Phật
Thuyết Đại
Thừa Vô lượng
Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh
Bình Đẳng Giác Kinh.
Phẩm 29: Nguyện Lực Hoàng Thâm.
Lại nữa A Nan! Trong cõi Phật đó, tất cả Bồ Tát, hiện tại vị lai, đều đang rốt ráo, nhất sinh bổ sứ. Duy trừ nguyện lớn, vào cõi sinh tử, vì độ quần sanh, làm sư tử hống, khoác đại giáp trụ, công đức hoàng thệ, dùng tự trang nghiêm. Tuy rằng sinh vào, đời ác năm trực, thị hiện giống họ, thẳng tới thành Phật, không thọ hướng ác, sinh đâu cũng thường, biết mạng đời trước. phật Vô Lượng Thọ, ý muốn độ thoát, các loại chúng sinh, mười phương cõi nước, đều khiến vãng sinh, nước Cực Lạc kia, tất khiến đặng chứng vào đường Niết Bàn, tất khiến cho người, hành đạo Bồ Tát, đều đặng thành Phật. Đã thành Phật rồi cùng nhau giáo thọ, cùng nhau độ thoát. Triển chuyển như thế, không thể tính kể. Mười phương thế giới, Thanh Văn Bồ Tát, các loài chúng sinh, sinh về nước đó, đặng đạo Niết Bàn, đều sẽ thành Phật, không thể tính kể. Mười phương thế giới. Trong nước Phật đó, thường như nhất pháp, không có tăng nhiều. Tại vì sao Thế?
Giống như biển lớn, là vua của nước, muôn sông đổ về, đều vào biển cả, mà nước biển lớn, nào có tăng giảm! Tám phương trên dưới, vô số nước Phật. Nước A Di Đà, lâu dài rộng lớn, sáng đẹp vui vẻ, vô cùng độc đáo, trang nhiêm thù thắng. Vốn đương do lúc, còn làm Bồ Tát, sở nguyện cầu đạo, tích lũy công đức. Phật Vô Lượng Thọ, ân đớc bố thí, tám phương trên dưới, vô cùng vô tận, sâu rộng vô lượng, không thể nói hết.
Hết Phẩm 29.
Nam Mô Bổ Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Phẩm 30: Bồ Tát Tu Trì.
Lại nữa A Nan, trong cõi nước đó, tất cả Bồ Tát, thiền định trí huệ, thần thông oai đức, thảy điều viên mãn, bí tạng chư Phật, thông đạt rốt ráo, điều phục các căn, thân tâm nhu nhuyến, sâu vào chánh huệ, tàng dư tập khí, chẳng còn dấy khởi, theo chỗ Phật hành, Thất giác, Thánh đạo, tu hành ngũ nhãn, chiếuu chơn đạt tục, Nhục nhãn giản trạch, Thiên nhãn thông suốt, Pháp nhãn thanh tịnh, Huệ nhãn thấy chơn, Phật nhãn đầy đủ, rõ biết Pháp tánh, biện tài tổng trì, tự tại vô ngại, khéo giải thế gian, phương tiện vô biên, chỗ nói chân thật, vào sâu nghĩa vị. Độ chúng hữu tình, diễn nói chánh Pháp, Vô Tướng Vô Vi, không buộc không mở, không phân không biệt, xa lìa điên đảo, ngay chỗ thọ dụng, đều không nhiếp thủ, đi khắp cõi Phật, không luyến không chán, không vui không cầu, cũng không tưởng cầu, không ta không người, không tưởng oán trái. Tại vì sao thế! Bởi các Bồ Tát, đối với chúng sinh, đem từ bi lớn, lợi ích quần sinh, xả ly chấp trước, thành tựu vô lượng, vô biên công đức. Lấy huệ vô ngại, giải Pháp Như Như, khéo biết tập diệt, phương tiện âm thanh, không vui tiếng đời, thích trong chánh luận, biết tất cả pháp,thảy đều không tịch, sinh thân phiền não, tận dướt cả hai. Ở trong tam giới, bình đẳng siêng tu, rốt ráo Nhất Thừa, đến bờ giác kia, quyết đoạn lưới nghi, chứng Vô Sở Đắc, dùng trí phương tiện, tăng trưởng rõ biết, vốn tự xưa nay, an trụ thần thông, đắc đạo Nhất Thừa, liễu ngộ do đấy, không do gì khác.
Hết Phẩm 30
Nam Mô Bổ Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Phẩm 29: Nguyện Lực Hoàng Thâm.
Lại nữa A Nan! Trong cõi Phật đó, tất cả Bồ Tát, hiện tại vị lai, đều đang rốt ráo, nhất sinh bổ sứ. Duy trừ nguyện lớn, vào cõi sinh tử, vì độ quần sanh, làm sư tử hống, khoác đại giáp trụ, công đức hoàng thệ, dùng tự trang nghiêm. Tuy rằng sinh vào, đời ác năm trực, thị hiện giống họ, thẳng tới thành Phật, không thọ hướng ác, sinh đâu cũng thường, biết mạng đời trước. phật Vô Lượng Thọ, ý muốn độ thoát, các loại chúng sinh, mười phương cõi nước, đều khiến vãng sinh, nước Cực Lạc kia, tất khiến đặng chứng vào đường Niết Bàn, tất khiến cho người, hành đạo Bồ Tát, đều đặng thành Phật. Đã thành Phật rồi cùng nhau giáo thọ, cùng nhau độ thoát. Triển chuyển như thế, không thể tính kể. Mười phương thế giới, Thanh Văn Bồ Tát, các loài chúng sinh, sinh về nước đó, đặng đạo Niết Bàn, đều sẽ thành Phật, không thể tính kể. Mười phương thế giới. Trong nước Phật đó, thường như nhất pháp, không có tăng nhiều. Tại vì sao Thế?
Giống như biển lớn, là vua của nước, muôn sông đổ về, đều vào biển cả, mà nước biển lớn, nào có tăng giảm! Tám phương trên dưới, vô số nước Phật. Nước A Di Đà, lâu dài rộng lớn, sáng đẹp vui vẻ, vô cùng độc đáo, trang nhiêm thù thắng. Vốn đương do lúc, còn làm Bồ Tát, sở nguyện cầu đạo, tích lũy công đức. Phật Vô Lượng Thọ, ân đớc bố thí, tám phương trên dưới, vô cùng vô tận, sâu rộng vô lượng, không thể nói hết.
Hết Phẩm 29.
Nam Mô Bổ Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Phẩm 30: Bồ Tát Tu Trì.
Lại nữa A Nan, trong cõi nước đó, tất cả Bồ Tát, thiền định trí huệ, thần thông oai đức, thảy điều viên mãn, bí tạng chư Phật, thông đạt rốt ráo, điều phục các căn, thân tâm nhu nhuyến, sâu vào chánh huệ, tàng dư tập khí, chẳng còn dấy khởi, theo chỗ Phật hành, Thất giác, Thánh đạo, tu hành ngũ nhãn, chiếuu chơn đạt tục, Nhục nhãn giản trạch, Thiên nhãn thông suốt, Pháp nhãn thanh tịnh, Huệ nhãn thấy chơn, Phật nhãn đầy đủ, rõ biết Pháp tánh, biện tài tổng trì, tự tại vô ngại, khéo giải thế gian, phương tiện vô biên, chỗ nói chân thật, vào sâu nghĩa vị. Độ chúng hữu tình, diễn nói chánh Pháp, Vô Tướng Vô Vi, không buộc không mở, không phân không biệt, xa lìa điên đảo, ngay chỗ thọ dụng, đều không nhiếp thủ, đi khắp cõi Phật, không luyến không chán, không vui không cầu, cũng không tưởng cầu, không ta không người, không tưởng oán trái. Tại vì sao thế! Bởi các Bồ Tát, đối với chúng sinh, đem từ bi lớn, lợi ích quần sinh, xả ly chấp trước, thành tựu vô lượng, vô biên công đức. Lấy huệ vô ngại, giải Pháp Như Như, khéo biết tập diệt, phương tiện âm thanh, không vui tiếng đời, thích trong chánh luận, biết tất cả pháp,thảy đều không tịch, sinh thân phiền não, tận dướt cả hai. Ở trong tam giới, bình đẳng siêng tu, rốt ráo Nhất Thừa, đến bờ giác kia, quyết đoạn lưới nghi, chứng Vô Sở Đắc, dùng trí phương tiện, tăng trưởng rõ biết, vốn tự xưa nay, an trụ thần thông, đắc đạo Nhất Thừa, liễu ngộ do đấy, không do gì khác.
Hết Phẩm 30
Nam Mô Bổ Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Phật
Thuyết Đại
Thừa Vô Lượng
Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh
Bình Đẳng Giác Kinh.
Phẩm 31: Công Đức Chân Thật.
Trí ấy sâu rộng, thí như biển lớn. Bồ Đề cao rộng, giống như Tu Di, tự thân oai quang, vượt hơn trời trăng, tâm ấy trắng sạch, giống như núi tuyết. Nhẫn nhục như đất, tất cả bình đẳng. Thanh tịnh như nước, tẩy sạch trần cấu. Hừng Hực như lửa, đốt sạch phiền não, không dính như gió, không các chướng ngại. Pháp âm như sấm, giác kẻ chưa giác. Mưa pháp Cam Lồ, nên nhuận chúng sinh. Rộng như hư không, đại từ bình đẳng, như hoa sen tịnh, nên lìa ô nhiễm, như cây Ni Câu, nên che mát khắp, như chày Kim Cang, pháp tan tà chấp, như núi Thiết Vi, chúng ma ngoại đạo, không thể lung lay. Tâm kia chánh trực, kéo léo quyết định, luật pháp không chán, cầu pháp không mỏi. Giới như Lưu Ly, trong ngoai sáng sạch. Lời nói phát ra, khiến chúng vui phục. Đánh trống pháp, dựng pháp tràng, diệu huệ nhật, phá si mê, thần tịnh an hòa, tịch tịnh minh sát. Làm đại đạo sư, điều phục mình người, dẫn đạo quần sinh, xả bỏ ái trước, hằng lìa ba độc, duy hý thần thông. Nhân duyên nguyện lực, phát sinh thiện căn, hàng phục ma quân, tôn trọng phụng sự, tất cả chư Phật, làm đèn sáng soi đời, làm ruộng phước tối thắng. Tốt lành thù đặc, kham thọ cúng dường, hớn hở vui mừng, dõng mãnh vô úy, thân sắc tướng tốt, công đức biện tài, trang nhiêm đầy đủ, chẳng ai sánh bằng, thường được chư Phật, đồng thanh ken ngợi, rốt ráo Bồ Tát, các Ba La Mật, và thường an trú, nơi tam ma địa, không sinh không diệt, đi khắp đạo tràng, xa cảnh nhị thừa.
Này ông A Nan! Ta nay lược nói, cõi Cực Lạc kia, chỗ Bồ Tát sinh, chân thật công đức, thảy đều như thế. Nếu nói rộng ra, trăm ngàn vạn kiếp, cũng không cùng tận.
Hết Phẩm 31
Nam Mô Bổ Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Phẩm 32: Thọ Vui Không Cùng Tận.
Phật bảo Bồ Tát DI Lặc: Các hàng Trời Người... Nước Vô Lượng Thọ, Thanh Văn Bồ Tát, công đức trí huệ, không thể nói hết. Lại cõi nước ấy, vi diệu an lạc, thanh tịnh như thế, làm sao mà không dủ sức làm lành, niệm đạo tự nhiên? Ra vào cúng dường, chiếu soi kim pháp, vui thích hành đạo, lâu dài huân tu, tài trí dõng mãnh, tâm không thối chuyển, ý không giải đãi. Ngoài như chậm hoãn, trong ứng sử nhanh, tâm lượng bao dung, ví như hư không, thích nghi Trung đạo, trong ngoài tương ưng, nghiêm chỉnh tự nhiên, thúc liễm đoan trực. Thân tâm kết tịnh, tham ái không khởi, chi nguyện an định, không tăng khuyết giảm, cầu đạo hòa chánh, không nghiêm theo tà, y lời Kinh dạy, chẳng dám sai quấy, như dây chỉ mực, thảy đều mộ đạo, rỗng ra vô niệm, không khởi ưu tư, tự nhiên vô vi, hư không chẳng lập, đạm bạc an nhiên, làm đặng nguyện lành, không tham không muốn, hết lòng cầu sách, thương sót từ mẫn, lễ nghĩa đều hợp, bao dung sự lý, siêu độ giải thoát. Tự nhiên gìn dữ, chân chân tinh kiết, chí nguyện vô thượng, tịnh định an lạc. Một mai khai thông triệt sáng, trong tướng tự nhiên, bản nhiên thanh tịnh, áng sáng vô lượng, dung hóa tự nhiên, chuyển biến tối thắng. Uất đơn thành bảy báu, ngang trải thành vạn vật. Quang minh đồng hiện, tốt lành thù đặc, không đâu sánh bằng. Hiển minh trên dưới, thông suốt ngằn mé, tự thân cần tinh tấn, nỗ lực cầu đạo, tất triệt để siêu thoát, vãng sinh về cõi nước, có vô lượng thanh tịnh, của Phật A Di Đà. Dứt hẳn trong năm đường, nẻo ác tự đóng chặt. Đạo thù thắng vô biên, dễ đến mà không người, nước đó không nghịch cảnh, tự nhiên dắt dẫn theo, chính xả như hư không, siêng tu cầu đạo đức, mãi mãi đặng sống lâu, thọ lạc không cùng tận. Đâu phải sự việc đời. ray rứt lẽ vô thường.
Phẩm 31: Công Đức Chân Thật.
Trí ấy sâu rộng, thí như biển lớn. Bồ Đề cao rộng, giống như Tu Di, tự thân oai quang, vượt hơn trời trăng, tâm ấy trắng sạch, giống như núi tuyết. Nhẫn nhục như đất, tất cả bình đẳng. Thanh tịnh như nước, tẩy sạch trần cấu. Hừng Hực như lửa, đốt sạch phiền não, không dính như gió, không các chướng ngại. Pháp âm như sấm, giác kẻ chưa giác. Mưa pháp Cam Lồ, nên nhuận chúng sinh. Rộng như hư không, đại từ bình đẳng, như hoa sen tịnh, nên lìa ô nhiễm, như cây Ni Câu, nên che mát khắp, như chày Kim Cang, pháp tan tà chấp, như núi Thiết Vi, chúng ma ngoại đạo, không thể lung lay. Tâm kia chánh trực, kéo léo quyết định, luật pháp không chán, cầu pháp không mỏi. Giới như Lưu Ly, trong ngoai sáng sạch. Lời nói phát ra, khiến chúng vui phục. Đánh trống pháp, dựng pháp tràng, diệu huệ nhật, phá si mê, thần tịnh an hòa, tịch tịnh minh sát. Làm đại đạo sư, điều phục mình người, dẫn đạo quần sinh, xả bỏ ái trước, hằng lìa ba độc, duy hý thần thông. Nhân duyên nguyện lực, phát sinh thiện căn, hàng phục ma quân, tôn trọng phụng sự, tất cả chư Phật, làm đèn sáng soi đời, làm ruộng phước tối thắng. Tốt lành thù đặc, kham thọ cúng dường, hớn hở vui mừng, dõng mãnh vô úy, thân sắc tướng tốt, công đức biện tài, trang nhiêm đầy đủ, chẳng ai sánh bằng, thường được chư Phật, đồng thanh ken ngợi, rốt ráo Bồ Tát, các Ba La Mật, và thường an trú, nơi tam ma địa, không sinh không diệt, đi khắp đạo tràng, xa cảnh nhị thừa.
Này ông A Nan! Ta nay lược nói, cõi Cực Lạc kia, chỗ Bồ Tát sinh, chân thật công đức, thảy đều như thế. Nếu nói rộng ra, trăm ngàn vạn kiếp, cũng không cùng tận.
Hết Phẩm 31
Nam Mô Bổ Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Phẩm 32: Thọ Vui Không Cùng Tận.
Phật bảo Bồ Tát DI Lặc: Các hàng Trời Người... Nước Vô Lượng Thọ, Thanh Văn Bồ Tát, công đức trí huệ, không thể nói hết. Lại cõi nước ấy, vi diệu an lạc, thanh tịnh như thế, làm sao mà không dủ sức làm lành, niệm đạo tự nhiên? Ra vào cúng dường, chiếu soi kim pháp, vui thích hành đạo, lâu dài huân tu, tài trí dõng mãnh, tâm không thối chuyển, ý không giải đãi. Ngoài như chậm hoãn, trong ứng sử nhanh, tâm lượng bao dung, ví như hư không, thích nghi Trung đạo, trong ngoài tương ưng, nghiêm chỉnh tự nhiên, thúc liễm đoan trực. Thân tâm kết tịnh, tham ái không khởi, chi nguyện an định, không tăng khuyết giảm, cầu đạo hòa chánh, không nghiêm theo tà, y lời Kinh dạy, chẳng dám sai quấy, như dây chỉ mực, thảy đều mộ đạo, rỗng ra vô niệm, không khởi ưu tư, tự nhiên vô vi, hư không chẳng lập, đạm bạc an nhiên, làm đặng nguyện lành, không tham không muốn, hết lòng cầu sách, thương sót từ mẫn, lễ nghĩa đều hợp, bao dung sự lý, siêu độ giải thoát. Tự nhiên gìn dữ, chân chân tinh kiết, chí nguyện vô thượng, tịnh định an lạc. Một mai khai thông triệt sáng, trong tướng tự nhiên, bản nhiên thanh tịnh, áng sáng vô lượng, dung hóa tự nhiên, chuyển biến tối thắng. Uất đơn thành bảy báu, ngang trải thành vạn vật. Quang minh đồng hiện, tốt lành thù đặc, không đâu sánh bằng. Hiển minh trên dưới, thông suốt ngằn mé, tự thân cần tinh tấn, nỗ lực cầu đạo, tất triệt để siêu thoát, vãng sinh về cõi nước, có vô lượng thanh tịnh, của Phật A Di Đà. Dứt hẳn trong năm đường, nẻo ác tự đóng chặt. Đạo thù thắng vô biên, dễ đến mà không người, nước đó không nghịch cảnh, tự nhiên dắt dẫn theo, chính xả như hư không, siêng tu cầu đạo đức, mãi mãi đặng sống lâu, thọ lạc không cùng tận. Đâu phải sự việc đời. ray rứt lẽ vô thường.
Phẩm 33: Khuyến Dụ Sách Tấn.
Người đời tranh nhau, những việc không đâu, trong chốn ác nghiệp, cùng bao sự khổ, siêng làm kinh doanh, tự cung dưỡng thân. Cao sang nghèo khó, lớn nhỏ nam nữ, suy nghĩ chồng chất, do tâm sai sử, không ruộng lo ruộng, không nhà lo nhà, họ hàng của cải, có không cũng lo, được rồi muốn có nữa, muốn sao cho bằng người. Vừa được chút ít, lại càng lo hơn, nước nửa giặc trộm, oan gia trái chủ, đốt phá cướp giựt, hủy diệt tiêu tan, tâm ý tham chấp, không thể buông bỏ, mạng chung xuôi tay, chẳng mang được gì. Ngèo giàu như nhau, khổ lo muôn mối,
Người trong thế gian, cha con anh em, vợ chồng quyến thuộc, phải yêu kính lẫn nhau, không nên ghen gét nhau, có không thông nhau, không được tham tiếc, sắc mặt lời nói, thường phải nhu hòa, chớ nên chống trái. Lỡ lúc tranh cãi, có chỗ sân giận, đời sau chuyển tiếp, trở thành đại oán. Những việc thế gian, rốt gây họa nhau, tuy chưa tới lúc, nên gấp "tưởng phá", người nhiễm ái dục, sinh một mình tử một mình, đến đi một mình, khổ vui tự nhận, không ai gánh thay. Thiện ác biến hóa, nghiệp thức theo đuổi, đường đạo không đồng, không lúc gặp lại. Sao lúc còn khỏe, không gắng tu thiện, còn đợi bao giờ? Người đời thiện ác, tự mình chẳng thấy, lành dữ họa phúc, tranh nhau tạo tác, tâm mê thần ám, triển chuyển gây nghiệp, điên đảo tương tục, vô thường là gốc mờ mờ mịt mịt, không tin Kinh pháp, tâm chẳng lo xa, ham muốn thỏa thích. Mê muội sân giận, tham tài đắm sắc, rốt cùng chẳng dứt, thật đáng thương thay! Người trước không thiện, không biết đạo đức, không ai khuyến tấn, chẳng gì làm lạ. Con đường sanh tử, đạo lý thiện ác, chẳng chút lòng tin, cho là không có, cùng nhau quán sát, rành rành trước mắt.
Hoặc cha khóc con, hoặc con khóc cha, anh em chồng vợ, cùng nhau thương khóc, nhất tử nhất sinh, thay nhau quyến luyến, thương lo ràng buộc, không lúc tháo gỡ, tư tưởng ân hảo, không lìa tình dục, không cân nhắc kỹ, không chuyên hành đạo, tuổi thọ hết rồi, đối phó sao đây. Người mê thì nhều, kẻ ngộ đạo ít, cưu mang sát độc, ác khí mịt mù, vọng tâm hững khởi, trái nghịch trời đất, buông lung tạo tội, cướp nhanh mạng sống, đọa thẳng đường ác, chẳng có ngày ra. Mọi người phải nên, nghĩ suy chính chắn, xa lìa việc ác, chọn đường lương thiện, siêng lăng thực hành, sang giàu thương muốn, không thể bền giữ, đều phải lánh xa, chẳng thể an vui. Phải nên tinh tấn, sinh nước An Lạc, trí huệ thông suốt, công đức thù thắng. Chớ nên phóng tâm, vào chỗ ham muốn, phụ kinh bỏ giới, phải đứng sau người.
Hết Phẩm 33
Nam Mô Bổ Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.Kinh.
Phẩm 34:Tâm Được Mở Sáng.
Di Lặc Bạch Rằng: Phật nói giáo giới, rất sâu rất khéo, đều nhờ ân lành, giải thoát ưu khổ. Phật là vua Pháp, tôn siêu trong hàng thánh, quang minh chiếu suốt, rõ thông không ngằn mé, rộng làm đạo sư, tất cả trời người. Nay được gặp Phật, lại cũng được nghe, tiếng Vô Lượng Thọ, thảy đều hoan hỷ, tâm được mở sáng".
Phật bảo Di Lặc, Người tôn kính Phật, là việc lành lớn, thật nên niệm Phật, dướt doạn hồ nghi, nhổ giốc ái dục, ngăn ngừa nguồn ác, dạo khắp ba cõi. Không chỗ ngăn lại, mở bày Chánh đạo, độ người chưa độ. Phải nên biết rằng, nhân dân mười phương, nhiều kiếp đến nay, luân chuyển năm đường, khổ lo không dứt, lúc sinh khổ đau, già cũng khổ đau, bệnh vô cùng khổ, chết vô cùng khổ, mùi hôi bất tịnh, chẳng có gì vui. Phải tự quyết định, rửa sạch tâm nhơ, nói làm chung tín, trong ngoài tương ứng. Người hay tự độ, qua lại giúp nhau. Chí tâm cầu nguyện, tích chứa căn lành, chịu khó một đời ngắn ngủi, tinh tấn cần khổ. Sau được sinh về nước Vô Lượng Thọ, vui sướng không cùng. Vĩnh viễn nhổ tận, cội gốc sinh tử, chẳng còn khổ lo, sống ngàn vạn kiếp, tự tại tùy ý. Người đời tinh tấn, cầu chỗ tâm nguyện, chớ nên nghi hối, tự gây lỗ lầm, sinh chốn biên địa, trong thành bảy báu, suốt năm trăm năm, chịu bao khổ nạn.
Di Lặc Bạch rằng: Nhận lời chỉ dạy, sáng suốt của Phật, chuyên tinh tu học, y giáo phụng hành, không rám sinh nghi.
Hết Phẩm: 34
Nam Mô Bổ Sư Thiasch Ca Mâu Ni Phật.
Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác kinh.
Phẩm 35: Trực Thế Ác khổ ( đời trực ác khổ)
Phật Bảo Di Lặc: Các ông có thể, ở trong đời này, tâm đoan ý chánh, không làm việc ác, thật là đức lớn. Tại vì sao thế? Mười phương thế gới, thiện nhiều ác ít, dễ bề khai hóa. Duy thế gian này, ngũ ác kịch khổ. Nay ta cõi này, thị hiên thành Phật, giáo hóa quần sinh, khiến xả năm ác, trừ năm thống khổ, lìa năm thiêu đốt, khiến đặng điều phục, giáo hóa tâm ý, khiến giữ năm thiện, đặng nhiều phước đức,. Những gì là năm?
Thứ nhất đó là: Thế gian chúng sinh, ưa làm điều ác, kẻ mạnh hiếp yếu, thay nhau thù phá, tàn hại sát thương, ăn nuốt lẫn nhau, chẳng biết làm thiện, sau chịu ưng phạt, nên có nghèo cùng, ăn xin cô độc, đui điếc câm ngọng, si ác điên cuồng, do nhân đời trứơc không tin đạo đức, không chịu làm lành. lại có những bậc tôn quý hào phú, Hiền minh trưởng giả, trí dũng tài đạt, do nhân đời trước, từ hiếu tu thiện, tích đức gây nên. Thế gian chuyện này, rành rành trước mắt.
Khi tuổi thọ dứt, đọa chốn u minh, chuyển sinh thọ thân, biến dạng cải hình, nên có địa ngục, cầm thú các loài, bò bay máy cựa. Thí như thế pháp, lao tù ngục tối, khốn khổ cực hình, thần hồn điêu đứng, tùy tội hướng tới, thân mạng chỗ thọ, hoăc dài hoăc ngắn, thọ sinh theo nhau, báo đền lẫn nhau, ương ác chưa đứt, rốt chẳng lìa được, xoay vần trong đó, nhiều kiếp khó ra, khó đặng giải thoát, đau không kể xiết!
Ở trong Trời đất, nghiệp vận tự nhiên, những việc báo ứng, tuy không tức thời, nhưng khi tới lúc, thiện ác hội về, phải thọ quả báo.
Thứ hai đó là: Nhân dân thế gian, không thuận pháp độ, kiêu xa dâm dục, buông lung phóng túng. Bậc trên không sáng, tại chức không chánh, hại người oan uổng, thiệt kẻ trung lương, tâm miệng trái ngược, lăng xăng dối trá. Trên dưới trong ngoài, lừa dối lẫn nhau, sân dận ngu si, cầu tự lợi mình, tham lam muốn nhiều, hơn thua lợi hại, kết giận thành thù, nhà tan mạng mất, chẳng nghĩ trước sau. Giàu có bỏn sẻn, không chịu bố thí, nặng tham quý ái, tâm lao thân khổ, như thế mạng chung, chẳng mang được gì. Thiện ác họa phúc, theo mạng sinh ra, hoặc ở chỗ vui, hoặc vào khổ độc, thấy người làm thiện, ghanh ghét hủy báng, không tâm hâm mộ, thường hay lấy cắp, lợi của người khác, dùng tự cung cấp, tiêu hết lại lấy, thần minh rõ biết, chết sa đường ác, trải trong ba ngã, vô lượng khổ não, luân chuyển trong đó, nhiều kiếp khó ra, đau không kể xiết!
Thứ Ba đó là: Nhân dân thế gian, theo nhân sinh giởi, mạng thọ bao lâu! Những kẻ bất lương, thân tâm bất chánh, ôm lòng tà ác, thường tưởng dâm dục, phiền não đầy ngực, thái độ nhìn sai, chạy theo bên ngoài, tốn hao tiền của, việc làm phi pháp, chỗ cần nên làm, lại chẳng chịu làm, kết giao tụ tập, giấy binh đánh nhau, công kích sát phạt, bước hiếp cưỡng đoạt, về nuôi vợ con, tận sức làm vui, người người chán ghét, tai ương khổ nạn. Việc ác như thế, người, quỷ rành rõ, thần minh ghi biết, rơi ba đường ác, vô biên khổ não, xoay vần trong đó, nhiều kiếp khó ra, đau không kể xiết !
Thứ tư đó là: Nhân dân thế gian, chẳng nhớ tu thiện, nói lưỡi hai chiều, miệng nói lời ác, dối trá thêu dệt, ghanh ghét kẻ hiền, phá hoại hiền minh, bất hiếu mẹ cha, coi nhẹ sư trưởng, đối bạn chẳng tin khó đặng thành thật, tự cao tự đại, tự cho hiểu đạo, hoành hành oai thế, lấn lướt mọi người, muốn người kinh sợ, không tự hổ thẹn, khó hàng khó chuyển, thường ôm kiêu mạn, ỷ lại đời trước, được phước hộ trì, đời này làm ác, phước đức hết tận, thọ mạng không còn, các ác đến vây. Lại tên tuổi họ, ghi tại thần minh, ương họa dẫn dắt, chẳng thể trốn chạy, chỉ phải đi tới, vào chốn hỏa ngục, tâm tâm tạn nát, thần hình khổ cực. Đến lúc đó rồi hối hận sao kịp ?
Thứ năm đó là: Nhân dân thế gian, ỷ lại biến lười, không chịu làm thiện, tu sửa thân nghiệp. Lời cha mẹ dạy, chống trái phải nghịch, coi như oan gia,
không biết phận con, phụ ân bội nghĩa, chẳng chút báo đền, phóng túng du đãng, đam mê tửu sắc, gây gổ sung đột, không biết tình người, vô nghĩa vô lễ, không thể can ngăn. Sáu hàng quyến thuộc, tiền của có không, chẳng thèm đoái hoài, chẳng nghĩ công ơn cha mẹ, không còn tình nghĩa thầy bạn. Thân khẩu và ý, chưa từng một thiện, không kính tin Phật, không kính trọng Pháp, không tin sinh tử thiện ác, muốn hại người chơi, náon loạn tăng chúng, ngu si mê muội, cho mình trí huệ, như không đặng biết, sinh từ đâu tới, chết đi về đâu, bất nhân bất thuận, vọng cầu sống lâu. Từ tâm khuyên dạy, mà chẳng chịu tin, đắng miệng nhọc lời, với họ chẳng ích, trong tâm bế tắc, ý không khai giải, Đại mạng đến kề, hối hận đã muộn, trước chẳng tu thiện, lâm chung mới hối, làm sao cho kịp ?
Ở trong Trời đất, năm nẻo rành rành, thiện ác báo ứng, họa phúc nối nhau, tự làm tự chịu, không ai ghánh thay.
Người hiền làm thiện, từ vui vào vui, từ sáng vào sáng. Kẻ dữ làm ác, từ khổ vào khổ, từ tối vào tối. có ai hay biết ! Chỉ có Phật rõ biết, lời dạy mở đường, ít kẻ tin làm, sinh tử chẳng đừng, đường ác không dứt, người đời như thế, khó thể dứt tận. Thế nên tự nhiên, có ba đường ác, vô lượng khổ não, xoay vần trong đó, đời đời kiếp kiếp, không có ngày ra, khó đặng giải thoát, đau không kể xiết !
Năm ác năm khổ, năm thiêu như thế, ví như lửa lớn, thiêu đốt thân người. Nếu từ trong đó, tận chế tâm ý, đoan thân chánh niệm, nói làm đi đôi, chỗ làm chí thành. Chỉ làm việc thiện, không làm việc ác, thân tự độ thoát, đặng phước đức kia, mạng sống dài lâu, đặng đạo Niết bàn, là năm thiện lớn.
Hết Phẩm 35
Nam Mô Bổ Sư Thích Ca Mâu Nai Phật.
Phẩm 36: Trùng Trùng Hối Miễn. ( nhiều lần khuyên gắng)
Phật bảo Di Lặc: Ta bảo các ông, năm ác, năm khổ, năm thiêu như thế, luân chuyển sinh nhau, nếu phạm điều này, phải trải đường ác. Hoặc trong hiện đời, trước bị bệnh ương, sống chết chẳng đặng, chỉ cho đại chúng.
Hoặc lúc mạng chung, vào ba đường ác, khổ đau sầu thống, tự cùng thiêu cháy. Oan gia gặp gỡ, giết hại lẫn nhau, khởi từ việc nhỏ, kết thành khổ lớn, đều do tham nhiễm, trước tài đắm sắc, không chịu thi ân, tự cầu sướng thân, không kể phải quấy, si dục bức bách, tranh lợi về mình. Giàu sang vinh hiển, đương thời thỏa thích, không hay nhẫn nhục, không lo tu thiện, oai thế chẳng lo, tùy thời tiêu dứt. Đạo lý tự nhiên, vận hành hiển phát, bơ vơ kinh hoàng, sẽ đọa vào đó, xưa nay đều vậy, đau khổ đáng thương. Các ông thảy đều được kinh Phật dạy, chiếu soi cặn kẽ, giữ mình đoan chánh, trọn đời không lười, tôn thánh kính thiện, nhân từ bác ái, phải cầu độ thế, bức sống sinh tử, dứt sạch mầm ác, sợ đường khổ thống.
Nếu gặp việc thiện, trước nhất làm gì ? Tâm phải tự đoan, thân phải tự đoan, mắt tai miệng lưỡi, đều phải tự đoan, Thân tâm đều giữ, thanh tịnh trong sạch, cùng thiện tương ưng, đừng theo tham dục, không phạm điều ác, sắc mặt lời nói, phải nên nhu hòa, hành thân phải chuyên, cử chỉ ngó nhìn, an định từ tốn, làm việc cẩn trọng, sau khỏi hối hận, vì không chân thật, luống uổng công phu.
Hết Phẩm 36
Nam Mô Bổ Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh.
Phẩm: 37.( Phật bảo Bồ Tát Di Lặc tiếp theo phẩm 36)
Như các ông đặng, rộng trồng gốc đức, chớ phạm đạo cấm, nhẫn nhục tinh tấn, từ tâm chuyên nhất, trai giới thanh tịnh, một ngày một đêm, thì thù thắng hơn, nước Vô Lượng Thọ, làm thiện trăm năm. Tại vì sao thế? Bởi cõi Phật kia, chứa đầy đức thiện, chẳng tơ hào ác. Cõi này tu thiện, mười ngày mười đêm, thì thù thắng hơn cõi Phật nước khác, là hàng ngàn năm. Tại vì sao thế ? Cõi Phật phương khác, phước đức tự nhiên, không chỗ tạo ác, chỉ thế gian này, thiệ ít ác nhiều, uống khổ ăn độc, chư từng ngưng nghỉ. Ta thương các ông, khổ tâm khuyên dạy, trao cho kinh pháp, thảy đều thọ trì, quán chiếu, phụng hành. Trai giái sang hèn, bà con bạn bè, thay nhau dạy bảo, cùng nhau kiểm thảo, nghĩa lý thuận hòa, vui vẻ hiếu hiền. Chỗ làm nếu phạm, phải tự hối lỗi, bỏ ác làm thiện, sáng nghe chiều sửa, phụng kinh trì kinh giới, cũng giống như kẻ nghèo đặng của báu, chuyển trước sửa sau, tẩy sạch tâm nhơ, cải sửa hành vi, tự nhiên cảm nhận, nguyện ước thành đạt, ở chỗ Phật hành, nước thành tụ lạc, đều được giáo hóa. Thiên hạ hòa thuận, Trời trăng trong sáng, mưa gió thuận thời, tai dịch chẳng khởi, nước thạch dân an, binh đao chẳng động, trọng sùng nhân đức, chuyên hành lễ giáo, nước không chộm cắp, không có oan uổng, mạnh không hiếp yếu, người người đắc ý. Ta thương các ông, hơn cha mẹ thương con. Ta ở cõi này thành Phật, lấy thiện trừ ác, nhổ giốc sinh tử, khiến đặng năm đức, đặng an vô vi. Ta vào Niết Bàn, Kinh đạo lần diệt, nhân dân tà ngụy, lại làm điều ác, năm thiêu năm khổ, lâu sau càng nguy. Các ông thay nhau, khuyên lơn nhắc nhở, y kinh Pháp Phật, chớ lên trái phạm.
Di Lặc Bồ Tát, chắp tay bạch rằng: Người đời khổ ác, như thế như thế, Phật đều thương xót, Phật đều độ thoát, cúng con xin vâng, theo lời Phật dạy, không dám trái phạm.
Hết Phẩm 37.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét