Thứ Ba, 9 tháng 5, 2017

Cầu nguyện ...

 Cầu nguyện  ...
         
 
Cầu nguyện  chỉ giúp con người cảm thấy được bình an trong nhứt thời đau khổ mà thôi, chứ không giúp con người thực sự giảm bớt hay thoát ly được phiền não và khổ đau.
 Cũng giống như miếng thuốc cao dán, chỉ trị được phần ngoài da, chứ không dứt trừ được căn bệnh trầm kha.
 
 Cuộc sống của con người cứ quanh đi quẩn lại những chuyện đau khổ khổ đau như vậy nhiều đời nhiều kiếp, không có lối thoát.
 
 
 Hiểu thấu đáo tường tận sự công bằng của luật nhân quả, con người sẽ giảm bớt khổ đau, sẽ không còn "than trời trách đất" nữa.
 
Trái lại, con người sẽ không còn bi quan yếu đuối, sẽ mạnh mẽ hơn, can đảm hơn, mạnh dạn hơn, dám nhận lãnh "hậu quả" do chính mình tạo tác, hay an nhiên thụ hưởng "kết quả" do chính mình tạo tác và tiếp tục làm những việc thiện để có phước báo, tránh những việc bất thiện để tránh nghiệp báo, quả báo.
 
Thực ra, chỉ có những phước báo do tạo tác việc phước thiện là có thể giúp con người được "tai qua nạn khỏi" mà thôi, không có trời nào làm chuyện bất công bằng, đến giúp đỡ mình theo lời cầu nguyện  cả.
 Vì thế cho nên, thay vì cầu nguyện,con người hãy tích phước, tạo phước, bằng cách làm các việc thiện, nói các lời thiện, nghĩ các điều thiện, tức là giữ gìn ba nghiệp thân khẩu ý được thanh tịnh.  

        

 
Thực sự, nguyên nhân của những chuyện khổ đau đau khổ trên thế gian này, không phải do "trời" nào gây ra cả, mà chỉ vì con người quá ích kỷ, thường hay suy nghĩ đến "cái ta" hay "cái bản ngã" quá nhiều.
 Bất cứ chuyện gì xảy ra trên đời nầy, con người cũng đều nghĩ là "vì mình, cho mình".
 Con người có sự suy nghĩ như vậy cho nên đau khổ lại hoàn khổ đau! Còn đối với mọi người khác ngoài gia đình, các con người có tâm ích kỷ như vậy, lúc nào cũng nghĩ đến mình, vì mình, cho mình, thường dễ trở nên gian ác đối với đồng chủng, đồng loại, tàn nhẫn đối với đồng bào, đồng hương, hay đồng đạo.

Những con người như vậy chỉ biết có đồng tiền mà thôi. 
Miễn la dùng đủ mọi thủ đoạn để hại người lợi mình. Những người như vậy lại thường hay nói chuyện nhân nghĩa, phải quấy, nhưng họ nhìn ai cũng thấy quấy, chỉ có họ là phải, nhìn ai cũng thấy nguy hiểm đáng ghét, chỉ có họ là hiền từ dễ thương!
 Ai ai cũng biết rõ ràng hột cam là "nhân" sinh ra cây cam và cây cam sinh ra "quả" cam. Luật nhân quả đã quá rõ ràng như vậy.
  Khoa học cũng đã công nhận như vậy. Thế mà cho đến ngày nay, vẫn còn có người không chịu tin, lại thích tin tưởng những chuyện linh thiêng huyền bí, càng mơ hồ khó hiểu, khó giải thích chừng nào, lại càng tin nhiều chừng ấy!
  Nếu con người chịu khó suy tư sâu rộng hơn một chút, thì sẽ không còn những lời oán than trách móc trời như trước đây nữa. Hể đã có "nguyên nhân", cộng thêm "trợ duyên" đầy đủ thì chắc chắn sẽ có "kết quả hay hậu quả".
 
 Luật nhân quả không chỉ áp dụng cho riêng một ai, cho riêng một sắc dân nào, cho riêng tín đồ của một tôn giáo nào cả.
 
Luật nhân quả là một lẽ thực, là chân lý, không lệ thuộc thời gian hay không gian, luôn luôn áp dụng, bất cứ lúc nào, bất cứ nơi nào.
 
 Về phương diện tâm linh, về phương diện tinh thần, những việc con người tạo tác, những việc con người nói ra, những việc con người suy nghĩ, từ thân khẩu ý, chính là những nguyên nhân, gây ra những kết quả hay hậu quả, mà con người sẽ thừa hưởng, sẽ nhận lấy, hay sẽ gánh chịu.
 
"Gieo nhân nào, gặt quả nấy".
  Những cơn nóng giận không tự kềm chế được là nguyên nhân của những thất bại, khổ đau, hối hận sau nầy.
  Nghĩa là một khi tâm niệm tức giận, sân hận khởi lên mà chúng ta không tự kềm chế, không tự khắc phục được, thì biết bao nhiêu, trăm ngàn vạn chuyện khó khăn, đau khổ, chướng ngại tiếp nối theo sau đó.
 Những giây phút nóng giận ngu si, lầm lẫn là nguyên nhân của những sự hối tiếc, đau khổ sau đó, có khi kéo dài triền miên suốt cả cuộc đời.
 Như vậy, nếu con người hiện đang sống khỏe mạnh, làm ăn phát đạt, gia đình hạnh phúc, con cái nên thân, đó là đang thụ hưởng "kết quả" của phước báo nhiều đời nhiều kiếp trước, do chính mình tạo tác, chứ không do trời nào ban phước cho hết, cũng không do cầu nguyện  mà được, nếu như mình không thực sự xứng đáng được thụ hưởng những điều tốt đẹp đó.
 Còn nếu như con người hiện đang gặp nghịch cảnh, gặp khổ đau, đó là đang gánh chịu "hậu quả" của nghiệp báo nhiều đời nhiều kiếp trước, do chính mình tạo tác, chứ không do trời nào giáng họa cho hết, cũng không do cầu nguyện mà tránh khỏi được.
 Trái lại, con người sẽ không còn bi quan yếu đuối, sẽ mạnh mẽ hơn, can đảm hơn, mạnh dạn hơn, dám nhận lãnh "hậu quả" do chính mình tạo tác, hay an nhiên thụ hưởng "kết quả" do chính mình tạo tác và tiếp tục làm những việc thiện để có phước báo, tránh những việc bất thiện để tránh nghiệp báo, quả báo.
 Thực ra, chỉ có những phước báo do tạo tác việc phước thiện là có thể giúp con người được "tai qua nạn khỏi" mà thôi.
 Làm được như vậy, nhưng cũng đừng chấp rằng mình đã làm được bao nhiêu việc thiện, để giữ gìn tâm ý luôn luôn trong sáng và yên tĩnh, là chúng ta đang giảm thiểu nghiệp báo đã tạo, bớt phiền não và khổ đau của đời mình một cách tích cực vậy.
 
Chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa
 không.   
 Tóm lại, qua những tư duy chân chính này, chúng ta hiểu ra rằng cuộc đời dù có khổ đau, cay đắng, nhưng không nên vì thế mà bi quan chán đời, không tiêu cực, yếu đuối, cầu nguyện "ông Trời" do chính mình tưởng tượng ra, để tự dối mình, chính vì muốn chạy tội, muốn tránh né nghiệp quả, nghiệp báo, hay quả báo do chính chúng ta tạo tác. Trái lại, tinh thần của chúng ta phải
mạnh mẽ hơn, tích cực hơn trong cuộc sống hằng ngày.
 Chúng ta nên làm tất cả việc phước thiện, dù lớn dù nhỏ, quyết tâm tránh tất cả việc bất thiện, dù nhỏ dù lớn.
 Chúng ta nên luôn luôn kiếm cách tìm dịp, giúp người giúp đời, trong phạm vi khả năng của mình, để cố gắng đem lại an lạc và hạnh phúc cho chính mình và cho những người chung quanh. Chúng ta luôn luôn giữ gìn tâm ý thanh tịnh (không bận tâm nhớ nghĩ đến các việc phước thiện đã làm).
 Nếu hiểu được như vậy, làm được như vậy, chắc chắn cuộc đời của chúng ta sẽ giảm bớt khổ đau, tâm tư của chúng ta sẽ giảm bớt phiền não, tinh thần được khinh an, trí óc được thanh thản và những người chung quanh chúng ta chắc chắn cũng sẽ cảm nhận được niềm an lạc hạnh phúc cùng với chúng ta vậy. 
 


 

 






 

 

 

 

 

 

« Quay lại Kết quả tìm kiếm      ‹ Mới hơn 64 / 95 Cũ hơn ›
Sử dụng hộp tìm kiếm hoặc các tùy chọn tìm kiếm để tìm thư một cách nhanh chóng!
Bạn hiện đang sử dụng 1639 MB (10%) trong tổng số 15360 MB của bạn
Hoạt động tài khoản gần đây nhất: 6 phút trước trên máy tính này.  Chi tiết
Chế độ xem Gmail: chuẩn | HTML cơ bản  Tìm hiểu thêm
Điều khoản - Bảo mật - Trang chủ Google

NHAN QUA TRONG DAO PHAT

NHAN QUA TRONG DAO PHAT

 

Giải nghi về nhân quả


Hôm nay là buổi đầu tiên gặp tất cả quí vị, trước hết tôi chúc mừng Tăng Ni cũng như Phật tử được khỏe mạnh an vui, luôn luôn tinh tấn tu hành để làm sáng tỏ Phật pháp nơi xứ người, giữ được nền tảng đạo đức cho người Việt của chúng ta. Kế đến tôi sẽ giảng một thời pháp. Sau thời giảng có những nghi vấn gì quí Phật tử hỏi, chúng tôi theo khả năng của mình, trong phạm vi đạo lý sẽ trả lời cho quí Phật tử hiểu thêm Phật pháp, vững lòng tin tu hành không còn nghi ngờ nữa. Đề tài hôm nay là Giải nghi về nhân quả, chớ không phải giảng về nhân quả.

Một số người đặt câu hỏi thế này: “Người tu Phật có thể thay đổi được quả khổ của đời mình không?” Vì đa số Phật tử nghĩ mình tu thì bao nhiêu tội lỗi trước, những điều mình làm đau khổ cho người, đều do công đức tu hành mà tan biến hết. Nếu thay đổi được thì có trái với câu nhân nào quả nấy không? Trong kinh kể đức Phật tu hành đã thành Phật mà còn bị nạn kim thương, mã mạch, tức là vẫn thọ quả báo như thường. Nạn kim thương là chân Ngài bị mũi kiếm đâm lủng. Nạn mã mạch là Ngài phải ăn lúa ngựa hết ba tháng. Phật nói rõ lý do tại ngày xưa Ngài đã từng gieo nhân khổ cho người nên bây giờ tuy đã thành Phật nhưng cũng vẫn phải trả quả cũ. Đệ tử lớn của Ngài là Mục-kiền-liên nổi tiếng thần thông đệ nhất, khi già đi khất thực bị một số ngoại đạo vây đánh nhừ tử. Lúc bị đánh Ngài không dùng thần thông vì muốn trả hết nợ cũ, sau đó đau nặng rồi tịch luôn. Nếu các ngài tu chứng A-la-hán rồi, lẽ ra quả ngày xưa phải tiêu hết, tại sao vẫn phải trả?

Do đó các thầy Tỳ-kheo thắc mắc hỏi Phật về việc này. Phật giải thích do trước Ngài đã tạo nhân giết hại nên ngày nay phải bị quả như vậy. Qua những câu trả lời đó chúng ta nghĩ sao? Nhân đã tạo phải chịu quả với những người chưa chứng đạo thì được, nhưng với các vị đã chứng đạo thì có người thắc mắc.

Hoặc như trường hợp vua Kế-tân nghe lời ngoại đạo hại Tổ Sư Tử. Ông cầm cây gươm tới trước Tổ hỏi: “Ngài bảo thân năm uẩn đều không, vậy cho tôi cái đầu được không?” Ngài trả lời: “Thân năm uẩn đã không, sá gì cái đầu.” Thế là ông chặt đầu Tổ. Như vậy để nói rằng trước Ngài đã có ân oán với nhà vua trong nhiều đời, nên đến đời này Ngài phải trả. Tới Tổ Huệ Khả ở Trung Hoa, sau khi đắc đạo truyền bá một thời gian, Ngài gặp Tăng Xán truyền y bát rồi nói: “Ta còn một chút nợ phải trả.” Ngài đi tới xứ đó giảng đạo, có người tâu với tri phủ Ngài nói tà thuyết, gây rối loạn quần chúng, tri phủ liền bắt nhốt Ngài cho tới chết luôn.

Chúng ta thấy từ Phật là vị tu hành đã hoàn toàn viên mãn rồi, đến ngài Mục-kiền-liên đã chứng A-la-hán, tới các Tổ cũng phải trả oan khiên đời trước. Vậy nói tu hành có thể thay đổi được nhân quả, đúng không? Đa số nói không được, nếu đổi không được thì người ta đặt nghi vấn, như vậy tu hành để làm gì? Đó là những nghi vấn đối với lý nhân quả thật khó hiểu. Vì vậy hôm nay tôi phải giải những nghi vấn ấy để tất cả quí Phật tử hiểu rõ, không còn ngờ vực thì trên đường tu mới tiến, đạt được lợi ích cho bản thân, gia đình và xã hội.

Trong đạo Phật nói nhân quả là nói tới sự chuyển biến luôn trôi chảy không dừng. Cho nên từ nhân đến quả có thể thay đổi tùy theo sự chuyển biến ấy. Hoặc thay đổi ở chiều này, hoặc thay đổi ở chiều nọ, chớ không cố định. Nếu ai nghĩ nhân nào quả nấy cố định thì không đúng lẽ thật, phải thấy rằng nhân quả tùy duyên, tùy điều kiện thuận nghịch, nó luôn luôn chuyển biến. Đã là chuyển biến tức nhiên phải đổi thay chớ không thế nào nguyên vẹn trước sau như một được, phải xác nhận nhân quả cho rõ.

Chúng tôi dùng một ví dụ để quí vị thấy dòng chuyển biến của nhân quả. Nhân là hạt hay cái ban đầu, quả là trái hay cái chót. Ví dụ như chúng ta đem gieo một hạt bắp xuống đất, từ hạt bắp đó nếu đủ đất, đủ nước, đủ ánh nắng, nó sẽ chuyển lần lần thành mầm bắp. Từ mầm bắp chuyển lần lần thành cây bắp con, từ cây bắp con chuyển lần lần thành cây bắp lớn. Từ cây bắp lớn dần dần thành trái. Như vậy một dòng chuyển biến từ một hạt nhỏ lần lần thành cây, rồi có quả có trái và cuối cùng rụi mất. Chúng ta thấy nó có dừng ở một chặng nào không? Từ nhân tới quả là một dòng chuyển biến không ngừng. Chúng ta có thể nói hạt bắp nhất định sẽ có trái bắp ăn không? Không hẳn. Có hạt bắp mà không xuống đất, không được nước, ánh nắng, được săn sóc thì nó không thành trái bắp. Có hạt bắp là có nhân, nhân đó có thể thành tựu được quả mà cũng có thể không thành tựu được quả.

Phật pháp có cái nhìn hết sức thật. Nhìn đời, nhìn đạo, nhìn tất cả hành động của chúng ta, đều là một dòng thay đổi từ nhân tới quả. Trong khi thay đổi, nó còn có những nhân phụ trợ là nhân thuận để giúp thành hình hoặc nhân nghịch làm cho tiêu tan. Như có hạt bắp gieo xuống đất rồi, nhưng phải là đất tốt, được nước tưới đều thì hạt bắp mới nảy mầm. Khi nảy mầm rồi chúng ta phải săn sóc, bón phân, xem chừng sâu rầy có phá hay không, ta tạo duyên tốt để cây bắp tăng trưởng đều mới đạt được kết quả tốt. Nếu chúng ta để hạt bắp xuống rồi bỏ luôn, không tưới nước, không bón phân, không chăm sóc kỹ lưỡng thì cây bắp sẽ khô khan rồi chết, chớ không thành trái bắp được. Như vậy có nhân chưa khẳng định được sẽ có quả, còn những điều kiện phụ trợ nữa. Phụ trợ thuận thì tăng trưởng có kết quả. Ngược lại phụ trợ nghịch thì tiêu mòn hư mất. Đó là điều hết sức tế nhị, nếu không hiểu quí vị sẽ dễ thối tâm trên đường tu.

Nhiều Phật tử tin gieo nhân nào được quả nấy, thấy ai nghèo đói ủng hộ giúp đỡ, sẵn sàng giúp đỡ những khó khổ của mọi người. Nhưng lâu lâu quí vị gặp một tai nạn xảy ra thì buồn trách “tôi làm lành, tại sao lại gặp quả xấu”. Điều này cần phải dè dặt, nếu gặp cảnh xấu không làm lành nữa, chúng ta sẽ thối Bồ-đề tâm thì không có cơ hội thành tựu giác ngộ giải thoát.

Ngày xưa tôi có viết một bài đăng báo Từ Quang, tên là “Nhân hoa quả cỏ”. Sở dĩ tôi viết bài này vì lúc tôi bị bệnh phổi phải lên Phương Bối am của thầy Nhất Hạnh ở để trị bệnh và dưỡng bệnh. Lên đó tôi thích trồng một ít hoa chung quanh thất, nên có vài Ni cô trên Đà Lạt tới thăm, mấy cô mua giùm một ít hột hoa xuống cho. Tôi xới một thửa đất theo đúng qui tắc của người làm vườn, rải hạt hoa xuống, mỗi ngày tưới đều đều. Tôi đinh ninh trong bụng chừng nửa tháng hạt hoa lên đầy hết. Đúng vậy, nửa tháng sau tôi thấy lấm tấm thật nhiều, tôi mừng quá. Tới chừng nó lên cao một chút nhìn lại toàn là cỏ không, chẳng có cây hoa nào. Tôi ngạc nhiên, đi quanh luống hoa xem xét kỹ lưỡng, mới phát hiện ra mấy con kiến đi thành lằn giống như đường xe chạy. Chúng lội tứ tung trong mấy luống hoa và ăn hết hạt hoa của tôi. Chừng đó tôi mới vỡ lẽ ra rằng mình ương hạt hoa, tưới tắm đều đặn nhưng quên chăm sóc ngừa kiến, cho nên kiến tha hạt hoa đi hết, chừa lại hạt cỏ thôi. Mình cứ tưới, rốt cuộc hoa đâu không thấy, chỉ thấy toàn là cỏ. Nhân đó tôi viết bài “Nhân hoa quả cỏ”. Đó là sự thật tôi đã chiêm nghiệm.

Sự thật đó đã làm cho tôi nghĩ ngợi nhiều. Ngày xưa đi giảng, Phật tử thắc mắc tại sao con làm lành mà cứ gặp tai nạn. Một Phật tử kể hai vợ chồng nọ có vài đứa con, làm ăn tương đối khá. Khi ông anh chồng vô, không biết tại sao hai ông bà chết hết, chỉ còn lại hai đứa con. Người thím dâu thấy thương đem về nuôi. Đó là nhân tốt. Bà nuôi lớn lên, cho đi học đàng hoàng, nhưng tới khi hai cháu ra trường, nó đối xử với bà rất lạnh nhạt. Bà buồn nên gặp chúng tôi, hỏi tại sao con làm tốt mà quả trả lại xấu. Tôi không trả lời được. Lúc ấy mới kêu mấy đứa nhỏ lại hỏi: “Sao thím tốt với tụi con mà tụi con lại xử sự như vậy?” Chúng trả lời thế này: “Buổi đầu thím thật tốt với chúng con, chúng con mang ơn lắm. Nhưng thưa Thầy, mỗi lần làm việc trong nhà, nặng là phần tụi con, còn nhẹ là phần mấy em. Khi đi coi hát thím cho em con mười ngàn, còn tụi con có năm ngàn.” Chúng kể ra đủ thứ chuyện đối xử không công bằng của người thím dâu. Tôi thấy nhân tốt ban đầu nếu chúng ta không khéo giữ gìn, nó sẽ mất. Đứa nhỏ biết nhưng khi còn yếu thế phải nương nhờ thì nó chịu, khi đủ khả năng tách ra rồi, nó lơ là vì cách đối xử của người thím không trọn vẹn thủy chung. Tốt ở ban đầu mà khoảng giữa không tốt, giống hệt như tôi trồng hoa vậy. Có lý do chớ không phải ngẫu nhiên.

Chúng ta thấy rằng, đối với nhân quả nếu chỉ nhìn sơ qua thì không bao giờ thấy tường tận. Như người thím nếu thấy kỹ hành động của mình chắc không trách cháu. Cũng như tôi không thấy kiến nên khi cỏ lên tôi ngạc nhiên. Nếu tôi thấy kiến bò vô, tôi sẽ không ngạc nhiên. Có nhân mà không khéo bảo vệ, gìn giữ, giúp nó tăng trưởng thì quả sẽ mất, không nhất định thành quả. Nhân chúng ta đã gieo rồi, từ đó nó là một dòng chuyển biến liên tục. Trong dòng chuyển biến liên tục ấy chia ra hai phần: một phần chuyển biến theo sự tăng trưởng, một phần chuyển biến theo sự hư hoại. Cái gì giúp cho nó chuyển biến để tăng trưởng, nhà Phật gọi là thuận nhân hay thuận duyên. Ví dụ như hạt bắp có đủ đất tốt, có nước, có nắng cũng như sự săn sóc sâu bọ v.v... đó là thuận nhân giúp nó tăng trưởng. Nếu thuận nhân đủ thì bảo đảm hạt bắp sẽ tiến triển thành cây bắp, cho ra quả bắp. Ngược lại, nó không có đủ các thuận nhân thì sẽ bị sâu bọ ăn hoặc thiếu nước, thiếu nắng… mà chết. Nên tuy có nhân hạt bắp mà quả bắp không bao giờ có.

Hiểu như vậy quí Phật tử phăng ra, sẽ tìm thấy được ý nghĩa của sự tu hành. Sự tu hành của chúng ta cũng là một dòng chuyển biến. Tại sao? Vì chúng ta tu là tu ba nghiệp của mình, tu ở thân, ở miệng, ở ý. Thân khẩu ý chúng ta luôn luôn khéo tu. Ví dụ Phật tử phát nguyện qui y Tam Bảo, gìn giữ năm giới, đó là gieo nhân tốt rồi. Nhưng từ khi qui y, quí vị cứ nghĩ mình đã qui y Tam Bảo, đã thành người hiền lành, không chịu tu sửa, đinh ninh rằng mình qui y rồi, nhất định Phật đón về Cực Lạc, đó là sai lầm.

Nhiều Phật tử nghĩ rằng qui y là cốt sống được mạnh khỏe an vui, chết được theo Phật. Nhưng trên thực tế, quí vị qui y rồi có mạnh khỏe luôn không, nhắm mắt được theo Phật không? Như vậy qui y chỉ là nhân thôi. Từ đó cho tới ngày trăm tuổi là một dòng chuyển biến. Phật tử qui y là nhân lành, từ đó về sau thân miệng ý luôn luôn nghĩ lành, làm lành, nói lành thì nhân lành mới tăng trưởng. Ngược lại chúng ta được nhân lành mà nói dữ, nghĩ xấu, làm ác, thì nhân lành đó không tồn tại. Như vậy đừng tự mãn mình qui y rồi là mọi việc tốt lành, được như ý. Đừng bao giờ nghĩ như vậy.
Chúng ta mới gieo nhân, còn phải tạo thuận duyên giúp đỡ cho nhân tăng trưởng. Đó là ý nghĩa của sự tu. Người cứ tự mãn qui y là xong việc thì chưa biết tu. Tôi nhắc thêm, nhiều vị có con hai ba tuổi, đem vô chùa qui y để nó mạnh giỏi. Qui y với ý niệm cho con mạnh giỏi, chớ không phải cho con tu. Do đó nên nhiều chùa có tập tục nuôi con nít. Thầy lên bàn Phật nhất là bàn thờ đức Quan Âm, để một miếng vải đỏ đội trên đầu, tụng chú thuật chi đó, kế thầy xé miếng vải nhỏ cột cho thằng bé. Như vậy bảo đảm nó mạnh giỏi. Thành thử ý nghĩa qui y để tu hành không còn nữa.

Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực. Như Phật tử hồi trước làm điều xấu ác, bây giờ tu rồi có thể chuyển đổi được quả xấu do mình làm trước kia không? Tôi khẳng định rằng nếu chúng ta tu chân chánh có thể chuyển đổi được, còn hết hay không thì tùy, chớ có chuyển đổi. Tôi nói như vậy để quí vị hiểu rõ, không phải hồi xưa mình làm cho người khác khổ trăm phần, bây giờ tu suốt đời cũng bị trả quả khổ trăm phần như xưa. Như vậy tu làm gì? Cho nên nhất định phải có thay đổi nhưng thay đổi thế nào, đó là vấn đề khác.

Ở đây để tường tận hơn, chúng tôi chỉ cho quí vị thấy ý nghĩa nhân quả mà lâu nay chúng ta chỉ hiểu một chiều. Ví dụ có người làm được việc lành, cứ nghĩ mình làm lành cho ai đó, mai kia sẽ được quả lành trở lại. Nhưng nếu quả lành không đến, vị ấy đâm ra thối tâm. Như vậy là chưa hiểu hết lý nhân quả.

Trong nhà Phật nói nhân quả có hai trường hợp: một là tạo nhân tốt được quả tốt, hai là tạo nhân tốt nhưng không được quả tốt. Tại sao vậy? Ví dụ hồi xưa mình đã cư xử với người đó rất xấu, bây giờ thấy họ khó khăn mình giúp. Hồi xưa xấu trăm phần trăm, bây giờ giúp mới bốn năm chục phần trăm, mà nghĩ đã có ơn với người ta rồi. Khi thấy họ không thèm biết ơn, lúc đó mình tức tại sao giúp đỡ như vậy mà không biết ơn? Nhưng so với quá khứ mình xấu, cái tội cũ trả chưa đủ mà bây giờ đòi ơn, làm sao chấp nhận được? Cho nên tuy giúp mà người kia vẫn chưa thỏa mãn. Nếu hiểu được nhân quả chúng ta chỉ cười thôi, giận làm chi. Ngược lại có những người mình giúp họ một chút thôi, mà họ rất biết ơn, rất nhớ mình. Vì ta không nợ họ, nên giúp một chút họ cũng thấy mình tốt. Hiểu vậy, khi giúp ai ít mà người đó nhớ ơn, muốn tìm cách đền đáp lại, chúng ta biết mình với người đó chưa có nợ nần cũ. Còn người mình lo thôi là lo mà họ vẫn không thèm biết ơn, cũng không có gì trách, cười thôi. Hiểu được nhân quả như vậy quí Phật tử mới yên lòng tu. Nếu không nắm rõ lý nhân quả, chúng ta nhìn cuộc đời rất bực bội.

Phật tử nào tu hành khá, khi tạo nhân liền được hưởng quả. Như quí thầy quí cô hoặc Phật tử giúp ai, không nghĩ họ phải trả ơn mình. Thấy người khổ cứ giúp, khả năng tới đâu giúp tới đó, miễn họ bớt khổ là mình mừng, họ vui mình vui, như thế đủ rồi, không mong cầu chi hết. Như vậy nhân mình tạo ra là giúp người bớt khổ, được vui. Thấy người vui mình vui theo, đó là gieo nhân gặt quả liền. Nhân quả có ngay hiện đời, không trông đợi xa xôi. Cả ngày mình giúp người này vui, người nọ vui. Họ vui bao nhiêu mình vui bấy nhiêu. Rõ ràng tạo nhân liền có quả. Nếu chúng ta trông chờ đền đáp, nhiều khi người ta đáp không như mình mong muốn thì dễ bực bội, hờn trách. Chỉ cần thấy người ta hết khổ được vui, mình vui theo đó là quả tốt rồi.

Bởi vậy Bồ-tát giúp tất cả chúng sanh mà không chán. Vì chúng sanh hết khổ được vui thì Bồ-tát vui rồi, đâu có chờ đợi. Còn chúng ta giúp chúng sanh dễ chán lắm. Tại sao? Tại mình giúp ai thì muốn người ta biết ơn và đền ơn lại. Nếu họ không biết ơn đền ơn thì mình buồn, không muốn giúp nữa. Bồ-tát thấy chúng sanh đang đói, đưa miếng bánh mì cho họ ăn. Ăn xong họ cười là Bồ-tát vui rồi, khỏi cần nghĩ gì. Như vậy hai thái độ tạo nhân quả khác nhau, một cái mong có sự thù đáp, một cái không mong sự thù đáp dẫn tới hai kết quả khác nhau. Nhân quả không mong sự thù đáp là nhân quả của người biết đạo sâu xa. Tạo nhân quả như thế mới là lẽ chánh của người tu Phật.

Nhân quả cũng có hai cách chuyển biến: thứ nhất là chuyển biến do tác động bên ngoài, thứ hai là chuyển biến do nội tâm. Ví dụ như hồi xưa mình ở địa vị cao, có những người phụ giúp mình ở địa vị thấp. Bấy giờ ta không nghĩ tới cái khổ của người dưới, nên hiếp đáp làm họ khổ. Vì họ ở dưới nên mình làm khổ, họ không dám nói, không dám tỏ thái độ oán hờn, nhưng trong lòng ôm ấp một trăm phần trăm oán hờn. Tới lúc nào đó thay đổi,  họ có địa vị cao hơn mình, bấy giờ họ sẽ khởi niệm trả thù mình. Nhưng rất may, khi đó mình thức tỉnh học đạo và biết tu. Nhờ thế mình hiểu được luật nhân quả nên vui vẻ đón nhận những quả khổ do mình đã tạo ra lúc trước, không than van oán hờn người ta. Đó là một cách chuyển nhân quả.

Quí vị Phật tử tụng kinh Bát-nhã “chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách” là thấy thân năm uẩn không thật, liền vượt qua tất cả khổ ách. Thân năm uẩn không thật thì lời khinh chê, chửi mắng cũng không thật. Hồi xưa mình khinh bỉ chửi mắng người ta một trăm phần trăm, bây giờ họ tìm tới trả thù, cũng khinh bỉ chửi mắng mình một trăm phần trăm. Nếu hiểu đạo, thấy thân năm uẩn không thật, khi bị chửi mắng mình thù giận hay cười? - Cười. Ngày xưa bị mình hành phạt họ khổ sở, bây giờ họ hành phạt mình cười không khổ, như vậy trả hay không trả? Trả hay không trả, không thể nói khẳng định được. Nếu không trả tại sao họ chửi mắng, hành phạt mình? Họ chửi mắng hành phạt mình là trả thù rồi. Đối với người kia họ thấy trả, nhưng đối với mình không thấy trả gì hết. Khi mê mình nói họ con bò, họ giận quá chừng. Bây giờ mình tỉnh, họ nói mình con bò, mình cười vì biết người ấy nói bậy. Như vậy là trả mà như không trả gì hết.

Người thế gian chịu mê hay chịu tỉnh? Chịu mê. Bởi vậy Phật nói chúng sanh đáng thương. Tất cả chúng ta đau khổ là vì mê lầm. Từ mê lầm cứ liên miên chịu khổ những chuyện không đáng giận, không đáng buồn, không đáng khổ. Nếu tỉnh nghe người ta nói những lời sai lời bậy mình cười thôi, có gì buồn có gì khổ.

Nhiều Phật tử nói, mình quấy họ chửi nhịn được, mình không quấy họ chửi làm sao nhịn. Tôi sẽ trả lời mình không từng quấy mà họ chửi, mình thương họ tại vì họ điên, không hiểu gì hết mới chửi như thế. Mình làm quấy người ta chửi, mình nhận để sửa. Mình không từng làm quấy, họ chửi mình thương họ. Như vậy có tu chưa? - Tu. Học đạo là học tỉnh giác, chớ đừng mê. Phật tử tuy học Phật mà gặp mấy cảnh trái nghịch chịu mê hơn chịu tỉnh. Đó là điều đáng thương.

Trường hợp thứ hai, nếu ngày xưa mình làm người ta khổ nhiều, lẽ ra bây giờ họ có cơ hội trả thù lại, nghĩa là làm khổ mình, nhưng trong thời gian khổ họ đến với đạo và biết tu, nhờ thế họ thấy nếu trả qua trả lại thì tất cả oán hờn cứ chồng chập không bao giờ hết, hiểu vậy rồi họ liền hỉ xả, bỏ hết. Hồi xưa mình làm họ khổ, bây giờ có đủ cơ hội nhưng họ vẫn không làm mình khổ, đó là do họ biết tu. Tâm của người nhận oán hờn biết tu thì quả cũng bớt cho người gây oán hờn.

Chúng ta biết tu thì ai thù oán, ta tha thứ hỉ xả. Ai tạo nhân khổ cho mình, ta không trả lại. Cũng như mình biết tu dù người khác muốn đến trả quả xấu, mình cũng vẫn an lành tự tại. Như vậy sự tu chuyển biến cả tâm hồn của người tạo quả và người trả quả, hai bên đều chuyển biến tốt. Ngược lại, nếu hai bên không biết tu thì trả đủ, hồi xưa vay một trăm phần trăm, ngày nay trả tới hai trăm, tại vì nó lớn theo thời gian, cũng như cho vay có lãi vậy. Như thế vay vay trả trả không cùng.

Cho nên Phật dạy tu là phải hiểu thấu đáo đạo lý để gỡ bỏ những oán hờn, đau khổ. Chúng ta được an vui, người khác mới an vui. Tu là đem lợi lạc lại cho bản thân và mọi người. Nếu không biết tu, chúng ta cứ gay cấn người này người kia, vay trả trả vay, kiếp kiếp đời đời sống trong oán hờn thù hận, không bao giờ hết khổ đau. Đó là ý nghĩa nhân quả.

Trường hợp khác, nhân quả có thể tiêu giảm mà không do nội tâm của người hoặc của ta. Như ngày xưa mình hung dữ, xử sự với một kẻ khác tàn nhẫn, bây giờ họ có thế lực muốn trả thù lại. Nhưng từ khi chúng ta thức tỉnh biết tu, làm lành, giúp người này người nọ, chung quanh ai cũng thương, cũng quí. Người kia tới trả thù, thì hàng xóm liền khuyên can vì thấy mình hiền tốt. Nhờ nhiều người khuyên can, kẻ kia giận mười cũng giảm còn năm bảy thôi. Đó cũng là nhân quả chuyển biến theo chiều giảm bớt. Nhờ tu quả khổ của chúng ta giảm, cho nên nhân quả luôn đổi thay, không cố định. Có khi đổi thay chiều thuận, có khi đổi thay chiều nghịch. Đứng về mặt nhân quả, chúng ta tin chắc nhân nào dù xấu mấy, nhưng nếu chúng ta cố gắng chuyển đổi nó cũng đổi thay đôi phần.

Như ngài Mục-kiền-liên bị người ta đánh cho tới chết, Ngài nhớ đời trước đã từng hại họ, bây giờ họ trả thù. Ngài chịu đòn để trả hết mối nợ cũ, được giải thoát sanh tử, lúc đó Ngài buồn giận hay vẫn thản nhiên? Vẫn thản nhiên, đau mà không tức, không buồn vì biết đây là chuyến chót trả cho rồi. Như vậy trả nợ đối với Ngài là chuyện vui, trả mà không khổ. Như Tổ Huệ Khả khi bị nhốt trong khám, Ngài nói còn chút nợ phải trả chuyến này cho rồi.

Quí Phật tử vay nợ của ai năm mười năm, tới bây giờ còn chút ít, nếu có tiền nên trả hay để thiếu nợ? Có tiền trả phứt cho rảnh tay. Cho nên đem tiền trả vui chớ không buồn giận. Vì vậy Tổ Sư Tử nói thân năm uẩn này không thật, sá gì cái đầu. Đối với các ngài nợ cứ trả, cười trả chớ không khổ như chúng ta. Càng học đạo quí Phật tử thấy càng vui. Bởi vì tất cả những gì đến, chúng ta thấy tường tận rồi cười, không buồn phiền.

Người chưa hiểu đạo khổ đủ thứ, người ta nói hơn mình một tiếng là chịu không nổi, bị lấn lướt một chút chịu không nổi, bị khinh một chút chịu cũng không nổi. Cái gì cũng chịu không nổi hết, riết cả lồng ngực chứa đầy oán hờn thành ra bệnh tim, gần chết khổ sở vô cùng. Bây giờ hiểu rồi chúng ta nhìn mọi thứ chỉ cười thôi. Quí vị thấy chúng ta giận ai chứa trong lòng, mỗi khi đang ngủ ngon giấc, giật mình thức dậy nhớ lại chuyện oán thù thì ngủ không được nữa. Cứ trằn trọc nhớ sao họ làm như vậy, lăn qua trở lại mất ngủ, rồi mất ăn, đó là nhân của bệnh. Hiểu rồi mình cười thôi, cái gì qua cho qua luôn, hơi đâu phiền giận. Như vậy chúng ta thản nhiên tự tại, sống trong cuộc đời rất vui. Tu là như vậy, chớ không phải qui y để được mạnh giỏi.

Nhiều Phật tử hiểu lầm tu là mọi tai nạn qua hết. Làm sao qua hết được! Tu là tu, còn chuyện hờn oán do mình gây ra từ trước, người ta vẫn hờn oán. Ngày xưa mình làm cho người đó khổ quá, họ giận mình. Bây giờ biết tu thì tâm mình an ổn thanh tịnh, nhưng người kia đâu có hết giận. Mai mốt gặp mình, họ xả ra một lần cho đã giận, nếu chúng ta biết tu thấy những việc ấy không có giá trị, chỉ đáng thương thôi thì mình không khổ. Như vậy mình sẵn sàng trả nợ, nhưng trả một cách nhẹ nhàng thảnh thơi.

Tôi thường nói cuộc đời này đã dành sẵn cho chúng ta rất nhiều điều bất như ý. Muốn được an ổn chúng ta phải khéo tu, chỉ khéo tu mới thoát khỏi những điều đau khổ khi gặp bất như ý, chớ đừng có cầu nguyện. Phật tử hay cầu nguyện quá, cầu nguyện cho con hết phiền não, cho tai qua nạn khỏi. Cầu nguyện như vậy có được không? Nhiều khi tôi xấu hổ vì chỗ này. Phật tử tin tưởng, ai cũng muốn gởi tên cho thầy cầu an, mà thầy bệnh phải đi bác sĩ, không tự làm an cho mình được. Thành ra tôi rất xấu hổ không đủ sức làm cho Phật tử an. Tôi chỉ dạy giáo lý cho Phật tử hiểu, rồi tự quí vị giải cho mình an, mình tỉnh, chớ cầu an chưa chắc được an. Chừng nào suốt ngày suốt tháng suốt năm tôi không bệnh, không bất như ý tôi mới dám cầu an cho Phật tử. Chớ quí thầy còn bệnh, còn gặp những việc bất như ý thì cầu cho quí Phật tử khó quá. Đó là lẽ thật, mà lẽ thật nói ra đôi khi mếch lòng một chút.

ho nên tôi xin nhắc cho quí Phật tử nhớ, chúng ta đã tu là phải tỉnh giác, thấy được lẽ thật, thấy được chân lý. Hiểu được lẽ thật rồi, mọi khó khăn chúng ta giải quyết một cách hết sức dễ dàng. Ngày xưa người ta hay nói do oan trái mới làm vợ chồng, cha con, mẹ con, anh chị em… oan trái trong thù hận hay thương yêu. Những đứa con trái nghịch cha mẹ lại thương nhiều, còn mấy đứa hiếu thảo lại thương ít. Đó cũng là nhân quả, bởi vì thương mới trả hết nợ, còn ghét trả không hết. Cha mẹ phải thương những đứa con ngỗ nghịch, đuổi không đành để trả, trả chừng nào hết, không đuổi nó cũng đi. Còn những đứa con có hiếu là nợ cha mẹ, nên nó phải trả, nhiều khi cha mẹ không ngó ngàng tới nữa. Bởi vì nếu nó trả mà cha mẹ cứ săn sóc trở lại nhiều quá thì chừng nào hết nợ? Cho nên người nào trả mà cha mẹ không ngó ngàng nên mừng, như vậy mau hết nợ.

Hiểu thế, gặp hoàn cảnh nghịch làm chúng ta đau khổ mình cũng cười, nợ thì phải trả không oán trách ai hết. Người có tâm tu hành là đã có nhân lành, quí Phật tử biết đến chùa, nghe quí thầy giảng là điều hết sức tốt. Bởi có sẵn nhân lành nên ngày nay tìm tới chỗ lành. Như vậy từ đây về sau quí vị phải khéo tạo những trợ nhân tốt để duyên lành của mình mãi mãi liên tục không dứt. Có thế quí Phật tử mới sống cuộc đời an vui tự tại, được nhiều điều tốt đẹp. Cho nên khéo tu là điều hết sức hệ trọng, chúng ta cần phải thực hành triệt để, chớ không thể nói suông. Càng tu càng hết khổ, càng tu càng tăng trưởng niềm vui, tăng trưởng sự an lạc. Ai tu không được như vậy là tu chưa đúng với Phật pháp.

Để kết thúc, tôi nhắc quí Phật tử ráng tạo duyên tốt, làm tăng trưởng nhân lành của mình. Làm sao mỗi năm quí vị mỗi tỉnh giác sáng suốt, để trở thành người Phật tử chân chánh, sống cuộc đời an vui hạnh phúc, tự tại trong thế gian nhiều buồn khổ này.
HT Thích Thanh Từ

SỐNG KHỎE, SỐNG LÂU

SNG KHE, SNG LÂU (II&III) XT da phn ln trên bài Bí Quyết Sng Lâu ca Bác sĩ  T Quc Lc, mt ngưi M gc Hoa, đã tng làm vic cho T chc y tế thế gii (WHO) nhiu năm. Mi đây ông đưc B y tế Trung Quc mi v Bc Kinh nói v sc khe. Bài nói ca ông đưc công chúng hoan nghênh và đã đưc đãng ti trên nhiu t báo ca Trung Quc.
Xin b
m vào hình chiếu đ xem tiếp. 
II. VN ĐNG Có Ô-Xy


  1. Có mt kinh nghim thành nguyên tc, nht thiết đng luyn tp sáng sm. Xin khuyến ngh các v tp luyn vào chiu ti. Các nhà khoa hc đã quy đnh, ăn xong 45 phút sau hãy vn đng. Mà ngưi già vn đng ch cn đi bách b 20 phút là đưc.
  2. Mun gim béo không? dùng phương pháp này: na gi đến mt gi trưc ba ăn, ăn 2-4 ht rong xon, sau đó s gim đưc cm giác mun ăn mà li không thiếu dinh dưng. Ngưi Châu Âu gim béo toàn dùng rong xon,  trong nưc (Trung Quc) ăn ít, đi ngoài nhiu là không đúng cách.



  • 3. Thi gian ng dyquc tế quy đnh là 6 gi sáng đ bn kham kho. Thi gian m ca s, quc tế quy đnh là 9-11 gi sáng, bui chiu là 2-4 giVì sao ? Vì sau 9 gi, không khí ô nhim lng xung, cht ô nhim đã gim bt, không có hin tưng phn lc. Các v chú y cho, sáng dy m ca s, đng có th nhi đó, vì cht gây ung thư, cht phn lc đu chy hết vào trong phi bn, d b ung thư phi. Quc tế đã cnh cáo, 6-9 gi sáng là lúc d gây ung thư nguy him nht.
  • 4. Tp luyn lúc nào?  đâu? Không có mt tri thì không tp luyn: C đêm bn đã hít đy bng khí cacbonic  trong nhà, trong đưng hô hp đã có hơn 100 loi đc t ri, li chy vào rng cây, bui sáng trong rng cây li toàn là cacbonic. Tp luyn bui sáng, huyết áp cơ s cao, thân nhit cơ s cao, thưng thn tuyến t cao gp 4 ln bui chiu ti, ngưi có bnh tim bm sinh rt d sinh chuyn. Trong rng cây, phi đi khi mt tri lên, ánh mt tri có phng vi cht dip lc mi có th sn sinh ô-xy. Lúc trong rng toàn khí cacbonic, rt d trúng đc, rt d mc ung thư.
  • 5. Ngưi ln tui?Tôi đ ngh các v, mùa hè ng sm dy sm, mùa đông không nên đi tp bui sáng sm mà đi sang tp bui ti. Cũng không phi là ngưi như thế nào cũng đu ng sm, dy sm kho ngưi c, ngưi cao tui đng có bt dy mnh. Có ngưi bt mt cái là dy, thot mt cái là nhi máu cơ tim chết luôn.
   Quc tế ngưi ta nói, ngưi ngoài 70 tui nên dy thong th, dui tay dui chân c đng vài cái, ri xoa bóp tim mt lúc, ngi vài phút ri hng đng lên. Như vy s không làm sao c. Cho nên tui tác khác nhau, thi tiết mùa v khác nhau thì phi đi x khác nhau.
  • 6. Còn ng trưa thì sao? Thi gian ng trưa nên là na gi sau ba ăn trưavà tt nht nên ng mt tiếng đng h, ng lâu quá không có li chó sc kho. Không nên đp chăn dày.

  • 7. Bui ti đi ng vào lúc nào? Xưa nay chúng tôi không đ xưng ng sm dy sm. Khái nim ng sm dy sm cn làm rõ. Nếu 7h ti đi ng, 12h đêm dy lc đc v vn thì không ích gì. Chúng tôi ch trương 10-10h30 đi ng, vì  hi ngh quc tế ngưi ta đã quy đnh, mt gi đến mt gi rưi sau đi vào gic ng sâu là khoa hc nht, như thế thì 12h đêm đến 3h sáng, 3 tiếng y sét đánh cũng không nhúc nhích, không có làm gì hết, 3 tiếng đng h y là gic ng sâu. Nếu 3 tiếng y ng tt thì hôm sau dy tinh thn s rt thoi mái. Nếu anh ng sau 4h, thì đó là gic ng nông.
  • Biết cách ng và không biết cách ng là rt khác nhau. Chúng tôi ch trương t 12h đến 3h sáng ng say như chết và trưc khi đi ng tm nưc nóng 40-50oC, như vy cht lưng gic ng rt cao. Các bn đánh bài tôi không phn đi, nhưng phn đi đánh bài t 12h đến 3h sáng.  Thm Quyến có 4 thanh niên đánh bài mà chết, báo đã đưa tin.

III. TRNG THÁI TÂM LÝ Nếu trng thái tâm lý không tt thì ông bà ăn ung tp luyn cũng vô ích

  1. Tc gin thì d b khi u, c thế gii đu biết. Trưng đi hc Stan-pho đã làm mt cuc thí nghim ni tiếng, lng mũi đt lên mũi cho anh th, ri sau đó lng mũi đt lên bãi tuyết 10 phút.
Nếu băng tuyết không đi màu thì chng t anh bình tĩnh, t nhiên;
Nếu băng tuyết trng lên chng t anh có điu h thn day dt;
Nếu băng tuyết tím đi chng t anh tc gin. Rút ly 1-2cc ch băng tuyết tím đó tiêm cho chut con thì 1-2 phút sau chut con s chết.


  • Làm sao tránh gin? Tôi khuyên các bn, ai mun trêu tc bn thì bn đng có tc. Nếu bn không nhn đưc, bn hãy xem đng h, đng đ quá 5 phút, quá 5 phút là hng chuyn, máu s tím đi. Thí nghim này đã đưc gii Nobel.
  • Tâm ly hc có th đ xut 5 phương pháp tránh tc gin: mt là tránh đi ; hai là chuyn đi, ngưi ta chi thì anh c đánh c, câu cá, không nghe thy ; ba là th ra, nhưng phi chú y, ngưi ta chi anh, anh lai đi chi ngưi khác thì không gi là th ra, mà phi đi tìm bn tri âm đ nói chuyn, th ra hết (gii toa?) nếu không, c đ bng, thì s sinh bnh ; bn là thăng hoa, tc là ngưi ta càng nói, anh càng ra sc làm ; năm là khng chế, đây là phương pháp ch yếu nht, tc là mày chi thế nào, ông cũng không s.

  • Điu này rt quan trng Nhn mt lúc gió yên sóng lng, lùi mt bưc bin rng tri cao". Nhn ni không phi là mc đích mà là sách lưc. Nhưng ngưi thưng không làm ni, mi nói mt câu đã lng ln lên. Tiu bt nhn tc lon đi mưu (Không nhn đưc điu nh thì s ri lon c mưu chí ln). Châu Âu có mt kinh đin bác hc : cái lý khó ging thì nên dng, con ngưi khó đi x thì nên x hu, vic khó x thì nên làm buông th, công vic khó thành thì nên khôn khéo. Câu đu tiên trong 4 câu y có nghĩa là: Lý l khó thì khoan hãy nói. Triết lý rt sâu sc, rt có ích. Trong Tam Quc Din Nghĩa, Gia Cát Lưng 3 ln chc tc Chu Du, rt cuc đã khiến Chu Du tc gin mà chết. Ti Chu Du hay ti Gia Cát Lưng ? Kết lun là ti Chu Du, khí lưng ông ta hp hòi quá. Tc gin nguy hi rt ln cho ngưi ta.


2. Sao không CƯI? :Hin nay có mt lý thuyết mi, tt c các đng vt đu không có công năng cưi, duy loài ngưi có công năng đó. Nhưng loài ngưi chưa biết s dng công năng đó. Xưa có câu: mt n cưi tr ra 10 tuiKhông phi ch tui tác mà ch tâm thái, ming hay cưi, ngưi hay khoẻ”.
Tác dng ca cưi rt ln, cưi tránh đưc rt nhiu bnh. Th nht không b thiên đu thng, th hai không b đau lưng, vì khi cưi vi tun hoàn phát trin. Thông tc bt thng (thông thì không đau), bt thông tc thng (không thông thì đau). Li na, thưng xuyên cưi đc bitt cho đưng hô hp và đưng tiêu hoá. Có th làm thí nghim, anh c s vào bng và bt đu cưi, mi ngày cưi to 3 ln bng lc sc 3 ln thì không táo bón, không b ung thư d dày, đưng rut.
Anh tp tay, tp chân nhưng tp d dày đưng rut vào lúc nào ? Không có cơ hi, ch có cưi mi tp đưc d dày đưng rut. Cưi đã tr thành tiêu chun ca sc kho. Tôi đã điu tra nhiu ln, gii Nobel th hai v cưi đã đưc trao. i là th thuc tê thiên nhiên. Nếu bn b viêm khp, xin đng lo c nhìn vào khp mà cưi ha há, mt chc là không đau na. Cưi có nhiu ích li như thế, sao chúng ta li không cưi nh?


  • Mi đây thành ph Bc Kinh đã có tng điu tra ri, tui th ca ngưi ta bn có biết là c ông th hơn hay c bà th hơn không ? Tôi xin mách các v, c bà th hơn c ông, bình quân th hơn c ông 6 năm rưi. Tình c gp mt c ông, ti sao c li tp luyn mt mình ? Ông c bo lão không ghép đưc đôi, các bà lão đu tp vi nhau, luyn tp tng đôi  đu ph. Ưu đim ln nht ca nhiu c bà là tai khi còn tr đã rt thích cưi, các ông không cưi. Đã kém ngưi ta sáu tui rưi ri đó, đến bao gi my ông mi cưi. Cho nên t gi, mi ngưi hãy mau cưi đi. Có ngưi nói thế nào cũng chng cưi. Cp bc càng cao càng không cưi, tôi biết làm thế nào đưc ?
  • Chng nhng đã không cưi, li còn có mt logic Nam nhi hu l bt khinh đàn(Đàn ông có nưc mt nhưng không d gì chy). c mngưi thưng thì mn, nưc mt bnh nhân tiể̉u đưng thì ngt, nưc mt đau bun thì đng, trong đó có peptide (pép-tít) có hóc môn. Nếu lâu ngày không chy đi thì s b khi u, b ung thư đy. Dù có khi khi u thì cũng b loét hoc viêm kết tràng mãn tính. Cho nên, nếu các v đau bun thì phi chy nưc mt ra, gi li không ích gì đâu.


TÓM LI
  •  hi ngh quc tế, ngưi ta đã cnh cáo chúng ta: Chúng ta hãy ung trà xanh, ăn đu nành, ng cho tt, năng vn đng và dng quên luôn luôn cưi vui.
  • Mong rng mi ngưi đu chú ý đếcân bng m thc, vn đng có ô-xy và chú ý trng thái tâm lý ca mìnhlúc đáng khóc thì nên khóc, lúc đáng cưi thì cưi.
  • Tôi tin rng chúng ta nht đnh vưt qua đưc tui 73, qua tui 81, đến 90, 100 tui vn còn kho mnh.
Chc chn còn nhiu chuyn đ nói v bí quyết Sng Khe, Sng Lâu, nhưng thiết tưng nhng điu cơ bn trên, -đang trong tm tay ca nhiu ngưi trong chúng ta-, có th là nhng bưc khi đu cho mt cuc đi mi t suy nghĩ đến hành đng, đ cuc sng thêm vui tươi, hnh phúc, và tr nên như  mt bài ca tri ân cm mến đi vi Đng To hóa.