyền gọi là Kinh.
     2. Luật
Luật là những lời Đức Phật chỉ dạy liên quan đến những điều lệ, những quy luật, những giới cấm để cho Phật tử giữ gìn được viết lại.
     3. Luận
Luận là những lời giải thích tạng kinh và tạng luật của các vị tổ sư được viết lại.
   V. Sự truyền bá của đạo Phật
Lúc đầu, đạo Phật chỉ truyền trong Ấn Độ. Đến TK II vua A Dục phái những phái đoàn đến các nước khác ngoài Ấn Độ để truyền đạo, và kể từ đó đến nay, đạo Phật đã truyền bá khắp thế giới.
   VI. Lợi ích của đạo Phật
     1. Chơn thường
Tất cả muôn sự muôn vật đều vô thường sanh diệt. Nhưng trong cái sanh diệt có cái không sanh diệt đó là chơn tâm, bản tánh của chúng sanh. Đạo Phật có phương pháp dạy con người trỡ về chơn tâm, bản tánh của mình. Ai trỡ về sống được chơn tâm thì sẽ được chơn thường vĩnh cữu.
     2. Chơn lạc
Chơn tâm, bản tánh nó thanh tịnh, sáng suốt, không có phiền não khổ đau. Vì vậy ai trỡ về sống được với bản tánh ấy thì sẽ được an lạc, giải thoát.
     3. Chơn ngã
Thân tứ đại của chúng sanh là do vật chất tạo thành nên nó vô thường sanh diệt. Trong thân vô thường này có chơn tâm, bản tánh thì chân thật, thường hằng, nó không bị vô thường chi phối. Vậy bản tánh này là chân ngã của chúng sanh.
     4. Chơn tịnh
Chơn tâm, bản tánh không có ô uế, cấu nhiễm, nó thanh tịnh, sáng suốt. Đạo Phật dạy cách tu tập để đạt được chân tâm này. Nếu ai đạt được thì sẽ được an tịnh, giải thoát.
C. Kết luận
Qua sự tìm hiểu ở trên, chúng ta chúng thấy đạo Phật là một tôn giáo lớn, có lịch sử lâu dài, giáo lý của đạo Phật chứa đầy chất liệu từ bi và trí huệ. Mục đích của đạo Phật là ban vui cứu khổ chúng sanh, đạo Phật như chiếc thuyền đưa chúng sanh từ bến mê, biển khổ đến bờ giải thoát an vui.
Ngày nay, thế giới đang trên đà xuống dốc về đạo đức. Nạn khủng bố lan tràn khắp nơi, con người luôn sống trong hồi hộp la âu. Bây giờ thế giới cần một tôn giáo đem lại nền đạo đức, hoà bình thế giới, tôn giáo mà thế giới cần không tôn giáo nào bằng đạo Phật,  đạo Phật chính là tôn giáo đem lại sự hạnh phúc, an lạc thế giới.























QUÁN VÔ NGÃ VÀ QUÁN TỪ BI

A. Mở đề
B. Chánh đề
Quán Vô ngã
    I. Ðịnh nghĩa quán Giới phân biệt
    II. Phân giải 18 giới
        1. Sáu căn
        2. Sáu trần
        3. Sáu thức
    III. Phương pháp quán 
        1. Quán sát sự liên hệ giữa căn, trần và thức.
        2. Quán sát sự giả dối của căn, trần và thức.
            a. Sáu căn là ngã chăng?
            b. Sáu trần là ngã chăng?
            c. Sáu thức là ngã chăng?
    IV. Lợi ích của pháp quán giới phân biệt
Quán Từ bi
    I. Định nghĩa
    II. Phương pháp quán Từ bi 
        1. Chúng sinh duyên từ
        2. Pháp duyên từ
        3. Vô duyên từ
    V. Lợi ích của pháp quán Từ bi 
C. Kết Luận












QUÁN VÔ NGÃ VÀ QUÁN TỪ BI
A. Mở đề
Chúng ta do si mê nhận lầm thân tâm này là thật, là của mình nên mới chìm đắm trong sanh tử luân hồi. Lại do lòng sân hận, tâm độc ác nên khởi hoặc tạo nghiệp mà đọa trong tam đồ ác đạo. Đức Phật thương sót, Ngài dạy cho chúng ta hai phương pháp đối trị hai loại phiền não này, để được tự tại giải thoát, hai phương pháp này là, Quán vô ngã và Quán từ bi. Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu hai phương pháp này.
B. Chánh đề
Quán vô ngã
Đầu tiên chúng ta tìm hiểu pháp Quán vô ngã. Quán vô ngã có rất nhiều pháp quán, nhưng có pháp quán căn bản nhất là, pháp Quán giới phân biệt. Vậy Quán giới phân biệt như thế nào?
  I. Ðịnh nghĩa quán Giới phân biệt
Quán Giới phân biệt: Giới có ý nghĩa là giới hạn, là phạm vi phân chia phần này với phần khác, bộ phận này với bộ phận khác. Ví dụ như trong vật phân chia ra nhiều loại: loại màu sắc, loại âm thanh, loại mùi vị v.v… Hay trong con người, các bộ phận tiếp xúc với ngoại cảnh, như mắt, tai, mũi, lưỡi... là những Giới riêng biệt.
Trong thế giới Ta Bà gồm những vật hữu hình và vô hình này, mặc dù có thiên hình vạn trạng, nhưng theo triết lý của đạo Phật, thì có thể chia ra làm mười tám giới (loại, phạm vi). Vận dụng trí tuệ để quan sát, nhận định từng phạm vi, từng giới một trong mười tám giới ấy, để xét xem thử có một cái ngã trường tồn bất biến, duy nhất hay không, đó tức là quán Giới phân biệt.
  II. Phân giải 18 giới
    1. Sáu căn
Sáu căn là mắt tai mũi lưỡi thân ý.
    2. Sáu trần
Sáu trần là sắc thanh hương vị xúc pháp.
    3. Sáu thức
Sáu thức là nhãn thức, nhĩ thứ, tỉ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức.
  III. Phương pháp quán 
    1. Quán sát sự liên hệ giữa căn, trần và thức.
Căn trần thức liên quan mật thiết với nhau. Ví dụ mắt nhìn thấy sắc rồi sinh ra phân biệt đẹp xấu. Nếu không có mắt thì không nhìn thấy, ngược lại sắc không có thì có mắt cũng chẳng thấy vật gì nên nhãn thức không sinh. Vậy mắt, trần hai thứ này hòa hợp sinh ra nhãn thức nên ba căn này liên quan, hổ tương lẫn nhau.
    2. Quán sát sự giả dối của căn, trần và thức.
      a. Sáu căn là ngã chăng?
Quán sát xem căn có phải là ngã không. Căn là mắt tai mũi lưỡi thân ý. Năm căn đầu là do đất nước gió lửa tạo thành. Nó vô thường sanh diệt. Ý căn thì suy nghĩ tính toán lung tung, dòng suy nghĩ này khi có khi không. Vậy sáu căn không phải là ngã. Vì là ngã thì phải còn hoài, không hư hoại, nhưng nó không phải vậy.
      b. Sáu trần là ngã chăng?
Sáu trần là sắc thanh hương vị xúc pháp. Trần là vật bên ngoài không phải của mình nên cũng không phải ngã.
      c. Sáu thức là ngã chăng?
Thứ là do căn trần hòa hợp mà sanh, pháp mà do duyên sanh nên nó vô thường giả dối không thật. Vậy thức không phải là ngã.
  IV. Lợi ích của pháp quán giới phân biệt
Quán giới phân biệt chúng ta biết được thân ngũ uẩn này là giả dối không thật, vô ngã. Vì vậy mà ta không còn tham chấp, bám víu vào thân ngũ uẩn này nên ta sẽ bớt khổ và hết khổ.
Quán Từ bi
  I. Định nghĩa
Từ là ban vui, Bi là cứu khổ, vậy Từ bi là ban vui cứu khổ chúng sanh.
  II. Phương pháp quán Từ bi 
Quán Từ bi có ba từng bậc thấp cao, tùy theo căn cơ của ba hạng tu hành:
    1. Chúng sinh duyên từ
Chúng sinh duyên từ, nghĩa là lòng từ bi do quán sát cảnh khổ của chúng sinh mà phát khởi.
    2. Pháp duyên từ
Pháp duyên từ là lòng từ bi do duyên "Pháp tánh" mà phát khởi. Nghĩa là quán mình và chúng sanh đồng một Pháp giới tánh nên chúng sanh khổ là mình khổ…
    3. Vô duyên từ
Vô duyên từ, là lòng từ bi không có tâm năng duyên và cảnh bị duyên, không còn dụng công, không còn quan sát, đối đãi giữa mình với người, mình và vật như hai thứ từ bi trước. Lòng từ bi này xứng theo thể tánh chơn tâm mà tự khởi ra bao la, trùm khắp, không thiên lệch một nơi nào.
  V. Lợi ích của pháp quán Từ bi 
Pháp quán từ bi giúp ta dối trị sân hận oán thù. Quán từ bi làm cho ta tăng tưởng tình thương yêu. Quán từ bi sẽ đem lại cho ta, gia đình, xã hội được an lạc, hạnh phúc.
C. Kết Luận
Nói chung, chúng ta là chúng sanh, là phàm phu nên rất nhiều phiền não nghiệp chướng. Trong những thứ phiền não nghiệp chướng này, hai thứ làm cho chúng ta khổ não nhất là sự si mê chấp ngã và tâm địa độc ác. Đức Phật thương sót dạy hai phương pháp này để đối trị. Vậy chúng ta hãy học tập, ứng dụng tu hành hai pháp quán này để sớm được giải thoát giác ngộ, ra khỏi cảnh sanh tử khổ đau này.




VU LAN BỒN
A. Dẫn nhập
B. Chánh Ðề
   I. Ðịnh Nghĩa
   II. Nguyên nhân Phật dạy pháp Vu lan bồn
   III. Phật dạy pháp Vu lan bồn cho ngài Mục Kiền Liên
   IV. Ngài Mục Kiền liên hỏi Phật các hàng Phật tử đời sau có thể làm lễ Vu lan bồn được không?
             V. Tìm hiểu công ơn dưỡng dục sanh thành của cha mẹ
             VI. Cách thức báo hiếu
       1. Báo hiếu sai
       2. Báo hiếu đúng theo tinh thần đạo Phật 
         a. Báo hiếu về vật chất
         b. Báo hiếu về tinh thần
   VI. Lợi ích của pháp Vu lan bồn
C. Kết luận
         
           



              



















VU LAN BỒN
A. Dẫn nhập
Hàng năm cứ đến rằm tháng bảy, là hàng Phật tử làm lễ Vu lan, để tưởng nhớ đến công sanh thành, dưỡng dục của cha mẹ. Đồng thời cầu nguyện cho cha mẹ còn ở đời thì tăng long phước thọ, nếu đã quá vãng được siêu sanh về mền lạc cảnh. Để hiểu rõ về ý nghĩa Lễ Vu Lan, sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu.  
B. Chánh Ðề
  I. Ðịnh Nghĩa hai chữ Vu Lan
Vu Lan nói cho đủ Vu Lan Bồn là phiên âm theo tiếng Phạn. Trung Hoa dịch là: " giải đảo huyền", nghĩa đen là cởi trói người bị treo ngược; nghĩa bóng là cứu vớt những kẻ đau khổ nặng nề như đang bị treo ngược.
  II. Nguyên nhân Phật dạy pháp Vu lan bồn
Ngài Ðại hiếu Mục Kiền Liên, sau khi tu hành chứng được sáu phép thần thông, ngậm ngùi nhớ đến công ơn cha mẹ, Ngài tìm cách báo đáp. Dùng đạo nhãn xem trong thế gian, Ngài nhận thấy mẹ mình sanh làm loài ngạ quỷ, thân thể ốm gầy, da bọc xương, thân hình tiều tụy, bụng lớn, đầu to, cổ nhỏ như ống chỉ, đói khát suốt năm không được ăn uống. Thương xót quá, Ngài liền đem bát cơm đang ăn dâng mẹ. Ngài vận thần thông, bưng bát cơm đi đến chỗ mẹ ở. Bà mẹ khát khao, nên khi được cơm, lòng tham nổi lên, sợ người cướp giựt, lấy tay trái che giấu bát cơm, tay mặt bốc ăn. Bởi lòng tham lam độc ác trong tiền kiếp trước nổi bừng lên, nên cơm mới đưa vào miệng, thì hóa thành ra lửa, bà chẳng ăn được.
Ngài Mục Kiền Liên thấy thế, hết sức đau buồn kêu khóc thảm thiết. Ngài liền trở về bạch Phật, thuật lại như trên và cầu Phật chỉ dạy cho phương pháp cứu độ thân mẫu.
 III. Phật dạy pháp Vu lan bồn cho ngài Mục Kiền Liên
Sau khi nghe Ngài Mục Kiền Liên thỉnh cầu phương pháp báo hiếu, Phật dạy rằng:
" Nầy Mục Kiền Liên! Mẹ của con do lòng tham lam, độc ác đã tạo ra tội lỗi nặng nề trải qua nhiều kiếp, nay sanh trong ác đạo, làm loài ngạ quỷ nên không thể một mình ông cứu độ được. Mặc dù lòng hiếu thảo của ông vô cùng lớn lao, cũng không sao chuyển được hoàn cảnh, chẳng khác gì chiếc thuyền con, không thể chở được tảng đá lớn. Vậy con phải nhờ oai thần của chúng Tăng trong mười phương, đức lớn như biển, mới cứu độ mẹ con được giải thoát. Ta nay sẽ vì con, chỉ dạy phương pháp, khiến cho cha mẹ con xa lìa được các điều tội lỗi.
Nầy Mục Kiền Liên ! Ngày rằm tháng Bảy là ngày Tự Tứ của chư Tăng trong mười phương, sau ba tháng an cư kiết hạ, sách tấn tu hành. Ngày ấy cũng là ngày hoan hỷ của các chư Phật , vì thấy chư Tăng sau ba tháng an cư kiết hạ, đã tiến bộ rất nhiều trên đường tu học, các nghiệp được thanh tịnh, ba món vô lậu học được tăng trưởng, công đức thêm nhiều và đến ngày viên mãn. Vậy con nên nhân ngày ấy làm lễ Vu Lan Bồn để báo hiếu cho mẹ ông.
Con hãy sắm đủ các món trai diên trăm mùi, trái cây năm màu, cùng hương dầu đèn nến, giường chõng, chiếu chăn, mùng mền, quần áo, thau rửa mặt, khăn lau tay; tóm lại là đủ bốn món cúng dường quí báu trong đời. Rồi con phải thân hành đi rước các vị Ðại Ðức Tăng trong mười phương. Con phải thành tâm kính lễ trai Tăng cúng dường và thỉnh cầu chư Tăng chú nguyện cho vong linh mẹ ông được thoát khổ. Nhờ công đức chí thành chú nguyện, vong linh mẹ ông sẽ được siêu thoát. Cũng như tảng đá dù nặng trăm cân, song có nhiều người khiêng, thì dời đi đâu cũng được".
Ngài Mục Kiền Liên vâng lời Phật dạy, đến ngày rằm tháng 7 làm lễ Vu lan, sắm đủ các vật liệu, rước chư Tăng trong mười phương thành tâm kính lễ trai Tăng cúng dường, nên vong mẫu của Ngài được thoát khỏi kiếp ngạ quỷ, sanh về cảnh giới lành.
IV. Ngài Mục Kiền liên hỏi Phật các hàng Phật tử đời sau có thể làm lễ Vu lan bồn được không?
Sau khi thấy thân mẫu được thoát khổ, Ngài Mục Kiền Liên hết sức vui mừng, liền đến trước Phật chấp tay bạch rằng:
Bạch Thế Tôn! Thân mẫu của con được nhờ công đức Tam Bảo và oai thần của chư Tăng, nên được thoát ly kiếp ngạ quỷ khổ não. Vậy về đời sau, trong hàng Phật tử , nếu có người muốn làm lễ Vu Lan Bồn nầy, để cứu độ cha mẹ hiện tại cũng như cha mẹ nhiều kiếp trước, chẳng biết có được không?
Phật dạy rằng:
"Quý lắm! Nầy Mục Kiền Liên! Ðời sau, nếu có được các thầy Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, vua, Thái Tử, các quan tể tướng, những hàng tam công cho đến tứ dân, vì lòng hiếu thảo muốn đền đáp công ơn cha mẹ hiện tại hay quá khứ, thì cứ ngày rằm tháng Bảy là ngày "Phật hoan hỷ", làm lễ Vu Lan nầy, để cúng dường trai Tăng. nhờ công đức của chư Tăng chú nguyện, cha mẹ hiện tại được tăng long phước thọ, khỏi những điều tai hoạn, khổ não,, còn cha mẹ bảy đời trước thì khỏi bị khổ ngạ quỷ, được sanh trong cõi nhơn thiên, hưởng phước vui vẻ không cùng".
Khi đó Ngài Mục Kiền Liên và bốn chúng Ðệ tử hoan hỷ vâng làm. Và từ đó về sau, mỗi năm cứ đến ngày Rằm tháng Bảy, các hàng Phật tử chí hiếu, đều có làm lễ Vu Lan để đền đáp công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ.
V. Tìm hiểu công ơn dưỡng dục sanh thành của cha mẹ
          Như chúng ta đã biết, trong các công ơn, công sanh thành dưỡng dục của cha mẹ lớn lao vô cùng. Ca dao có câu:
“ Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.
          Mẹ chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, suốt đời chỉ biết hy sinh vì con. Khi con khóc mẹ vỗ về an ủi, khi con đau mẹ thao thức lo âu, suốt đêm không ngủ. Gặp cảnh nghèo khó mẹ nhịn đói, nhịn khát để cho con được no bụng ấm lòng. Con lỡ dại, tiểu tiện trên mình, mẹ vẫn vui cười không chút giận hờn. Con lớn khôn, mẹ dạy dỗ, đưa con đến trường, lo gia thất, sự nghiệp cho con. Suốt đời mẹ luôn lo cho con, cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay. Ca dao có câu:
          “Lên non mới biết non cao
          Nuôi con mới biết công lao mẫu từ”.
          Còn cha thì phải lo làm lụng vất vả để nuôi con. Nếu gặp cảnh nghèo khó, cha phải làm thuê, ở mướn, buôn tảo bán tần, đỗ mồ hôi để đổi lấy bát cơm, manh áo cho con. Con khôn lớn, cha dạy dỗ, đào tạo con thành người hữu dụng, khôn ngoan. Cha lại lo cho con công ăn, sự nghiệp, lo dựng vợ, gã chồng để con được yên bề gia thất. Cả cuộc đời cha luôn lo cho con, cho đến ngày vĩnh biệt cỏi đời.  
          Công ơn của cha mẹ lớn lao như vậy, nên từ xưa đến nay con người luôn đề cao chữ hiếu. Người xưa có câu:
          “Thiên kinh vạn quyển, Hiếu nghĩa vi tiên”
          (Ngàn quyển kinh, vạn quyển sách đều lấy Hiếu nghĩa làm đầu)
          Đức Phật cũng dạy:
          “Phụ mẫu tại đường như Phật tại thế”.
          Nghĩa là cha mẹ còn sanh tiền, cũng như Phật còn ở đời. Xem thế, ta thấy Phật đề cao biết bao sự hiện diện quý trọng của cha mẹ. Vì cha mẹ quý trọng như thế, nên Ngài dạy thêm:
          “Hiếu vi vạn hạnh vi tiên”.
          (Hiếu hạnh đứng đầu trong mọi công việc)
          Trong Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới đức Phật dạy:
          Hiếu thuận với cha mẹ, sư tăng, Tam-Bảo. Hiếu thuận là pháp chí đạo. Hiếu gọi là giới, cũng gọi là cấm giới”.  Thật vậy, công ơn của cha mẹ rất lớn, không có bút mực nào tả hết.
          VI. Cách thức báo hiếu
Chúng ta đã biết công ơn của cah mẹ to lớn như vậy. Vậy bổn phận làm con phải biết báo đền công ơn ấy. Nhưng trong lúc báo hiếu, phải có quan niệm sáng suốt, đúng đắn mới thật có lợi ích và hiệu quả.
              1. Báo hiếu sai
          Có người lo cho cha mẹ đầy đủ vật chất nhưng không tỏ lòng cung kính. Hay có người khi cha mẹ qua đời họ giết gà, heo để cúng cha mẹ. Những việc làm trên cũng thể hiên lòng hiếu nhưng lòng hiếu này chưa trọn vẹn, hoặc báo hiếu sai lầm như việc mổ heo cúng tế.
    2. Báo hiếu đúng theo tinh thần đạo Phật 
      a. Báo hiếu về vật chất
Việc báo hiếu đầu tiên là người con phải lo cho cha mẹ cơm ăn áo mặc đầy đủ. Phải lo thuốc thang, hầu hạ lúc cha mẹ già cả, bệnh hoạn. Nhưng chúng ta phải lo bằng tấm lòng tôn kính, hoan hỷ.
      b. Báo hiếu về tinh thần
Ở trên là lo cho cha mẹ về vật chất. lo cho cha mẹ về vật chất là quan trọng, nhưng lo về tin thần lại quan trọng hơn. Nghĩa phải luôn nghe lời cha mẹ, phải lễ phép, kính trọng. Thường xuyên an ũi, động viên làm cho cha mẹ vui.
Khuyên cha mẹ làm lành lánh dữ. Nếu cha mẹ chưa hiểu Phật pháp thì hướng dẫn cha mẹ đến với Phật pháp, hướng dẫn cha mẹ thọ trì Tam quy ngũ giới để cha mẹ tu tập.
  VI. Lợi ích của pháp Vu lan bồn
- Lễ Vu lan bồn nhắc nhỡ chúng ta biết tri ân, báo ân, biết công ơn tổ tiên, ông bà, biết công sanh thành dưỡng dục của cha mẹ.
- Lễ Vu lan bồn cứu độ ông bà, cha mẹ chúng ta ra khỏi cảnh trong chốn tam đồ, ác đạo.
C. Kết luận
          Vu lan bồn là một ngày lễ hội lớn của Phật giáo. Ngày lễ này mang ý nghĩa tri ân, báo ân, nghĩa là ngày hướng về tổ tiên, ông bà, cha mẹ để tìm cách báo đáp.
Tuy chúng ta biết đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ phải luôn luôn biết ơn và luôn tìm cách báo đáp, không phải đợi đến ngày rằm tháng bảy, hay một ngày nào khác mới báo đáp. Nhất là cha mẹ luôn ở bên chúng ta, thì hàng ngày chúng ta phải luôn lo lắng hầu hạ, phụng sự cha mẹ.
Nhưng vẫn có ngày lễ Vu lan bồn, vẫn có rằm tháng bảy, ngày này nhắc nhỡ chúng ta, nhắc nhỡ những ai lỡ quyên công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ, thì hãy hướng về những bậc ấy mà báo đáp.
Nếu mọi người ai cũng biết tri ân và báo ân, sống có hiếu đạo thì cuộc đời này được an lạc hạnh phúc biết dường nào. Vậy kính khuyên mọi người chúng ta, sống phải luôn biết  ân và báo ân, nhất ân đức của cha mẹ. Làm được như vậy thì chúng ta sẽ trỡ thành người tốt, là tấm gương sáng để mọi người học tập trên con đường chân thiện mỹ.