Thứ Tư, 15 tháng 6, 2016

HẠNH NGUYỆN

HẠNH NGUYỆN
...“Kiếp sau, nhờ hạt giống trí tuệ linh thiêng gieo trồng trong kiếp này, con xin được sinh trở lại trong một môi trường có văn hóa, lớn lên được gặp một vị Thầy sáng và được xuất gia từ hồi còn là thiếu nhi. Sáu căn của con đều sẽ được thông lợi và ba nghiệp của con cũng sẽ được thuần hòa. Con sẽ không bị thói đời làm ô nhiễm và con sẽ sống một cuộc đời phạm hạnh thanh cao.
Con sẽ hành trì các giới luật một cách nghiêm minh. Không vướng vào duyên nghiệp thế gian, con sẽ thực tập các uy nghi một cách nghiêm túc và con sẽ biết bảo hộ cho tất cả mọi loài chúng sanh, bắt đầu từ những sinh vật rất nhỏ bé”.
“Con sẽ tu tập theo chánh pháp và liễu ngộ được giáo pháp Đại thừa, nhờ vậy mà con sẽ khai mở được cánh cửa hành động của lục độ và thành tựu được những gì mà các vị hành giả khác phải trải qua ba A tăng kỳ kiếp mới thành tựu được”.
Đọc những đoạn vừa qua các con có thấy đó là một giấc mơ vĩ đại không? Nếu không có hạt giống của bồ đề tâm, nếu không có hạt giống của hạnh nguyện Bồ tát thì làm sao làm phát khởi được một ước muốn vĩ đại như thế?
Các con hãy cùng Thầy đọc tiếp:
“Con sẽ thiết lập được đạo tràng tu học khắp nơi khắp chốn, con sẽ phá tan được muôn trùng mạng lưới của sự nghi ngờ. Con sẽ hàng phục được mọi ma chướng và sẽ truyền lại ngọn đèn chánh pháp để cho ba ngôi Tam Bảo sẽ mãi mãi tiếp tục ngời sáng trong tương lai.
Con sẽ phụ tá cho chư Bụt mười phương mà không bao giờ cảm thấy mệt mỏi; con sẽ tu tập thành tựu được tất cả các pháp môn. Con sẽ thực tập trên cả hai bình diện xã hội và trí tuệ để làm lợi ích cho chúng sanh khắp nơi. Con sẽ đạt tới sáu phép thần thông và sẽ thành tựu được quả vị Phật đà ngay trong một kiếp”.
“Sau đó con sẽ không xa lìa pháp giới; trái lại con sẽ đi vào và có mặt trong vạn nẻo trần gian. Năng lượng từ bi của con sẽ không thua gì năng lượng từ bi của Bồ tát Quan Âm, đại dương hạnh nguyện của con cũng sẽ bao la như đại dương hạnh nguyện của Bồ tát Phổ Hiền”.
“Ngay trong cõi này và ở các cõi khác, con sẽ ứng hiện thành những sắc thân khác nhau để tuyên dương diệu pháp”.
“Nơi những nẻo đường địa ngục và quỷ đói, con sẽ hoặc phóng ra những đạo hào quang lớn, hoặc tự mình hiện thần biến tướng: Bất cứ ai thấy được dung mạo con hoặc nghe đến danh hiệu con đều có khả năng phát tâm bồ đề và lập tức vượt thắng mọi khổ đau của kiếp luân hồi”.
“Những vùng đất cháy khô cằn như vạc lửa, hay những con sông băng tuyết lạnh giá, con sẽ làm cho chúng biến thành những khu rừng thơm”.
“Vào những thời mà tật dịch bệnh khổ lan tràn, con sẽ hóa hiện ra vô số dược thảo thuốc men, chữa lành được cả những chứng bệnh trầm kha, gặp khi nạn đói hoành hành, con sẽ hóa hiện ra gạo lúa dồi dào để giảm nghèo cứu đói”.
“Không có công tác nào làm lợi ích cho nhân gian mà con sẽ từ nan”.
“Sau đó, con sẽ giúp cho tất cả mọi người, trong đó có kẻ thân và người thù trong nhiều kiếp, cùng với bà con quyến thuộc đời này, để ai cũng có thể buông bỏ được những sợi dây ái nhiễm ràng buộc, để cùng với tất cả chúng sinh thực hiện được đạo giác ngộ”.
“Hư không kia còn có thể có giới hạn, nhưng nguyện ước con thì không có chỗ cùng. Con nguyện cho tất cả các loài, hữu tình và vô tình, đều đạt tới quả vị nhất thiết chủng trí”.
Những lời kinh trong Sám văn ngày xưa đã tưới tẩm hạt giống Bồ đề của chú sa di nhỏ vào mỗi buổi sáng công phu. Không biết vì lý do gì mà chú cứ tin là giấc mơ kia sẽ có thể thành tựu, dù chung quanh chú chưa có dấu hiệu nào chứng tỏ được điều đó, và chưa thấy ai đang làm được điều đó.
Lời kinh quá đẹp khiến sau này Thầy đã lấy chữ trong ấy để đặt pháp hiệu cho các vị thọ giới tại Làng Mai.
Ví dụ pháp tự Chân Hương Lâm của Sư thầy Đàm Nguyện ở Hà Nội. Hương lâm là những khu rừng thơm. “Những vùng đất cháy khô cằn như vạc lửa hay những con sông băng tuyết lạnh giá, con sẽ làm cho chúng biến thành những khu rừng thơm - hỏa hoạch băng hà chi địa biến tác hương lâm.”
Thật là vừa nên thơ vừa hợp với ý hướng bảo hộ sinh môi. Lời kinh quá hùng tráng thành thử mình có cảm tưởng mình không còn là một tín đồ đang cầu xin ơn phước, mà là một vị đại sĩ có thần lực độ đời rất vĩ đại:
“Năng lượng từ bi của con sẽ không thua gì năng lượng từ bi của Bồ tát Quan Âm, đại dương hạnh nguyện của con cũng sẽ bao la như đại dương hạnh nguyện của Bồ tát Phổ Hiền - đẳng Quan Âm chi từ tâm, hành Phổ Hiền chi nguyện hải”.
Người trì tụng Sám văn không còn mặc cảm thua kém nữa, và thấy mình cũng có thể làm được những gì mà các vị Bồ tát lớn đang làm.
Những lời kinh như thế làm chấn động cả tâm can của người hành giả. “Bất cứ ai thấy được dung mạo con hoặc nghe đến danh hiệu con đều sẽ có khả năng phát tâm Bồ đề và vĩnh viễn vượt thắng mọi khổ đau của kiếp luân hồi - phàm hữu kiến ngã tướng, nãi chí văn ngã danh, giai phát Bồ đề tâm, vĩnh xuất luân giao hồi khổ.
” Và như thế thì con cũng sẽ không thua bất cứ một vị Phật nào hay một vị Bồ tát lớn nào trong quá trình hành đạo.
Giấc mơ của bài Sám Quy Mạng chỉ là giấc mơ suông hay một giấc mơ có thể biến thành hiện thực?
Nhiều thế hệ hành giả, trong đó có các con, đã từng tụng đọc Sám văn này, và đã có thể từng đặt câu hỏi ấy. Ngày xưa, Thầy không đặt câu hỏi ấy.
Tuy là chung quanh mình chưa thấy dấu hiệu nào chứng tỏ giấc mơ kia có thể trở thành sự thực, nhưng Thầy vẫn ôm ấp giấc mơ đó và tin rằng nó sẽ trở thành hiện thực.
Những thập niên bốn mươi và năm mươi là những thập niên của đói kém của chiến tranh. Giới xuất gia tìm đủ mọi cách để duy trì sự thực tập trong phạm vi chùa viện của mình nhưng cũng đã gặp phải không biết bao nhiêu khó khăn. Ngay những người trẻ trong giới xuất gia cũng bị tù đày, thủ tiêu và áp bức.
Là một thầy tu trẻ Thầy đã từng đọc lịch sử Lý Trần và đã thấy rằng nếu đạo Bụt đã có khả năng giúp cho đất nước hùng mạnh và thái bình trong những triều đại ấy thì đạo Bụt cũng có thể làm được như thế trong thời đại hiện tại. Tại sao không? Đó là câu hỏi của Thầy, dù đạo Bụt vào những thập niên ấy vẫn chưa thoát ra được trạng thái suy đồi cần phải vượt thoát.
Có lẽ cái thấy ấy về đạo Bụt Lý Trần đã cho Thầy một niềm tin rằng giấc mơ của Sám Quy Mạng không phải chỉ là một giấc mơ suông mà là một giấc mơ có thể trở thành hiện thực...
Thầy nghĩ là Thầy trò chúng ta cần đọc tụng Sám văn Quy Mạng ít nhất mỗi tuần một lần, để tâm bồ đề được tiếp tục nuôi dưỡng. Tâm bồ đề là nguyện ước, là giấc mơ của người hành giả chân chính. Tâm bồ đề bị soi mòn thì chúng ta không còn năng lượng để đi tới mà thực hiện giấc mơ.
Khuya nay, trong giờ thiền tọa, chúng ta hãy cùng nhau quán chiếu để thấy rằng giấc mơ kia đang từ từ biến thành hiện thực.
“Kiếp sau xin được làm người, sinh ra gặp pháp sống đời chân tu, dắt dìu nhờ bậc minh sư”, điều này ta đã thực hiện được.

ÐẠI Ý CÁC BỘ KINH THƯỜNG TỤNG

ÐẠI Ý CÁC BỘ KINH THƯỜNG TỤNG

            Mỗi tập kinh Phật thuyết ra đều có ý nghĩa giáo huấn tuỳ với căn cơ của chúng sanh. Do đó, muốn biết công đức của mỗi loại kinh tụng, người Cư sĩ cần phải hiểu đại khái tóm lược ý nghĩa của mỗi cuốn kinh.
            Nhựng bộ kinh thường tụng là: A Di Ðà, Phổ Môn, Dược Sư, Thủy Sám, Ðịa Tạng, Báo Ân, Lương Hoàn, Pháp Hoa. Còn những tập kinh dài như: Lăng Nghiêm, Hoa Nghiêm, Ðại Bát Nhã, Bảo Tích.v.v...thì một phần vừa dài, một phần nghĩa lý thâm sâu nên it người tụng đến.
            Vì vậy, với quan điểm nêu lên những điều thường thức để dễ tìm hiểu, ở đây cũng chỉ tóm lược đại ý các kinh thường tụng để có thể tùy căn cơ từng người, từng sự việc chọn lựa mà đọc tụng.

1/ Kinh A Di Ðà
            Phật thuyết kinh này là chỉ cho chúng sanh biết tại cõi Tây phương có đức Giáo chủ mệnh danh là Phật A Di ÐÀ, cõi nước của ngài có đủ mọi cảnh yên vui sung sướng. Ai tụng kinh A Di Ðà cũng có thể được Phật A Di Ðà tiếp đón về nơi Cực lạc, nhưng điều cốt yếu trong kinh chỉ gồm có một câu là:”nhất tâm bất loạn” nghĩa là Phật dạy: từ một ngày cho đến bảy ngày, làm thế nào để có được nhất tâm nghĩa là châm châm chú chú vào việc nguyện cầu khiến được trong lặng hoàn toàn không loạn động thì người đó khi lâm chung sẽ được đức Phật A Di Ðà cùng các vị thánh chúng  hiện ra trước mắt, nếu người đó tâm không có chút gì điên đảo lập tức được vãng sanh.
            Ðức Phât A Di Ðà còn phát nguyện tiếp dẫn chúng sinh kẻ sống cũng như người thác, nếu ai niệm danh hiệu Ngài đều được tiếp sang tịnh độ.
            Do vậy, Kinh A Di Ðà có công năng siêu độ cho các người quá cố. Ðiều chính là phải làm thế nào cho được nhất tâm bất loạn, nếu không luyện được hẳn hoi bất loạn thì cũng phải có sự chí thành chi kinh, mới mong tự độ và độ cho người khác được.

2/ Kinh Phổ Môn
            Phổ môn là một phẩm (phẩm thứ 25) trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa nói đến ngài Quán Thế Âm Bồ Tát cùng những hạnh nguyện của ngài, ai nghe đến tên, niệm đến danh hiệu thì ứng tiếng mà linh cảm.
            Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát lại thường biến hiện sắc thân thành tất cả các loại chúng sanh để cứu độ cho các chúng sanh. Do vậy, nếu ai mắc tai nạn, gập mọi trở ngại, nhất tâm niệm tụng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát hoặc chuyên tụng kinh Phổ Môn sẽ giải trừ được mọi khổ nạn.
            Ðiều cốt yếu là khi tụng kinh nầy phải thật thành tâm và phải phát nguyện rộng lớn, làm việc bố thí thì mới có hiệu lực.

3/ Kinh Dược Sư
            Kinh này, đức Phật chỉ dạy cho ta mỗi khi đau ốm phải tìm thầy, chạy thuốc chữa bệnh. Thêm vào đó một phương pháp chữa bệnh linh nghiệm không kém, đó là sức tin tưởng. Tụng danh hiệu đức Ðông Phương Giáo Chủ Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật tức là cầu tìm đúng thuốc chữa đúng căn bệnh của mình, không tin những tà ma yêu nghiệt, những bọn thầy pháp chuyên đem chuyện mê tín dị đoan chữa bệnh khiến phải sa đọa vào vòng hoạnh tử. Lại nữa, trong kinh Dược Sư khuyên ta không được nghe sằng, tin nhảm làm bùa làm phép lung tung, giết hại sinh vật cúng cấp thần linh, ma quái. Nếu làm những chuyện như thế chỉ khiến gia tăng tội lệ mà bệnh không những không khỏi, đôi khi còn bị chết oan là khác.
            Vậy phươnh pháp tụng kinh Dược Sư là tăng trưởng lòng tin chân chính của mình mà chữa bệnh cho chính mình, đồng thời phải lo thuốc thang chạy chữa và tránh những kẻ yêu ma lòe bịp cúng thần tróc quỷ, mới mong bệnh hoạn mau lành.
            Tụng kinh này có công hiệu vì những lý do:
            -Ðức tin càng mạnh thì bệnh càng chóng khỏi.
            -Tránh điều mê tín dị đoan để khỏi bị chết vì lầm thầy, lầm thuốc.
            -Tụng kinh tức là thực hiện phương pháp lắng đọng tâm trí, tâm trí lắng đọng không khởi lên dục vọng, phiền não, lo sợ, rầu buồn, lẽ dĩ nhiên bệnh hoạn không do đâu mà phát sinh hay nắng ra được.
            -Tránh giết hại các loài sinh vật tức là giảm bớt tội khiên và cố nhiên đã được hưởng phúc báo, dù có bệnh cũng mau lành mạnh.
            Ðiều cốt yếu là khi tụng kinh này tưởng nên theo phương pháp “tự tha hổ trợ” nghĩa là dùng sức mình tin tưởng và sức người giúp đỡ, sức người tức là sự minh y của ông thầy thuốc hiệp với sức kỳ nguyện của những người tụng kinh thì nhất định mau khỏi bệnh vậy.

4/Kinh Thủy Sám
            Kinh này có ý nghĩa dùng sức sám hối, cũng ví như lấy nước rửa sạch mọi dơ bẩn. Kinh này sở dĩ được trước thuật ra là do ngài Ngộ Ðạt Quốc Sư khi được nhà vua trao cho chiếc sập đàn hương, lại đối xử vô cùng trọng vọng, ngài Ngộ Ðạt khởi lên một chút vọng tâm nên liền gặp tai nạn, đầu gối thốt nhiên mọc lên cái nhọt (mụt) như hình mặt người. Sau nhờ có sư Tri Huyền chỉ cho biết cách lấy nước nơi một giếng khơi trong chốn am thiền lau rửa, cái nhọt mặt người liền bật ra tiếng kể lại chuyện oan khuất từ mười kiếp trước  vẫn hằng theo dỏi để mong báo oán, nay vì ông Ngộ Ðạt khởi lên dục vọng mà có nhịp trả oán, nhưng nay ngài Tri Huyền đã chỉ dạy dùng nước  giếng Tam Muội mà rửa thì không dám mang lòng oán hận nữa.
            Cũng vì thế mà trong kinh kể ra những điều mà chúng sanh thường hay mắc phải gây thành tội lỗi, lại nói rõ cả những tội nào phải chịu báo nào. Cách thức làm thế nào để tránh tội.v.v...do đó mới đặt tên là Thủy Sám nghĩa là việc sám tội  cũng như nước rửa hết mọi nhơ bẩn vậy.
            Khi tụng kinh này phải nên thành tâm hối lỗi, tất cả những gì đã phạm thề quyết từ nay chừa bỏ, điều thiện gắng làm, điều ác tránh xa. Như thế là tiêu diệt tội khiên của mình và do chỗ tâm mình thanh tịnh như nước trong suốt có năng lực rửa tội cả cho người khác nữa. Bởi ai nghe kinh mà cũng hối lỗi tức nhiên đều trở về nẽo thiện và làm việc thiện tức là tránh hết ác nghiệp đó vậy.

5/ Kinh Ðịa Tạng
            Kinh này thuật lại lời Phật chỉ dạy cho các đệ tử biết nguyện lực của một vị Bồ Tát vô cùng cao rộng:” địa ngục vị không, thệ bất thành Phật”nghĩa là địa ngục mà còn người, ngài thề chưa thành Phật, vị đó là ngài Ðịa Tạng Bồ Tát.
            Cũng do nguyện lực đó mà ngài Ðịa Tạng thường cứu độ chúng sanh trong cõi ngục tù tăm tối. Cho nên kinh này có công năng siêu độ cho thất tổ, cửu huyền và tất cả chúng sanh khổ ách.
            Yếu lý của kinh này là nhân nguyện lớn của Bồ Tát, mình cũng phải phát tâm Bồ đề, tâm lặng tức là thoát khỏi địa ngục, tụng kinh cầu nguyện là lấy sức thần giao cách cảm của mình linh ứng với những linh giác chưa được siêu thoát, nhờ uy lực và thần lực sẽ được siêu thăng. Cho nên tụng kinh Ðịa Tạng có thể đưa người ở chốn tam đồ lục đạo đến nơi bát đức vậy.

6/ Kinh Báo Ân
            Tức là kinh Ðại báo Phụ Mẫu trọng ân, Phật thuyết đến công đức sanh thành dưỡng dục của các bậc cha mẹ, và dạy cho con cháu là phải có bổn phận đền đáp công ơn sao cho xứng đáng.
            Kinh này thường tụng vào các ngày giỗ chạp, hoặc có việc hiếu. Ngươi tụng phải thề nguyện từ nay về sau ăn ở cho phải đạo đối với cha mẹ, đối với các bậc tôn trưởng. Người trong gia đình nghe kinh là phải giữ gìn: trên ra trên, dưới ra dưới, một nhà hiếu thuận, thế cũng là báo ân đó vậy.

7/ Kinh Lương Hoàng
            Toàn bộ kinh này là những lời sám nguyện giải trừ mọi điều tội lỗi. Còn gọi là kinh Ðại Sám. Nội dung kinh này khá dài, nguyên nhân trước thuật kinh này là vì vua Lương Vũ Ðế xưa không tin Phật pháp, chỉ tin ngoại đạo. Thuở còn hàn vi, có vợ là Hy-thị, nhân sự ghen tuông mà tự trầm mình dưới giếng. Ðến khi Lương Vũ Ðế lên ngôi vua thì Hy-thị hóa làm con rắng mãng xà quấy rối cung vi.
            Thỉnh khắp các hàng Thuật sĩ đến chú nguyện mà không công hiệu. Sau có Tề Công Trưởng Lão dạy làm đàn tràng sám nguyện cầu rửa tội khiên ác độc nên nhờ đó Hy-thị hiện thân tạ ơn là đã thác sinh. Từ đấy Lương Vũ Ðế mới tin theo Phật pháp, ví vậy mà tập Kinh Sám Nguyện này đặt tên là Lương Hoàng.
            Cũng vì tụng kinh này rũ sạch được mọi tội lỗi nên nay thường tụng trong việc báo hiếu cha mẹ hoặc ngày giỗ chạp gia tiên.

8/ Kinh Pháp Hoa
            Gọi cho đủ phải là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa là một bộ kinh đầy đủ nhất về lý thuyết đại thừa Phật giáo, do đó khi Phật thuyết kinh này, các bậc Tỳ kheo hoặc Cư sĩ không đủ căn cơ đều phải rút lui.
            Ðời nay đều thích tụng và tin tưởng rằng tụng kinh này được vô lượng công đức. Tuy nhiên  nếu quan niệm là chỉ tụng thôi mà có công đức thì ai cũng làm được cả. Phải nên có nhận định tế nhị là: Khi Phật thuyết kinh Pháp Hoa mà ai nghe cũng được thì hà cớ các hàng Tỳ Kheo hay Cư sĩ không đủ căn hạnh lại phải rút lui? Do đó ít nhất mình có tự phát khởi tâm đại thừa, làm đạo Bồ Tát hay không? Tụng kinh rồi có theo được chút gì như trong kinh không? Nếu không thì tụng đôi khi chỉ thêm nghi ngờ và thành luân chuyển mà thôi.
*Ðúng ra, đây chỉ là tóm lược yếu chỉ của mỗi kinh để Cư sĩ chúng ta có được một khái niệm tổng quát làm đầu mối nhận định căn hạnh của mình có thể làm được đến đâu, tín hướng thế nào mà hành trì theo với ước nguyện

CÁC BÀI HỌC PHẬT


CÁC BÀ
HC PHT
PHÚC TRUNG Hunh Ái Tông
PL. 2555

Chuông Trng Mõ và Chuông Trng Bát Nhã
*
I. Dn: Chuông, trng, mõ là pháp khí dùng trong nghi lễ Pht giáo, Pht tử chúng ta cn biếý nghĩa và cách sử dng thông thường, để có thể dùng được khi cđến.
II. Các pháp khí:
1. Chuông: Tiếng Hán Vit là Chung, mt pháp khí dùng thông thường nhở trong chùa và ở nhà cư sĩ.
Chuông biu thị cho sự tnh giác, như trong bài kệ khi nghe tiếng chuông:
Văn chung thanh phin não khinh,
Trí huệ trưởng bồ đề sanh,
Ly da ngc xut ha khanh,
Nguyn thành Phđộ chúng sanh.
Án, già ra đế da tóa ha (3 ln)
Nghĩa là:
Nghe được tiếng chuông, phin não lin nh,
Trí huệ thêm ln, sanh tâm bồ đề
Ra khđịa ngc, vượt thoát hm la,
Nguyđược thành Pht, để độ chúng sanh.
Án, già ra đế da tóa ha (3 ln)
Theo như trong kinh Tăng Nht A Hàm có chép: Mi khi nghe tiếng chuông ngân lên, thì các hình pht trong cááđạo tm thi dng ngh, chúng sanh nàđang chu nhng hình phy cũng được tm thi an vui.
Trong chuyn Cm Thông cũng có chép:
.. ."Ngày xưa khi đức Pht Câu Lưu Tôở ti vin Tu Đa La xứ Càng Trúđã có to mt quả chuông bng đá xanh, thường vào lúc mt tri va mc, khi tiếng chuông y va ngân lên thì trong ánh mt try có các vị Hóa Pht hin ra, din nói 12 bộ kinh, làm cho người nghe được chng thánh quả không kể xiết".
Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Pht cũng bo ngài La Hu La đánh chuông để ging cái lý cho Tôn giả A Nan nghe. Vì thế chúng ta có thể hiu rng, tĐộ chuông đã có từ thđức Pht còn ti thế.
Hu hết, người ta tin rng nghi thc hành lễ trong các tự viở Vit Nam đều chnh hưởng nghi lễ ca Pht Giáo Trung Quc, do đó chuông trng mõ cũng phát xut từ Pht giáo Trung Quc. Đi tìm thđim chuông trng mõ đưa vào tự vin Trung Quc lúc nào chưđược xáđịnh.
Tuy nhiên, như sử liu ghi li, chuông đã được sử dng vào thi nhà Chu (557 trước TL- 89 TL). Tài liu về lch sử ca chuông quả tht là quý hiếm, da vào mt số tài liu sau để truy nguyên ngun gc ca chúng. 
Cun Qung Hong Minh Tp (số 2103) trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tng Kinh ghi rng vào thi Lc Triu (420 - 479) đã có nhiu lu chuông. Năm Thiên Hoà thứ 5 (566) đời Bc Châu, bài Nhị Giáo Chung Minh được khc trên ba đại hng chung ln nht thi by gi. Hai cái trong 3 cái nàđượđúc vào năm 570 và 665 TL. 
Tc Cao Tăng Truyn có ghi năm thứ đời TùĐại Nghip (609), ngài Trí Hưng nhn lo vic chuông ti chùa ThiĐịnh ở kinh đô Trường An. Trong khong thi gian này và trở về sau, Bc Châu không ngng đúc hng chung để an trí trong các tự vin. 
Li na, theo truyn thuyết cho rng hng chung là do Hoà Thượng Chí Công khi xướng và vua Lương Võ Đế (thế kỷ thứ VI) thc hiđể cu nguyn cho các thn thc bị đọa trong chđịa ngc mà người Hoa gi là chn U Minh. 
Trong bộ kinh Kim Cang Chí cũng có chép: "Vua Hiếu Cao Hoàng đế đời nhà Đường nhơn vì nghe li sàm tu ca Tng Tề Khưu mà giết lm kẻ tôi trung tên là Hòa Châu, nên khi chết bị đọa vàđịa ngc. Mt hôm có mt người bị bo tử (chết thình lình) thn hđi lc vàđịa ngy, thy mt ti nhâđang bị gông cùm, bị km kđánh đập rt là khổ s, hi ra thì mi biết là vua Hiếu Cao nhà Đường. Vua gi vị bo tử ấy vào mà nói rng: Nhờ ngươi trở li dương thế nói giúp vi hu chúa rng: Hãy vì ta mà đúc chuông cúng dường và làm các vic từ thin. Khi trở li dương thế, người bo tử liđến yết kiến hu chúđể chuyn li nhn nhủ ca vua Hiếu Cao. Nghe vy, hu chúa lin thân hành đến chùa Thanh Lương phát nguyđúc mt quả chuông để cúng dường và cu siêu cho Hiếu Cao Hoàng đế. (Tích ny trong truyn Bách Trượng thanh quy, trang 68 và 87).
Trong Đường Thi có bài thơ ca Trương Kế (thi Thnh Đường), tả mđêm nm trong thuyn, nghe tiếng chuông chùa Hàn San vng li. Bài thơ là mt tuyt tác, có liên quan ti chuông, chùa và thi gian, đã gây nhiu tranh lun, tưởng cũng nên chép ra đây:
Nguyt lô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hđối su miên.
Cô Tô thành ngoi Hàn sơn t,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyn.
TĐà dch:
Trăng tà tiếng quạ kêu sương,
La chài, cây bến su vương gic h.
Thuyn ai đậu bến Cô Tô,
Nđêm nghe tiếng chuông chùa Hàn san.
Nguyn Hàm Ninh dch:
Quạ kêu, trăng ln, tri sương,
La chài le lói su vương gic h.
Thuyn ai đậu bến Cô Tô,
Nđêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
Hồ Đip ngâm li:
Trăng tà chiếc quạ kêu sương
La chài cây bến còn vương gic h.
Thuyn ai đậu bến Cô Tô
Nđêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
Ngô Tt Tố dch:
Quạ kêu, sương ta, trăng lui,
Đèn chài, cây bãi, đối người nm khô
Chùđâu trên núi Cô Tô
Tiếng chuông đưđến bếđò canh khuya
Trn Trng Kim dch :
Quạ kêu, trăng ln, sương rơi,
La chài, cây bi, đối người nm co.
Con thuyđậu bến Cô Tô,
Nđêm nghe tiếng chuông chùa Hàn sơn
Trn Trng San dch:
Quạ kêu, trăng ln sương tri,
Bun hiu gic ngủ la chài bến phong
Đêm Cô Tô vng tiếng chuông
Chùa Hàn San đến thuyn sông Phong Kiu.
Lý Nhược Tam dch:
Ô đề trăng lng sương giăng,
Đèn câu thc bóng lăn tăn gn su
Hàn Sơn Tđất Tô Châu
Chuông khuya vng đến Phong Kiu thuyn neo.
Hu Nguyên dch:
Quạ kêu, trăng ln, ngút tri sương
Phong bãi, đèn câđắm mng trường
Đêm vng Cô Tô thuyn khách đậu
Chuông Hàn San tự thong đưa sang.
Huệ Thu dch:
Trăng chìm quạ khóc tri sương
Đèn chong cây lng nghe bun miên man
Cô Tô phố ngoi chùa Hàn
Nđêm chuông đổ rt sang thuyn chờ .
Do chuông không bao giờ thnh vào nđêm hay gia khuya, như vy thì tác giả Trương Kế đã sai, nhưng người ta thường nghĩ thi sĩ thì phi có nhn xét, ghi chéđúng, vã li chữ bán d mi hay, cho nên người sau đặt ra chuyn cho hp lý vi bài thơ: "Có nhà Sư trụ trì chùa Hàn San, mđêm vào mng 3 hay mng 4 ngu hng cm tác thành thơ:
Sơ tam sơ tứ nguyt mông lung
Bán tự ngân câu bán tự cung.
Ri hếý, loay hoay không tìm ra hai câu kết. Cũng đêy có chú tiu ra ngoài, nhìn thy trăng in bóng dưới vũng nước. Lúc trở vào thy Thy ngi tư l, mn phép hi thy về cớ s, sau khi được Thy cho biết, chú nhớ mnh trăng mình va mi gp, na in dưới nước na cài trên không, nên xin được dâng thy hai câu kết:
Thùy bả ngc hoàn phân lưỡng đon
Bán trm thđể, bán phù không.
Thy cũng vý vi hai câu kết, cả hai Thy trò hoan hỷ nên lên Chánh đin dâng hương tạ ân Pht, đồng thi thnh chuông, nên mi có tiếng chuông vào lúc nđêm, vang đến thuyn ca thi sĩ Trương Kế."
Thi sĩ Cao Tiêu dch bài thơ trên:
Trăng non mùng bn mùng ba
Na như móc bc, na là cánh cung.
Ai đem bẻ na chiếc vòng
Nước in mt na, trên không na cài .
Nhưng mà đâu phi thi sĩ hay thi hào, thi bá là có nhn xéđúng, cũng trong thi văn Trung Hoa có giai thoi sau:
Có ln Tô Đông Pha đọc thơ Vương An Thch tự Gii Phủ danh nho hc rng, tài cao, giữ chc Tể tướng dưới triu Tng Thn Tông, mt ngườđi trước và lđang làm quan đầu triu, thy câu:
Minh nguyt sơđầu khiếu
Hoàng khuyn nga hoa tâm
Tô Đông Pha bèn chê là vô lýtrăng sáng sao li hóđượở đầu núi, chó vàng sao nm gia lòng hoa cho được? Chê xong, sa ra:
Minh nguyt sơđầu chiếu,
Hoàng khuyn nga hoa âm.
Trăng soi đầu núi chó nm bóng hoa thì hp lý, và bài thơ hay quá!
Về sau Tô Đông Pha gay gt chng tân pháp ca Vương An Thch nên bị đày xung min cc Nam. Đếđấy, Tô Đông Pha mi biết có mt loi chim gi là "Minh nguyt" và mt loi sâu là "Hoàng khuyn"!
Trở li vi chuông, có ba loi thường được sử dng trong các chùa chin, tự vin như sau: 
a. Phn Chung: Gi là Phn chung, nguyêy các tự vin dùng chuông để báo giờ thọ trai cho các chúng tăng chp tác chung quanh chùa, biết giờ gic nghỉ tay mà thọ trai, cũng gi là "đại chunghng chunghoa chung” hocự chung". Chuông nàđượđúc bng đồng xanh pha ít st. Thông thường chuông cao khong 1,5m, đường kính khong 6 tc. Loi này treo trong lu chuông, mđích thnh chuông là để chiêu tđại chúng hoc báo thi sm ti. Người Vit mình thường dùng từ "đại hng chung" chỉ cho loi chuông tht to, gn như không còn có quy định cụ thể là rng hp bao nhiêu na. Chuông này còn gi là chuông U Minh. 
Li có loi chỉ ln bng 1/2 chuông phn, nên gi là bán chung, còđược gi là "hoán chung" hoc "tiu chung." Chuông này thường đượđúc bng đồng, cao khong 6 đến 8 tc, thường để ti 1 góc trong chánh đin và được sử dng trong các bui pháp hi, nên còn có tên khác là " hành lễ chung." Người Vit Nam cũng như các nước khác ngày nay cũng linh động chế to nhiu loi chuông dng "bán chung" này, nhưng cũng không có kích thước cố định. 
b. Bo chúng chung: Cũng gi là chuông Tăng đường, tc là chuông nh, chỉ mt người xách lêđược. Hình thái cũng như chuông U minh, được treo ở trai đường, dùng để báo tin trong lúc hp chư Tăng biết vào nhng lúc: Hđại chúng, thọ trai, giờ chp tác, giờ bái sám trong các tự vin.
c. Gia trì chung: Loi chuông ny dùng để đánh lên trong lúc tng kinh bái sám. Tiếng chuông gia trì được sử dng trước khi tng kinh hay báo hiu sp hếđon kinh đang tng hay câu nim Pht. Cũng thường đánh lên khi ly Pht mt mình. Còn khi đông người thì để báo hiu cùng ly cho nhp nhàng. Chuông gia trì có đủ ba loi ln, va và nh. Chuông va và nhỏ thì thường thường Pht tử ti gia dùng nhiu hơn và cũng dùng như chư Tăng.
Ngoài ra, trong thi cc thnh ca Thin Tông, chuông an trí ti thiđường, trai đường gi là “tăng đường chungtrai chung"; chuông để ti chánh đin gi là "đin chung”… Nhng vị lo vic chuông này gi là "chung đầu."
Về thnh chuông, xưở Trung Quc tùy mi Tông phái, tng địa phương mà quy định có khác nhau, nhưng tng quát là khi bđầu thnh 3 tiếng và khi kết thúđánh nhanh 2 tiếng hoc 3 hi chín tiếng cho các loi chuông nhỏ khi tng kinh. Số lượng tiếng thường là 18, cũng có khi thnh 36 tiếng, 108 tiếng. Thnh 108 tiếng biu thị hành giả nỗ lc làm vơi cđi 108 loi phin não nơi ni tâm. Mười tám tiếng là biu thị sự thanh lc 6 căn, 6 trn và 6 thc. 
Theo nim tin cho rng tiếng vang ca chuông có thể thđến cõđịa ngc u ám, chúng sanh nào bị đọa nơđịa ngc nhờ nghe tiếng chuông này liđược gii thoát. Li na, tiếng chuông thanh thoát ca chùa có thể giúp cho loài quỷ đóđược nhẹ bt lòng tham lam, sân hn mà gii thoát khi kiếp ngạ quỞ các ngôi chùa Vit Nam hin nay cũng như các chùa Trung Quc thi xưa hoc các chùa thuc các nước theo Pht giáĐại Tha như Nht Bn, Triu Tiên. ...thường có quả chuông lđể thnh vào hai bui sáng ti trong ngày khi cu nguyn. Giờ thnh chuông bui sáng lúc 4 giờ hoc trước thi công phu bui sáng, giờ thnh chuông đầu hôm là lúc tri nhá nhem ti, tùy theo quy định ca mi chùa.
Tiếng chuông đánh đầu hôm là nhc nhở cho mi người biết rng cơn vô thường đến vi chúng ta không ha hn, rt ngn ngũi, nhanh chóng. Đánh vào lúc ban sáng là nhc nhở cho mi người cố gng tinh tiến tu hành để mau vượt thoát ra khi cnh đau kh, không vướng mc cnh ti li và dễ dàng ra khi luân hi sanh t. Người thnh chuông vđánh chuông vđọc bài k
Nguyn thử chung thinh siêu pháp gii, 
Thiết vi u ám tt giai văn. 
Văn trn thanh tnh chng viên thông, 
Nht thiết chúng sanh thành chánh giác. 
Nghĩa là
Nguyn tiếng chuông này khp pháp gii, thiết vi u ám cùng nghe được, căn cnh thanh tnh chng viên thông, hết thy chúng sanh thành chánh giác. (Bn dch ca Hòa Thượng Trí Quang, LUT SA-DI, SA-DI-NI, Pht Hc Vin Quc Tế xut bn, 1989). 
Dch thơ

Nguyn tiếng chuông vang rn pháp gi
Chúng sanh ngc St thđều nghe 
Tiếng đời sch, chng được viên thông 
Tt cả muôn loàđều giác ng. 
(Thích Nht Từ dch)

Tiếng chuông nguyn vang rn các cõ
Núi Thiết Vi tăm ti nghe hay 
Âm thanh đời lng sch thay 
Chúng sanh giác ng, tỏ bày an nhiên. 
(Thích Nht Từ dch)
2. Trng: Tiếng trng tượng trưng cho chánh pháp. Chúng sanh mi khi nghe tiếng trng chánh pháy thì ti chướng được tiêu trừ và cũng nhờ đó mà được gii thoát vào cnh gii an lc.
Trng là mt trong nhng loi nhc khí, thường làm bng đá, cây, đồng, v.vXưa tĐộ dùng để báo thi gian, cnh báo. Khi Đức Pht còn ti thế, dùng nó để tp hp chúng Tăng Bố tát, nghe pháp
Trong kinh Lăng Nghiêm:
Đức Pht dy:
"- Này A Nan, ngươi hãy nghe tiếng trng mi khi dn cơm xong, nghe tiếng chuông mi khi nhóm hđại chúng trong tinh xá Kỳ Đà Hoàn ny. Tiếng trng hoc tiếng chuông y trước sau ni tiếp nhau. Vy, theo ý ông, mi khi ông nghe được các thứ tiếng y là vì nó tự bay đến bên tai ông, hay tai ông đến nơi chỗ phát tiếng y?.(Đây là lúđức Pht chỉ cái Tâm cho ngài A Nan)
Ngũ Phn Lut có ghi: “chư Tỳ kheo bố tát, chúng bt thi tp. Pht ngôn: nhượđả kin chùy, nhượđả cổ…”.
Trong kinh Kim Quang Minh có chép: "Mt hôm người Tín Trưởng Bồ tát nm mng thy mt cái trng bng vàng. Trng y có chiếu ra hào quang sáng rc như mt tri. Trong hào quang có rt nhiđức Phđang ngi trên tòa sen lưu ly đặt dưới nhng gc cây quý. Chung quanh cáđức Phđều có trăm nghìc vị đạđệ tử đang ngi nghe pháp. Lúy có mđạo sĩ Bà la môđang cm dùi trng đánh mnh vào chiếc trng vàng, tiếng trng vang rn nghe như li kinh sám hi. Khi đã tnh mng, ngài Tín Trưởng Bồ tát liđem nhng điu mà mình đã thy nghe trình lêđức Thế tôn.".
Trung Quc thi xưa dùng nó trong các dp lễ lc, vũ hiLoi hình có to, nh, treo hođể trên giá…
Từ đờĐường về sau, theo thanh quy ca thin môn, trng là mt trong nhng loi pháp khí dùng làm hiu lnh báo thi sm ti. Sau này Pht giáo Trung Quc tiến thêm bước na là phi hp nhđiu, âm thanh ca tiếng trng hòa cùng nhng li tán tng, phổ thành nhđiu, gi là "kỹ nhc cúng dường, trang nghiêđạo tràng", dùng âm thanh làm Pht s, trợ giúđại chúng phát tâm thành kính vi Tam Bo. 
Ai đã đưa trng vào tự vin? Năm nào? Chưa có tài liu nàđưa ra mt giả thuyết khả dĩ đáng tin cy. Tuy nhiên, da vào bn dch bài Thin Sư ĐạĐiên và Hàn Dũ thĐường Hiến Tông năm 820, chúng ta thy chuông và trng đã được sử dng rng rãi trong các nghi lễ Pht giáo. Do đóít nht chúng ta đoáđược là trước năm 820, trng đã đượđưa vào chùđể làm pháp khí
Có hai loi trng: Trng ln gi là trng tu, nhỏ gi là trng ng. 
a. Trng ln: Dùng để đánh vào nhng dp lễ ln. Trng ln thường gi là trng Bát NhãĐánh trng ln có bài kệ ca nó. Tiếng trng Bát Nhã đánh lêđể cung thnh Phđăng bo ta. Bài kệ đánh Trng Bát nhã như sau:
Bát nhã hi,
Thnh Pht thượng đường,
Đại chúng đồng văn,
Bát nhã âm,
Phổ nguyn pháp gii,
Đẳng hu tình,
Nhp Bát nhã,
Ba la mt môn.
Nghĩa là:
Hi Bát nhã,
Thnh Pht lên tòa,
Đại chúng đều nghe:
Âm Bát nhã,
Nguyn khp pháp gii,
Chúng hu tình,
Nhp Bát nhã,
Chng Ba la mt.
b. Trng nh: Dùng để đánh mi khi tng kinh nên cũng được gi là trng kinh (tiếng bình dân thường gi là trng cơm). Ngoài vic dùng đánh để tng kinh hng ngày vào hai thi công phu khuya và chiu trong các tự vin. Trng nhỏ khó đánh hơn trng ln. Bài hđể sử dng cho trng nhỏ rt nhiu, phc tp và khó hc. Có rt nhiu thể điu khác nhau như là thể điu thin khi tng kinh, thể điu ai khi dùng vàđám táng, chn tế cô hn, ... Nếu không hc thì không thể sử dng được.
3. Mõ:
Có người cho rng mõ là do Sa-môn Chí LâđờĐường to ra, nhưng điu này không ly gì làm chc, vì không có sử liu rõ ràng.
Theo sách Tham Thin Ngũ Đài Sơn Ký (quyn 3), Tng Thn Tông, Hy Ninh năm thứ 5 ngày mng 8 tháng 8 ghi: Trong chùa Thanh Thái có thờ tượng ngài Phó Đại Sĩ. Mi khi Ngài mun gp các vị tu hnh đầđà nơi cao sơn, chỉ gõ mõ, chư vị sau khi nghe tiếng mõ ấy liđến. Sau đó, các tự vin ln nhỏ dưới chân núđều dùng mõ để tp hđại chúng.
Theo sách Tam TàĐồ Hi ca Vương Tích đời Minh có đon: "Mõ là loi mà dùng cây khc thành hình con cá, rng bên trong, gõ nó sẽ phát ra tiếng, các hàng Pht tử khi tán tng đều dùng đến nó." 
Theo sách Thích Thị Yếu Lãm ghi rng: chuông, khánh, bđá, bn g, mõ đều có khả năng phát ra âm thanh mt khi gõ vào và nhờ nghe đó mà đại chúng tp hp nên các lođó đều gi là kin chùy. 
Sách Sc Tu Bách Trượng Thanh Quy, chương Pháp Khí cũng nói khi dùng cơm hoc khi phổ thnh chúng tăng đều gõ mõ. Từ đây chúng ta có thể hiu lúđầu mõ dài (loi 1) được dùng để tp hp Tăng chúng. 
Nhưng vì sao mõ đều khc hình con cá? Sách Sc Tu Bách Trượng Thanh Quy nói rng vì loài cá sut ngàđêđều tnh, nên khc hình con cá để mi khi gõ, chúng ta tự nhc mình phi tnh thc, chớ có hôn trm, giđãi. 
Trong sách Chính Ngôđời nhà Đường thì chép:
"Có mt người bch y đến hi mt vị Trưởng lãở Thiên Trúc rng:
- Ti sao các Tăng xá đều có treo mõ?
Vị trưởng lão trả li:
- Vì để cnh tĩnh chúng Tăng ti Tăng xá hay tự viy.
Người bch y hi tiếp:
- Nhưng ti sao li tc hình con cá?
Vị Trưởng lão không trả lđược. Người bch y li hi ngài Hộ Bin và được ngài gii thích rng:
- Loài cá là loài không bao giờ nhm mt và thích hođộng. Cũng vì mun cho người tu hành ngàđêm quên ng, gng công tu tp, mau chng đạo quả nên treo và đánh mõ và cái mõ được tc hình con cá vy."
Sách Tăng Tu Giáo Uyn Thanh Quy (quyn h, phn pháp khí) có ghi li truyn thuyết rng có mt vị Tăng do phn thy, huỷ pháp mà bị đoạ làm thân cá, trên lưng con cá ấy li mc mt cái cây, mi khi sóng to gió ln, khiến thân ra máu, tht thng khổ vô cùng. Mt ln n, vị Thy Bn Sư qua bin, nhâđó nó muđòi nợ lin nói rng: Thy không dy bo nó nên nó mi phi bị đọa làm thân cá như thế này, do đó nay nó mun báo oán. Thế ri, vị Thy bo cá nêăn năn sám hi, Thy cũng vì con cá mà cu siêu chú nguyn và ngay đêy nó được hóa kiếp. Vị Thy Bn Sư liđem câđẽo thành hình con cá và treo lêđể cnh tnh đại chúng. Có thể vì lý do này các mõ tròn sau này cũng hay khc hình con cá trên mõ để cnh tĩnh đại chúng. 
Mõ có hai loi: Mõ có hình bu dc và mõ có hình điếu. Tt cả đềđược tc theo hình con cá.
a. Mõ hình hình bu dc: Mõ ny dùng để tng kinh, điu khin bui lễ khi đông người tng được nhp nhàng.
b. Mõ hình điếu: Mõ ny treo ở nhà trù dùng để báo hiu khi thọ trai hay chp tác. Ngoài ra, cũng có mt loi mõ rt nhỏ dùng để chư Tăng đi kinh hành gi là nhiu Pht. Tiếng mõ va giữ cho bui lễ được trang nghiêm li va giữ cho tâm hn khi tán lon trong khi hành l. Bi thế, ngườđánh mõ gi là Duyt chúng, tên ny gi là làđẹp lòng mi người trong lúc cùng tng kinh vi nhau. Đánh mõ phi hc hn hoi, đúng điu và đúng cú pháp ca nó.
4. Khánh: Tiếng Phn là Kin chùy dch là chuông hay khánh. Theo lão Hòa thượng Tc Sư có thut chuyn vua Tng thái Tổ cho rng: Tiếng trng hay làm git mình người ng, nên thay vì dùng trng, Tng thái Tổ chế ra thiết khánh. Ngày nay trong các tự vin khánh làm bng đồng chng bng cáđĩa ln, treo trong mt cái giá g, thường dùng để báo hiu trong phm vi nh, chng hn như để báo thọ trai hay khi thnh mt vị tăng từ trong liêu ra pháđường, hay đón rước mt vị đại sư hay danh tăng đến tự vin, nghi lễ nđi trước là khai lễ gm nhang, đèn, hoa, qu, kế theo là mt vị cm khánh treo trong giá, vđi vđánh khánh ri tiếp theo là vị tăng được rước, có thể có lng hu và theo sau mđến nhng vị tăng khác tùy theo phm trt xếp thành thứ t.
Nhng vị tăng nhđạđịnh, mun báo cho vị ấy xuđịnh, người ta cũng dùng tiếng khánh để cnh tĩnh.
5. Bn: Là mt tm gỗ dy chng 2 phân, dài chng 4 hay 5 tc, cao chng 3 tc, thường được treo trong tự vin, được gõ 3 ln trong ngày: bình minh, hoàng hôn và trước khi đi ng. Người ta thường thy nhng câu sau đây khc trên bn:
Hãy nghe đây chư tăng! Hãy tinh tiến trong vic tu tp! Thi gian bay qua nhanh như mũi tên; nó chng chờ ai đâu !
6. Nghi thc chuông mõ khi tng kinh.
Hai bên bàn thờ Pht, chuông để bên tay tráđức Pht, mõ bên tay phi.
Trước khi bđầu thi kinh, ngườđánh chuông gia trì thnh 6 tiếng, để báo cho mi người biết, chánh điđã lên nhang đèn xong, mi mi người giữ 6 căn thanh tnh vào lễ Pht, tng kinh.
Khi chủ lễ vào vị trí, bđầu nim hương, thnh 3 tiếng chuông, sau đó thy chủ lễ xá thì thnh 1 tiếng chuông, khi ly thì thnh 1 tiếng chuông, lúc trán chm xung nn thì dùng dùi chuông gõ vào vành chuông nhưng giữ li trên vành chuông, không cho âm thanh ngân vang, gi là dp.
Sau khi Chủ lễ nim bài Quán tưởng và Đãnh l, hoc trước bài Tán Lư Hương: Lư hương xạ nhit ... hoc Tán Dương Chi: Dương Chi tnh thy ... hoc Cử Tán: Chiêđàn hi ngn ... thì khai chuông mõ như sau : Chuông thnh trước ba tiếng O O O (ba tiếng ri nhau)
Mõ gõ tiếp theo chuông by tiếng: – – – – – – – (bn tiếng ri, hai tiếng lin nhau và mt tiếng ri ra sau cùng)
Ri chuông mõ hòa vi nhau như sau – – – – – – O (chuông thnh trước, mõ gõ sau, sau 3 tiếng thì chuông ngng, mõ gõ tiếp theo tiếng thứ tư, năm sáu gõ lin nhau, tiếng thứ by ca mõ, thì chuông thnh mt lượt vi tiếng mõ.
Trong mi bài kinh, k, chú mi mt tiếng, mõ phi gõ mt cái, chú luôn luôđọc nhanh nên mõ phi gõ nhanh. Bt cứ bài nào cũng vy mõ bđầu gõ vào tiếng thứ 2, thứ 4 và nhng tiếng tiếp theo, và khi còn 5 tiếng chm dt thì mõ gõ rt chm, ri gõ lin 2 cáở tiếng áp chót và mt cáở tiếng chót.
Còn chuông thì trong bài dài, thnh thong thnh mt tiếng chuông, nhng bài chú nim ba ln, by ln, mười ln, hai mươi mt ln, cứ mi ln hết là thnh mt tiếng chuông, còn nim danh hiu Pht hay Bồ Tát ba ln, mười ln hay nhiu hơn, sau ba ln hay mười ly mi thnh chuông (thường chú ý vào vị chủ l, khi thy vị chủ lễ cuđầu xáđó là chm dt nim chú hay chuyn sang nim danh hiu Pht hay Bồ Tát khác). Cui mi bài kinh, k, chú thnh chuông vào tiếng thứ 5, thứ 3 và tiếng sau cùng.
Ví dụ :
 Vô thượng thm thâm vi diu pháp
........
Nguyn gii Như O Lai chơn O tht nghĩa O
Khi thi kinh chm dt thì thnh mt hi chuông và 3 tiếng ri ra sau cùng. Có nghĩa là giữ cho ba nghp thân khý luôđược thanh tnh.
Mt cách khác, nghi thc khai chuông mõ và ý nghĩa như sau.
- Trướđánh ba tiếng (tiên khi tam),
- Kế nhp by (thứ lôi tht),
- Tiếđánh ba (tnh đả tam),
- Giđánh mười (trung đả thp)
- Sau cùng dt bn (hu dit t).
* Trướđánh ba tiếng: Nghĩa là chúng sanh do ba nghip thân khý to tác mđiác, sau sẽ đọa vào trong ba đường dđịa ngc, ngạ quỷ và súc sanh. Nhưng cũng có nghĩa là cố trừ ba độc: tham, sân và si để vượt lên ba gii thoáđể chng đắc ba đức: Pháp thân, Bát nhã thân và Gii thoát thân. (Phn ny ging lượđi nên không my ai biếđến.)
* Kế tiếp nhp by tiếng: Đây là tiêu biu cho tht chi ti. Về thân thì có ba: Sát, đạo và dâm. Về khu thì có bn: Vng ngôn, ỷ ng, lưỡng thit và ác khu. Sau khi đã đon trừ được by ti nêu trên lin chng được tht giác chi: Trch pháp, tinh tn, h, tr, xđịnh và nim.
* Tiếđánh ba tiếng: Là phát nguyn tu tam hc tc là gii, định và huệ để quyết chng cho được ba tha: Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát.
Giđánh mười tiếng: Đó là tiêu trừ mườđiác gm tht chi ti cng thêm cý có ba là mười. Từ đó, chng nhp mười thân gm: Bồ đề thân, nguyn thân, hóa thân, lc thân, trang nghiêm thân, oai thệ thân, ý sanh thân, phước thân, pháp thân và trí huệ thân. (Phn ny, sau ny gin lượđi, không my ai dùng đến và cũng không my ai biếđể ý đến.)
* Sau cùng dt bn: Tc là để tiêu trừ bn tướng: Sanh, lão, bnh và tử để chuyn thành bn trí:
+ Thành sở tác trí: Tin ngũ thc (nhãn, nh, t, thit và thân),
+ Diu quan sát tríĐệ lý thc,
+ Bình đẳng tánh tríĐệ tht Mc na thc,
Đại viên cnh tríĐệ bát A li da thc.
7. Nghi thc sử dng chuông công phu
Người thnh chuông khai chuông công phu theo bài kệ sau :"
Hng chung sơ khu, bo kệ cao âm
Thượng trit thiêđường, hạ thông địa ph
U Minh giáo chủ cu khổ bn tôn
Cu bt minh đồ Địa Tng Vương Bồ Tát.
"Án dà ra đế dạ ta bà ha"
Tiếp theo nhp by tiếng chuông nh, ri thnh ba tiếng ln và chm rãi:
o o o o o o o O O O (vô tam)
Theo đó cứ đọc hai câu kệ li thnh mt tiếng chuông như sau:
Nguyn thử chung thinh siêu pháp gii, 
Thiết vi u ám tt giai văn. O (thnh tiếng chuông thứ nht)
Văn trn thanh tnh chng viên thông, 
Nht thiết chúng sanh thành chánh giác. O (thnh tiếng chuông thứ hai)
Văn chung thanh phin não khinh
Trí huệ trưởng, Bồ Đề sanh. O (thnh tiếng chuông thứ ba)
Ly địa ngc, xut ha khanh
Nguyn thành PhĐộ chúng sanh. O (thnh tiếng chuông thứ tư)
Tiếp theo đó là thnh ba hi chuông, sau đó người thnh chuông sẽ thnh tng tiếng sau mi danh hiu Pht, Bồ Tát, hay sau mi câu chú.
Cui cùng thnh mt hi chuông và bn tiếng để báo chm dt thi công phu.
O O O O O O O O o o o o o O O O O (dt t)
8. Chuông trng Bát Nhã. Chuông trng Bát Nhã là danh từ dùng để chỉ chuông to, trng ln, thường chùa có thể xây lu chuông, gác trng và treo "tả chung, hu c". Tht ra cm từ Chuông trng Bát nhã là để chỉ cách đánh chuông và trng theo mt bài kệ "Bát Nhã Hi". Là mt nghi thc hành lễ Pht giáo Trung Hoa truyn sang Vit Nam, có lẽ xut phát từ Không Tông, do nghi thc rt trang trng nên dn dn chùa chin các tông phái khááp dng theo. Có nhiu cách đánh chuông trng Bát Nhã, chúng tôi ghi ra mt trong nhng cách đánh y:
a. Phn khai chuông trng
- Ba hi chuông:
Trước khi thnh chuông, ngườđánh chuông nhp by tiếng chuông nh, ri thnh 3 tiếng tht ln, tht chm rãi (1) o o o o o o o O O O (vô tam)
Tiếp theo là thnh ba hi chuông
Ln 1: O O O O O O O O O O O O o o o o o o o o o (lúđầu chm lúc sau mau dn và nhẹ tay)
Ln 2: Ging như ln 1
Ln 3: Ging như ln 1, tuy nhiên khi chm dt, thnh thêm 4 tiếng tht ln và ri nhau: O O O O (dt t).
- Ba hi trng:
Trước khi đánh trng nhp by tiếng trng nh, rđánh ba tiếng tht ln, tht chm rãi: x x x x x x x X X X (2)
Tiếp theo sau là đánh ba hi trng: Đánh trng ging như thnh chuông trong ba ln 1, 2 và 3 nóở phn trên.
b. Phn nhp chuông trng (Chuông và trng đánh cùng mt lúc):
Khi dt tiếng trng ln 3, ngườđánh trng va nhđọc bài kệ Bát Nhã, mi tiếng đánh mt tiếng trng, nhưng hai tiếng sau đánh lin nhau. Người thnh chuông, sau mi câu kệ thnh mt tiếng chuông (sau hai tiếng trng đắnh lin nhau, thnh mt tiếng chuông)
Ln 1:
Bát Nhã hi X XX O
Bát Nhã hi X XX O
Bát Nhã hX XX O
Thnh Pht Thựợng Đường X X XX O
Đại chúng đồng văX X XX O
Bát nhã âm X XX O
Phổ nguyn pháp gii X X XX O
Đẳng hu tình X XX O
Nhp Bát Nhã X XX O
Ba la mt môX X XX O
Ba la mt môn X X XX O
Ba la mt môn X X XX O
Ln 2: Đánh ging như ln 1
Ln 3: Đánh ging như ln 1, tuy nhiên, khi hết câu cui bài kệ ri, đánh tiếp theo phn kết thúc:
c. Phn chuông trng kết thú(3) :
X O X O X O X O X O X O x o x o x o x o x o và sau cùng đánh bn tiếng trng và chuông chm dt (dt tX O X O X O XX OO (đánh kép)
d. Phn kết thúc:
Lúc khđầu, chuông trng Bát Nhã đánh ba hi, nhưng khi kết thúc bui lễ cũng như thi kinh chuông trng Bát Nhã chỉ đánh mt hi mà thôi.
d. Mt cách đánh chuông trng Bát Nhã khác:
- Mđầđánh nhp 2 tiếng: biu thị NHỊ ĐẾ dung thông (pháp thế gian và pháp xut thế gian dung thông, không ngăn ngi). 
- 3 tiếng tiếp (mi ln 1 tiếng): tượng trưng cho sự khđầu quy y TAM BO, nguyn dt trừ tam độc: tham, sân si. 
- 7 tiếng sau đó (vì tiếng thứ 7 và đánh gp, tính gp thành 1 tiếng), tượng trưng cho BÁT NHàHI THNH PHT THƯỢNG ĐƯỜNG, tc tác pháp thnh Pht thăng toà
- Nếu 7 tiếng này tính thành 8 tiếng: tượng trưng cho câu "MA HA BÁT NHàBA LA MĐA" hoc BÁT NHàHI THNH PHT LAI CHNG MINH, tc tác pháp thnh Pht chng minh. 
- Cui cùng đánh dt 4 tiếng: tượng trưng cho chng nhp TỨ ĐẾ
e. Ghi chú:
( 1 ) Dù thnh chuông hay đánh trng, luôn luôn nhớ câu: "vô tam, dt t” đây là trường hp "vô tam" ca chuông.
( 2 ) Đây cũng là trường hp "vô tam" ca trng.
( 3 ) Nếu không thuc bài kệ đánh trng, người tđánh trng có thể nhớ các lđánh trng theo cách đếm sau :
- Ln thứ nhđánh ba tiếng trng
- Ln thứ hai đánh ba tiếng trng
- Ln thứ ba đánh ba tiếng trng
- Ln thứ tư đánh bn tiếng trng
- Ln thứ năđánh bn tiếng trng
- Ln thứ sáđánh ba tiếng trng
- Ln thứ bđánh bn tiếng trng
- Ln thứ táđánh ba tiếng trng
- Ln thứ chíđánh ba tiếng trng
- Ln thứ mườđánh bn tiếng trng
- Ln thứ mười mđánh bn tiếng trng
- Ln thứ mười hai đánh bn tiếng trng
Có lẽ khđầu chuông trng Bát Nhã chính thc dùng trong nghi lễ ln ca Pht Giáo, hođể thnh Pht chng minh cho lễ kỹ nim ln, hoc lễ giđàn, hay Đại sư đăng đàn thuyết pháp, bi vì trong bài kệ có câu "Thnh Pht thượng đường", ngày nay người ta còn dùng để đón rước chư Tăng. Du cho là đón rướĐại Sư hay Danh Tăng đến viếng chùa, có lm dng chăng?
III. Kết lun: Người Pht tử tưởng nên biết về cách bài trí, về nghi thc chuông mõ, chuông trng Bát nhãđể sử dng khi tng kinh ở chùa hoở nhà. Có khi cn thiếđể gii thích cho người kháđược biết về ý nghĩa cho tường tn.
Tài Liu tham kho:
Thích Giác DuyêLch sử và ý nghĩa Chuông Trng Bát Nhã Nguyt San Liên Hoa số 405 tháng 5 năm 2004.
Thích Tín NghĩPháp Khí Và Pháp Phc Nguyt San Liên Hoa số 405 tháng 5 năm 2004.
Tuệ Viên: Ý Nghĩa về Chuông Mõ trong đạo Pht Nguyt San Pht Hc số 76 tháng 11 năm 2000
Minh Đức Bùi Ngc Bách Nghi thc sử dng Chuông Trng Bát Nhã Đặc san Viên Dung, Đoàn Huynh Trưởng Truyn Thng GĐPT/VN Min Nam California, USA, mng Thành Đạo 2538