NIỆM PHẬT CHỈ NAM
Phần 4
Trích dẫn “Long thơ tịnh độ văn” của Cư sĩ Vương Nhật Hưu
Mạnh Tử nói: “Mọi người đều có thể trở thành vua Nghiêu vua Thuấn”.
Tuân Tử nói: “Người đi ngoài đường cũng có thể trở thành vua Võ”.
Bồ-tát Thường Bất Kinh nói: “Ta chẳng dám khinh các Ngài, các Ngài đều sẽ thành Phật”.
Thế là mọi người đều có thể trở thành Thánh Hiền, có thể thành Phật. Pháp môn niệm Phật là con đường trọng yếu thẳng tắt, không ai không tu được. Thế nên, khuyên khắp mọi người tu trì. Bài kệ Khuyên Tu Tây Phương, Bồ-tát Đại Từ nói:
“Khuyên đặng hai người tu
Sánh bằng mình tinh tấn.
Khuyên đặng hơn mươi người
Phước đức đã vô lượng.
Bằng khuyên trăm nghìn người
Gọi là chơn Bồ-tát.
Lại khuyên hơn số vạn
Tức là A-di-đà”.
Xem đây thời biết, thuyết Tây Phương đâu không làm cho tâm mình rộng lớn, giúp cho mọi người cùng biết pháp môn này để tích lũy vô lượng phước báo hay sao?
Phàm những bậc có ân đức với ta như thầy bạn, cha mẹ, thậm chí tôi tớ, thảy đều khuyên bảo tu Tịnh độ để đáp đền. Tất cả loài có tri giác cùng không tri giác, có tình thức cùng không tình thức, ta đều muốn đem pháp này giáo hóa, khiến cùng vãng sinh Tịnh độ. Tất cả loài phi cầm tẩu thú, dưới đến loài bò bay máy cựa, hễ có hình tướng thấy được ta đều nên vì chúng niệm Phật vài câu, phát nguyện lành rằng: “Nguyện các ngươi đều sinh về thế giới Cực Lạc, sau khi ta đắc đạo sẽ độ hết các ngươi”. Đối với những loài không thể thấy hình tướng, cũng nên phát nguyện lành ấy. Như thế thì niệm lành thuần thục, đối với tất cả chúng sinh đều là có duyên, ắt được Thượng phẩm Thượng sinh, sau này hóa độ, ai cũng vui theo.
Trai Tăng, cúng Phật, dâng hương, hiến hoa, treo phan, xây tháp, niệm Phật, lễ sám, mọi việc phụng sự Tam Bảo, đem công đức này hồi hướng nguyện sinh Tây Phương đều được. Hoặc làm mọi phương tiện việc lành lợi ích trong thế gian, hoặc hiếu dưỡng cha mẹ, thương mến anh em, tông tộc thuận hòa. Hương thôn xóm làng, thân nhơn quyến thuộc, tiếp với nhau bằng lễ nghĩa, làm việc ơn nghĩa cho nhau. Cho đến kẻ thờ Vua thời hết lòng vì nước, kẻ làm quan thời nhơn từ lợi dân. Làm người lớn thời khéo điều hòa trong chúng. Làm bực hạ, thời khéo thờ bề trên. Hoặc dạy bảo kẻ ngu mê; hoặc giúp đỡ kẻ côi cút, yếu đuối; hoặc giúp người cấp nạn; hoặc cho kẻ bần cùng; hoặc sửa cầu, đào giếng; hoặc tặng thuốc, cho cơm; hoặc bớt phần mình, nuôi kẻ thiếu lợi ích tha nhơn; hoặc chia của lợi người mà phần mình bớt ít; hoặc dạy người làm phải; hoặc khen ngợi việc lành, cản ngăn điều dữ. Tùy sức, tùy trường hợp làm tất cả việc lành, lấy công đức đây mà hồi hướng, nguyện sinh Tây Phương cũng đặng.
Hoặc vì trong thế gian, làm tất cả việc lợi ích, chẳng luận là lớn hay nhỏ, chẳng luận là nhiều hay ít. Hoặc lấy một đồng tiền cho người, hoặc bưng một bát nước cho người, nhẫn đến lượm một chà gai giữa đường cũng là việc thiện. Ta nên khởi một niệm tưởng rằng: đem duyên lành này, hồi hướng cầu sinh về Tây Phương Cực Lạc. Thường khiến tâm giữ một niệm như vậy, đừng cho gián đoạn, mỗi niệm mỗi niệm chí thú nơi cõi Cực Lạc, quyết định một ngày kia được sinh về Thượng phẩm Thượng sinh.
Người tu Tịnh độ nên tùy trường hợp ra công làm lành, để giúp sự tu hành mau tiến triển.
Chư Tăng phải tu Tịnh độ, mau khỏi luân hồi, gặp Phật Di-đà, mới là xong việc của người xuất gia. Phàm thọ nhận người ta một đồng tiền, hộ ta một bữa ăn, ta đều sẽ vì kia mà giảng nói pháp môn Tịnh độ này để đáp đền ân đức. Dù không tin cũng khiến cho họ biết, nghe quen lần rồi tự tin, thường khuyến hóa người khác như thế, hiện đời được người kính nể, đời sau chắc chắn sinh lên Thượng phẩm.
Kẻ sĩ chuyên cần nơi học vấn, dốc lòng hiếu thuận, xa nghĩ về tổ tiên của ta đến nay có mấy người còn sống, nên lưu tâm nơi đạo này.
Quan lại tu phước, làm mọi việc phương tiện thương người lợi vật, dùng đó hồi hướng Tây Phương, thoát khỏi luân hồi, thọ mạng và an vui vô cùng.
Người giàu sang phải tùy phận làm ăn nuôi sống, bớt chút ít giúp người, không keo kiệt đối với tiền của là thiện, tham lam tiền của là ác. Nên nghĩ phước thế gian có ngày hết, nếu đem hồi hướng Tây Phương thì vô tận.
Người nhiều khó khăn vất vả, chớ oán trời, chớ trách người, nên siêng năng sám hối, thường niệm Phật để tiêu trừ nghiệp chướng cũ, tăng trưởng duyên lành. Nếu có thể dạy người và bảo người thay nhau khuyến hóa, hiện đời tiêu trừ tai nạn được phước, đời sau ắt được sinh lên phẩm Thượng của bậc Trung.
Người làm nghề nông và buôn bán đều nên tự nghĩ, việc cày ruộng cuốc đất sao tránh khỏi sát hại các loại vật mạng vi tế, chẳng phải là ít; nghề buôn bán sao tránh khỏi sự dối trá chút ít, nên khéo léo gìn lòng giữ cho vẹn toàn, nhưng biết sám hối là tốt.
Người thợ khi làm việc, chớ quá mong cầu tài vật tiền của, làm việc cho hết lòng, nên thường niệm Phật, nguyện sau khi thấy Phật được đạo, trước sẽ độ tất cả những chúng sinh đã bị mình sát hại từ trước đến nay và những người đã từng qua lại, kế đó độ kẻ oán người thân và chúng sinh hữu duyên vô duyên. Như thế, mỗi niệm chẳng dứt, niệm tự thuần thục, quyết định được vãng sinh Cực Lạc. Nếu dạy bảo người và khiến người rộng khuyến hóa, thời hiện đời đặng phước, thân đời sau ắt sinh lên phẩm Thượng bậc Trung vậy.
Người chài lưới, đi săn, đồ tể, làm bếp, mở tiệm ăn, đều nên tự nghĩ: cá, tôm, cầm thú cùng có tánh mạng, ta nay sát hại mắc tội vô lượng. Nếu có thể đổi nghề thì tốt nhất, nếu chưa có thể nhanh chóng sửa đổi thì phải giảm bớt. Vả lại, đừng sát hại những con vật nhỏ mạng nhiều, và các loài ốc, sò, ba ba, lươn, những vật khó chết ấy. Thường niệm Phật sám hối, phát đại nguyện rằng: “Nguyện sau khi ta thấy Phật đắc đạo rồi, độ hết tất cả những vật mạng bị ta giết hại ăn dùng, từ trước đến giờ đều sinh về Tịnh độ”. Niệm niệm không dứt, niệm tự thuần thục, cũng được sinh về thế giới Cực Lạc. Nếu đem pháp này dạy người và khiến người truyền bá rộng ra, thì hiện đời cũng có thể tiêu tai diệt tội, thân sau đâu chỉ ở phẩm Hạ của bậc Hạ vậy.
Người ở chốn phong trần phải tỉnh ngộ đoạn trừ dâm nghiệp, bằng chưa đoạn liền nên thường niệm Phật phát lời đại nguyện rằng: “Nguyện ta nghiệp ác lần tiêu, nghiệp lành mỗi ngày thêm lớn. Áo cơm vừa đủ, sớm bỏ nghề này. Sau khi ta thấy Phật đắc đạo rồi, độ hết tất cả người nhân ta mà làm nghiệp dâm, đều được sinh về Tịnh độ”.
Người tội ác, bệnh khổ phải gấp sám hối, hồi tâm niệm Phật, thệ nguyện không làm ác sát sinh nữa, không não hại tất cả chúng sinh nữa, nguyện đời này sớm lìa bệnh khổ, sau khi thấy Phật được đạo, độ hết tất cả chúng sinh bị ta sát hại trong đời này và đời trước, tất cả kẻ oán người thân đều sinh về Tịnh độ. Niệm niệm không dứt, niệm tự thuần thục, nhất định vãng sinh cõi Cực Lạc. Nếu đem pháp này chỉ dạy mọi người, khiến người thay nhau khuyến hóa, thì hiện đời có thể diệt trừ tai nạn tội lỗi, bệnh khổ nhất định được lành, phước báo vô cùng, đời sau ắt vãng sinh về cõi Cực Lạc.
Trích dẫn “Tịnh độ thặng ngôn”
của Cư sĩ Quang Vĩ
Miệng niệm danh hiệu Phật, mắt nhìn tượng Phật, tai nghe tiếng niệm Phật, âm thanh từ lưỡi phát ra, thiền vị thấm nhuần vui thích nơi lòng, mũi nghe mùi hương, bỏ sáu trở về một làm sao loạn được! Nay ta niệm Phật là một phương tiện, tự xem tâm này như cái bình báu trong sạch, hiệu Phật như hạt gạo, từng chữ từng câu như bỏ gạo vào bình, lần lượt bỏ vào, gạo đã vô tận, bình cũng không đầy, không để hạt nào rơi rớt ngoài bình. Lại nghĩ bình này đường kính không đầy một tấc, bên trong chứa đựng Tam thiên Đại thiên thế giới, trăm ức vi trần số Phật, Tam thập lục vạn ức nhất thập nhất vạn cửu thiên ngũ bá đồng danh đồng hiệu A-di-đà Phật an trụ trong ấy, ta cũng cùng với các Ngài hội tụ một nơi, dạo chơi an nghỉ, mới là chỗ an thân lập mạng của ta.
Tôi trước nay niệm Phật, chỉ niệm một cách mơ hồ. Nay mới biết mỗi chữ từ trong tâm phát ra, mỗi chữ lại trở về tâm. Khi niệm Phật, trước phải nhắm mắt ngồi ngay thẳng, ngưng thần định tĩnh, không thể có mảy may tâm tạp loạn, xao động, ganh đua, tâm mờ tối biếng nhác.
Niệm ra tiếng, cốt yếu khiến cho tiếng phát ra từ tâm, tâm nhờ miệng truyền, hơi thở và tiếng niệm điều hòa, không chậm không mau, mỗi chữ rõ ràng, mỗi câu tiếp nối, phân ra thì một chữ có thể làm một câu, xuyên suốt thì trăm ngàn câu như một câu, miên mật khít khao, từ một tiếng cho đến ngàn muôn tiếng, từ một khắc cho đến 24 giờ, không dứt không nối, không thiếu không xót, lâu dần thuần thục, hoa nở thấy Phật, đến thời tự thấy hiệu nghiệm
Trích dẫn “Khuyến tu tịnh độ thiết yếu” của Cư sĩ Chân Ích Nguyện
Niệm Phật chính là phải ở chỗ ồn náo để rèn luyện, chẳng câu nệ đi đứng nằm ngồi. Ở nơi huyên náo có thể nhất tâm không loạn, một tiếng niệm Phật ấy còn hơn niệm nhiều tiếng ở nơi yên tịnh. Đó gọi là “tâm tịnh thì cõi nước thanh tịnh”.
Trọn ngày tuy bận rộn, lẽ nào lại không có một chút thời giờ rảnh rỗi? Sao không bớt thời gian uống trà, nói chuyện phiếm, để thâu nhiếp tâm tư mà niệm Phật? Người nhọc nhằn về tâm tư có thể nhờ đây để dưỡng tâm; người nhọc nhằn về sức lực cũng có thể nhờ danh hiệu Phật tích chứa sức mạnh. Việc ấy có lợi ích không tổn hại, còn có điều nào hơn đây nữa?
Phải nên gấp rút khẩn thiết chân thật, phát khởi sức lực dũng mãnh, duyên đời có thể buông bỏ thì buông bỏ, mạng người vô thường quyết đừng lưu luyến mà tự làm lầm mình. Dù có điều chưa có thể buông bỏ cũng chẳng ngại ông niệm Phật. Ví như có một việc khẩn thiết ở nơi lòng, tuy làm việc khác nhưng vẫn không sao quên được. Có thể niệm Phật như thế tự nhiên không có tạp niệm, cũng không đến nỗi một ngày nóng mười ngày lạnh. Còn có người tâm chân thật khẩn thiết, do thuở xưa nghiệp nặng nên bị ma nhiễu loạn. Có ma bên trong, ma bên ngoài. Ma bên trong là trong tâm khi tỉnh lúc mê, tất cả tham sân si ái, tâm này vừa lìa thì tâm kia lại khởi. Ma bên ngoài là gặp cảnh khó khăn đủ mọi chướng duyên, bức hại thân tâm, chẳng được an ổn, liền đối trước Phật phát nguyện, siêng năng cầu sám hối. Song, quan trọng ở chỗ tâm niệm Phật chẳng do ma sự mà thối lui, mặc cho mọi thứ chướng duyên, một câu Phật hiệu này quyết chẳng rời tâm ta. Sức ma tuy mạnh, dựa vào Vạn đức Hồng danh này chống cự với nó, chẳng tính lợi hại sống chết chỉ lo chuyên niệm, thề không thối lui, lâu ngày dài tháng tất được lòng từ bi của Phật âm thầm trợ giúp, chướng duyên tiêu tan, Tịnh duyên thành tựu. Phật chẳng phụ lòng người, ắt làm mãn nguyện chúng sinh.
Phương pháp niệm Phật quý ở chỗ đóng cửa âm thầm tu trì. Không luận là ngồi xếp bằng hay kinh hành niệm, trì thầm hay niệm ra tiếng, đều phải nhất tâm nắm chặt danh hiệu Phật, mỗi chữ mỗi chữ rõ ràng, vừa cảm thấy lờ mờ liền gấp rút đề khởi sự tỉnh giác soi chiếu. Hoặc rơi vào vô ký, hoặc sa vào vọng tưởng, luôn luôn tỉnh giác, luôn luôn đề khởi, đem một câu Phật hiệu này huân vào áp bức ý căn, đoạn dứt hôn trầm tạp niệm, đó là con đường chân chánh của pháp niệm Phật. Không thể quá gấp, gấp thì khó được lâu dài; không thể quá hưỡn, trì hưỡn thì dễ rời rạc. Lại không thể trông mong nhập định, hoàn toàn chẳng để khởi ý niệm.
Nếu buông bỏ không niệm nơi miệng rất dễ rơi vào chỗ hôn trầm nhẹ. Bởi vì niệm Phật quan trọng ở nơi nhất tâm không loạn, lúc lâm chung hoàn toàn nhờ vào niệm này vào thẳng thai sen. Đến khi đạt đến chỗ nhất tâm cùng cực, chẳng mong Thiền định hiện tiền cũng tự hiện, đây là khi công phu thuần thục, hoàn toàn khác xa với người buông bỏ không niệm nơi miệng rơi vào chỗ hôn trầm nhẹ.
Còn như Thể cứu, niệm tức vô niệm thì không ngại vô niệm mà niệm. Một niệm này tức là Tam đế: Không, Giả, Trung; tức là bốn pháp giới Sự Lý; tức là hai môn quán Duy thức, Duy tâm; tức là tâm mầu nhiệm Niết-bàn, Thật tướng Vô tướng. Đó chính là pháp niệm Lý nhất tâm của bậc thượng căn, nhưng cũng không rời nhất tâm nắm chặt câu Phật hiệu, mỗi chữ mỗi chữ rõ ràng mà niệm. Đây là điều trọng yếu của phép tắc Trì danh nơi chánh hạnh.
Lại cần phải tu rộng rãi về trợ hạnh:
1. Lễ kính Tam Bảo:
Năm vóc chuyên cần, tu rộng rãi về sự cúng dường, đó là việc bổn phận của người tu hành.
Người đời niệm Phật phần nhiều lười biếng, không chỉ hằng ngày chẳng thường lễ bái, thậm chí gặp Phật cũng không lạy, còn như tất cả sự cúng dường phần nhiều thiếu sót. Lý do chẳng qua là vì miệng niệm thì dễ, thân lễ bái thì khó; nói suông thì dễ, ra sức thực hành thì khó. Chẳng biết rằng, việc khó làm có thể làm được, điều đó mới đáng quý.
Tuy nói tu hành ở bên trong chẳng phải ở bên ngoài, nhưng dáng vẻ cung kính ở bên ngoài cũng không thể thiếu. Vả lại, ở ngay nơi bên ngoài có thể chứng tỏ ở bên trong, cho nên người xưa nói: “Người tu hành chân thật, xem hình vẽ, tượng gỗ đồng với Phật thật. Thương như cha mẹ, kính như quân vương, sớm chiều yết kiến, hết lòng thành kính, lạy xuống như núi đổ, đứng dậy tợ mây thăng, ra thì chấp tay vái chào. Người mà chấp tay vái chào thì dù xa trăm ngàn dặm cũng như thường ở trước mặt”.
Khi ăn lúc uống, trước phải nên cúng dường. Trong Văn Long Thơ Tịnh Độ nói: “Cúng Phật, trai Tăng, dâng hương, hiến hoa, treo phan, xây tháp, các việc sùng phụng Tam Bảo đều có thể hồi hướng Tây Phương”. Huống gì người cầu vãng sinh Tịnh độ, đã là đệ tử Tam Bảo, nếu không kính trọng Tam Bảo thì tâm cầu vãng sinh ấy ắt không chân thật khẩn thiết. Thế nên mọi người phải dốc hết tâm lực quyết đừng lười biếng lơ là!
2. Sám hối nghiệp chướng:
Sám là ăn năn lỗi đã qua, hối là chừa bỏ những lỗi lầm về sau. Người tu hành lấy sám hối làm chính yếu. Bồ-tát Phổ Hiền còn có lời nguyện về sám hối, huống gì kẻ phàm phu.
Do từ vô lượng kiếp đến nay, ba nghiệp thân miệng ý gây ra những lỗi lầm sâu nặng, đều có thể trở thành nhiều sự chướng ngại nên gọi là nghiệp chướng. Nếu không sám hối, nghiệp chướng không tiêu trừ, ví như áo nhơ cần phải giặt giũ, ví như gương dính bụi cần phải lau chùi. Nhơ hết áo sạch, bụi hết gương sáng, nghiệp chướng không còn thân tâm thanh tịnh.
3. Ngăn ác làm lành:
Trong Văn Long Thơ Tịnh Độ nói: “Trì trai giới hoàn toàn, lại lễ Phật niệm Phật, đọc tụng kinh điển Đại thừa, hiểu Đệ nhất nghĩa, lấy đó hồi hướng Tây Phương tất lên Thượng phẩm Thượng sinh”
Nói “Trai” nghĩa là không ăn thịt, không uống rượu, không ăn ngũ tân.
Nói “Giới” nghĩa là không sát sinh, trộm cướp, tà dâm tức là ba nghiệp của thân; nói dối, nói lời thêu dệt, nói lưỡi đôi chiều, nói lời hung ác là bốn nghiệp của miệng; tham dục, sân hận, tà kiến là ba nghiệp của ý. Có thể giữ gìn không phạm đó là mười điều lành, nếu phạm không giữ gìn đó là mười điều ác.
Giữ bốn giới trước, thêm giới không uống rượu, đó là năm giới. Người giữ năm giới mà tu Tịnh độ cũng không mất phần vãng sinh Trung phẩm. Nếu không thể giữ năm giới thì phải giữ gìn giới sát. Sát sinh là điều đứng đầu trong năm giới. Không sát sinh là đại thiện, sát sinh là đại ác. Đại sư Liên Trì nói: “Xin khuyên người đời, đã là niệm Phật thì phải y theo lời Phật dạy, phải tích đức tu phước, phải hiếu thuận với cha mẹ, phải trung thành phụng sự quân vương, anh em phải yêu thương lẫn nhau, vợ chồng phải quý kính nhau. Phải chí thành thật thà giữ chữ tín, phải nhu hòa nhẫn nhục, phải công bình chánh trực, phải khéo vun bồi âm đức, phải từ bi thương xót tất cả, không sát hại sinh mạng, không lăng nhục người dưới, không áp bức dân thường. Nếu có tâm không tốt sinh khởi liền gắng sức niệm Phật, nhất định phải niệm cho thối lui tâm không tốt này. Như thế, mới là người niệm Phật chân chánh, nhất định được vãng sinh”.
4. Cắt bỏ tình ái:
Người đời đối với người cốt nhục phần nhiều thường ái luyến. Lại xem tài sản như tánh mạng, cũng đều tham đắm không quên.
Lòng trược thế bên đây nặng nề, tâm Tịnh độ bên kia tự nhiên nhẹ bổng. Đến lúc mạng chung, thần thức ắt đi về chỗ nặng. Ví như một cây to nghiêng nặng về bên nào, sau này lúc ngã đỗ sẽ tự nhiên ngã đỗ về bên ấy. Đó là lẽ tất nhiên.
Từ trước đến nay, vợ con cốt nhục đều là có duyên tụ hội, duyên hết ly tan. Sau khi ly tan, người này và kẻ kia đều không nhận ra nhau. Như ông từ nhiều đời đến nay, vợ con cốt nhục không ít, nhưng hiện giờ ở đâu? Ông vẫn còn thương yêu họ chăng? Nghĩ đến đây không thể không lạnh nhạt. Trong đó, lại có duyên ác tụ hội, quyến thuộc tức là oan gia, bất giác âm thầm bị hại, đâu không phải là thương yêu sai lầm rồi sao? Còn như các thứ tài sản và mọi điều ham thích chớp mắt đều trở thành không, càng phải nên nhìn thấu đáo.
5. Cởi mở oan kết:
Phàm oán thù chưa kết không nên kết, như các việc sát sinh, trộm cướp, tà dâm, và lòng tham lam sân hận đều là nhân kết thành oán thù. Có thể cấm ngăn thì không kết, không kết thì không có oán thù, còn đã kết thì nên cởi mở.
Nếu như quyến thuộc trở thành oán thù, người ngoài bỗng nhiên chống đối mình, cho đến chó cắn rắn mổ chẳng phải là không có nguyên nhân, đều do oan trái đời trước, cần phải hoan hỉ chịu đựng cởi mở với chúng. Quyết không thể bên kia qua bên đây lại, càng kết càng sâu.
Tuy Tịnh độ là pháp môn vượt thoát theo chiều ngang, nhưng nếu có thể quyết tâm cầu vãng sinh thì dù cho kẻ oán thù lớn nhất cũng không thể ngăn trở ta vãng sinh. Nhưng cứu xét kỹ, chẳng bằng sớm nên cởi mở thì sẽ cảm thấy tâm không ngăn ngại.
Lại phải biết từ nhiều đời nhiều kiếp đến nay, oán thù không ít, nhân duyên chưa gặp, đâu thể mỗi mỗi đều cởi mở được hết. Cần phải nhờ vào sự phát nguyện ở trước Phật, nguyện dùng công đức niệm Phật này làm lợi ích khắp cả oan gia oán thù. Nếu khi ta thành Phật thì độ những chúng sinh này trước. Dùng tâm từ bi tiêu trừ lòng oán hận cũ của những người kia, lại thêm nguyện lực thì thật có lợi ích, tự nhiên hóa hận thù thành ân đức.
6. Gắng sức mạnh mẽ:
Hiện nay, người tu Tịnh độ cũng có người chẳng bằng ta, cũng có người hơn ta. Người không bằng ta quyết không nên so sánh với họ, nói ta hơn họ như thế không có tiến bộ. Cần phải so sánh với người hơn ta, nghĩ rằng ta với họ cùng niệm Phật như nhau, tại sao họ tinh tấn? Tại sao ta lười biếng? Vì sao họ chuyên nhất? Vì sao ta lại tán loạn? Kia đã trượng phu ta đây cũng vậy. Nếu không gắng sức mạnh mẽ, mắt nhìn họ đã vượt lên Cực Lạc, còn ta vẫn như cũ nổi chìm trong biển khổ.
Hiện nay gọi là đạo hữu bạn bè, nói cười thân thiết, nhưng chớp mắt đã phân chia Thánh phàm, cách xa như trời với vực. Lẽ nào lại chẳng hổ thẹn sao? Lẽ nào lại chẳng đau xót sao? Suy xét như thế, tự nhiên mạnh mẽ tiến tới, một đời giải quyết xong xuôi, không đợi đến đời sau.
Người tu hiện nay, có kẻ phát nguyện đời sau tiếp tục tu hành. Theo họ nói, tự lường xét đời nay công hạnh cạn mỏng, đời sau gia thêm công hạnh nữa mới mong thành tựu. Như thế thật là rất sai lầm! Trong kinh nói: “Một khi mất thân người, muôn kiếp khó được lại”, dù cho được thân người nhưng có thể bảo đảm còn biết tu hành chăng?
Lại theo họ nói, đời nay phát nguyện, nhờ vào nguyện lực này đời sau quyết định biết tu hành. Điều này lại sai lầm nữa! Đã phát nguyện đắc lực như thế, sao không phát nguyện hiện đời liền vãng sinh Tịnh độ, tự nhiên ắt được vãng sinh, cần gì phải đợi đến đời sau. Hơn nữa, đời này ông không cầu vãng sinh, đời sau lại có thể cầu vãng sinh chăng? Chẳng may, đời sau gặp chướng duyên khác không còn tu hành, như thế không chỉ chẳng thể vãng sinh mà cũng khó bảo đảm được không mất thân người. Cho nên, người xưa nói:
“Thân này chẳng chịu đời nay độ,
Lại đợi đời nào độ thân này”.
Người niệm Phật quyết phải lập chí vững chắc, xem hiện cư trú nơi Ta-bà như người khách ở tạm, lại phải xem mình là người nơi Tịnh độ, phẩm bậc cao siêu biết chừng nào! Như thế, tự nhiên miên mật tinh tấn đến lúc chứng quả mới thôi. Đây là một pháp rất thiết yếu của sự vãng sinh Tịnh độ.
Lược nói như thế về sáu trợ hạnh trên, nếu nói rộng ra thì có vạn hạnh, đều ở nơi tâm khiêm tốn mong cầu lợi ích của mọi người, thật sự gắng sức đảm đang. Phàm là những việc có trợ giúp cho Tịnh duyên đều siêng năng làm là được rồi!
Trích dẫn “Di tập” của Cư sĩ Dương Nhân Sơn
Nhân hỏi chỗ thực hành niệm Phật, Pháp sư Đàm Loan có nói về không có tâm sau, không có tâm gián đoạn. Tin quang cảnh dễ đổi dời, sớm lo con đường phía trước tức là có tâm sau. Mạng người trong hơi thở, sao có thể còn có tâm sau này? Không luận là ngàn niệm muôn niệm, chỉ dùng một câu đương niệm lấy đó làm chánh nhân vãng sinh. Câu trước đã qua, câu sau đang phát ra, cũng ở nơi đương niệm. Như thế thì tâm không duyên về quá khứ, không duyên vị lai, chuyên chú một câu đương niệm, đó là Sự nhất tâm. Không luận khi nào có thể vãng sinh, lâu dần thuần thục, đương niệm cũng vượt thoát liền vào Lý nhất tâm, phẩm sinh nhất định là cao. Không có tâm gián đoạn tức là cảnh giới thuần nhất không có tâm sau.
Có người hỏi: Cầu sinh Tịnh độ cần phát tâm Bồ-đề, tu hạnh Lục độ không phải là khó sao?
Đáp: Không khó! Nói chung, người tin pháp môn Tịnh độ, phát nguyện độ mình độ người cùng chứng Phật quả, chính là tâm Bồ-đề. Chuyên tu niệm Phật, thấy rõ tài sản vật chất thế gian không có thứ gì là vui, chẳng khởi tư tưởng tham lam keo kiệt thì tương ưng với Bố thí độ. Chuyên tu niệm Phật, nghịch cảnh trước mắt chẳng sinh tâm nóng giận, tức là tương ưng với Nhẫn nhục độ. Chuyên tu niệm Phật, tâm chẳng tán loạn, tức là tương ưng với Thiền định độ. Chuyên tu niệm Phật chẳng bị thế tục mê hoặc, tức là tương ưng với Trí tuệ độ. Ban đầu thực hành pháp này, bình thường trong sinh hoạt hàng ngày, dần dần tăng tiến, trở thành hạnh vi diệu của Bồ-tát.
Trích dẫn “Kim cang Kinh giảng nghĩa” của Cư sĩ Giang Vị Nông
Một pháp niệm Phật là phương tiện rất tiện lợi để dứt trừ vọng niệm. Không để cho nghĩ nhớ gì khác mà niệm Phật, cũng là sự thay đổi niệm mà thôi. Xem ra, niệm Phật còn gần gũi hơn quán tưởng, niệm Phật tức là Tịnh niệm, hay đổi một niệm thanh tịnh để trị những niệm cấu nhiễm trước nay, đồng thời khiến cho nhất tâm niệm, là dùng niệm thuần nhất để trị những niệm tạp loạn trước nay. Vả lại, Phật là giác, mỗi niệm là Phật thì mỗi niệm là giác. Giác là giác ngộ bản tánh vô niệm, cho nên nói “gần gũi hơn”. Chỉ cần siêng năng thành khẩn nhất tâm, liền có thể đạt đến chỗ niệm mà vô niệm. Nên biết, mục đích của việc niệm Phật là phải về nơi vô niệm, tức là về Chân như, thế thì không nói đoạn mà tự đoạn, không mong chứng mà tự chứng. Phương tiện ấy có gì sánh bằng!
Công phu niệm Phật tuy chưa đạt đến niệm mà vô niệm, nhưng có thể hạnh nguyện chân thật thiết tha, nhờ sức bi nguyện của Phật Di-đà cũng được tiếp dẫn vãng sinh, liền đồng với bậc A-bệ-bạt-trí, nghĩa là không thối chuyển, tức địa vị Sơ trụ. Như tu pháp khác phải trải qua kiếp số dài xa, nay một đời làm được nên gọi là phương tiện trong phương tiện. Song, hạnh nguyện chân thật thiết tha, cần phải nhất tâm ở nơi việc niệm Phật cầu vãng sinh, mới có thể chân thật thiết tha. Nếu một mặt niệm Phật, một mặt lại khởi tư tưởng trần cấu thì hạnh nguyện không chân thật thiết tha. Cho nên, người niệm Phật ở nơi việc đoạn một tầng vọng niệm, dù không dễ làm được nhưng đối với hai câu: “Không nên trụ sắc sinh tâm. Không nên trụ nơi thinh, hương, vị, xúc, pháp mà sinh tâm”, quyết phải làm được. Nếu không thì nguyện chẳng tha thiết, hạnh chẳng chân thật, sao có thể được Phật tiếp dẫn? Khi tập khí trần cấu nặng nề, hoàn toàn không tương ưng với hai chữ thanh tịnh, Phật cũng chẳng biết làm sao!
Nên biết khởi niệm là vọng, tâm niệm niệm Phật cũng là vọng, chẳng phải chơn. Tại sao? Vì tánh Chân như vốn vô niệm. Chỉ do phàm phu ý niệm ô nhiễm không dừng, bất đắc dĩ mới mượn Tịnh niệm niệm Phật trị những ý niệm ô nhiễm trụ chấp vào trần cảnh. Bởi lẽ tâm niệm niệm Phật tuy chẳng phải Bản thể Chân như, nhưng lại là diệu dụng tiến đến Chân như. Tại sao? Chân như là tâm thanh tịnh, niệm Phật là niệm thanh tịnh, cùng là thanh tịnh nên được tương ưng. Cho nên, tâm niệm niệm Phật, niệm niệm không dừng có thể đạt đến vô niệm, vì thế gọi là phương tiện thù thắng. Thế giới Cực Lạc cũng là tướng huyễn hóa, nhưng không thể không nguyện vãng sinh, vì cái huyễn hóa tịnh không đồng với cái huyễn hóa nhiễm. Tại sao? Vì cõi thanh tịnh vốn do tâm thanh tịnh hiển hiện, gọi là tâm tịnh thì cõi tịnh.
Nên biết Phật A-di-đà đến tiếp dẫn, ban đầu chưa từng đến, vãng sinh Tây Phương cũng chưa từng đi. Tuy chưa từng đi nào ngại thị hiện đến, thị hiện đi. Tại sao? Vì không đến không đi là lý thể, có đến có đi là sự tướng. Lý Sự xưa nay không hai, tánh tướng cần phải viên dung. Cho nên, mặc dù không đến không đi, vẫn chẳng ngại có đến có đi; mặc dù có đến có đi, kỳ thật không có đến đi. Điều quan trọng nhất, tức là đến đi phải ở nơi không đến không đi mà thể hội, không đến không đi phải ở nơi đến đi mà thầm nhận. Đó là bí quyết niệm Phật cầu vãng sinh, được bí quyết này chắc chắn vãng sinh thấy Phật. Ai bảo rằng, người tu Tịnh độ không cần học Bát-nhã, lại nghi Bát-nhã làm trở ngại Tịnh độ?
Trích dẫn “Phật pháp yếu lĩnh” của Cư sĩ Phục Lễ
Niệm Phật cần thực hành thêm hai điều :
1. Chớ vọng tưởng: Phàm đối với tất cả cảnh giới đều xem là không, chẳng nên chấp trước mà khởi ý niệm. Sự thọ sinh nơi thế gian đều do vọng tưởng mà ra, đó chính là cội gốc sinh tử, phải nên biết rõ.
2. Chịu đựng lạnh nhạt: Người đời tạo nghiệp đều do chịu lạnh nhạt không được. Đã muốn trở thành Thánh Hiền xuất thế mà không khác kẻ thế tục, ham muốn đuổi theo ngũ dục, không chỉ chẳng thể thành Phật mà còn bị rơi vào địa ngục. Do đâu vọng tưởng? Bởi vì không chịu đựng lạnh nhạt được, đó là căn bệnh rất nặng. Nếu trước trừ hai bệnh này, nội tâm tự nhiên lặng lẽ, trí tuệ tự nhiên tỏ sáng, có thể tiến vào trong Phật pháp.
Nhân địa học Phật quý ở chỗ chân chánh, mong cầu vượt thoát sinh tử, mong cầu vãng sinh Tây Phương, đó là nhân chân chánh. Mong cầu quả báo thế tục là nhân tà vạy. Cầu trì chú linh nghiệm, cầu thần thông, cũng là nhân tà vạy. Cần phải đề phòng!
Hỏi: Định thời khóa hằng ngày như thế nào?
Đáp: Gắng hết sức niệm Phật, bốn chữ sáu chữ đều được, ngồi kiết già là tốt nhất, khi rảnh thì tụng thêm phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện. Kế sinh nhai không đủ, làm thêm nghề khác đều được, đó gọi là “nghề nghiệp nuôi sống, chẳng trở ngại viên tông”, chỉ cần không nên phạm mười nghiệp ác mà thôi. Sự thấy biết từ trước, cần phải quét trừ sạch hết. Sách vở Phật pháp và ngoại đạo đều đặt bên ngoài.
Nhất tâm niệm Phật, chớ tìm cầu nghĩa giải!
Trích dẫn “Phật học thiển thuyết”
của Cư sĩ Vương Bác Khiêm
Pháp môn Tịnh độ lấy ba pháp Tín–Nguyện–Hạnh làm tông. Ba điều trọng yếu này, thiếu một tất không được.
Sao gọi là Tín?
Tín là cửa bước vào đạo. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, là mẹ sinh ra các công đức”, nếu không tin sao có thể tu hành? Nếu lòng tin không sâu, nhất định tu không đắc lực. Cho nên, người niệm Phật: một là, phải tin lời Phật Bổn sư chỉ dạy chúng ta niệm Phật quyết không sai. Hai là, phải tin nguyện lớn của Phật A-di-đà, ta nếu niệm Phật, Ngài nhất định đến độ ta. Ba là, phải tin Tây Phương quả thật có một thế giới Cực Lạc. Bốn là, phải tin mọi sự thù thắng vi diệu trang nghiêm nơi thế giới Tây Phương Cực Lạc mà trong kinh Di-đà đã nói quả thật có rất nhiều lợi ích.
Sao gọi là Nguyện?
Đã tin cõi Ta-bà có đủ mọi đau khổ, liền nguyện mau rời khỏi Ta-bà. Đã tin cõi Cực Lạc có mọi điều vui, liền nguyện vãng sinh Cực Lạc. Nguyện này đã lập, vững chắc như kim cương. Thái Sơn có thể dời, nguyện này không thể mất. Không chỉ đối với mọi thinh sắc, tài lợi nơi cõi Ta-bà chẳng có một mảy may tham luyến, dù cho có người nói: Có một thế giới khác còn đẹp hơn cõi Cực Lạc, nhưng ta cũng qua thẳng Tây Phương, không nguyện đến chỗ nào khác. Dù cho có người nói: Có một pháp môn khác còn hay hơn pháp môn niệm Phật, ta cũng quyết tâm vững lòng niệm Phật, chẳng muốn đi học pháp môn khác. Cần phải lập nguyện như thế, mới có thể bước lên con thuyền đại nguyện của Phật Di-đà, đến bờ Liên Trì nơi cõi ấy.
Sao gọi là Hạnh?
Đã tin có Tây Phương, đã nguyện sinh về Cực Lạc, cần phải dũng mãnh tinh tấn thực hành pháp niệm Phật, lại thêm không làm các việc ác, thực hành mọi điều lành.
Tây Phương tuy cách xa mười muôn ức cõi Phật, nếu ta nhất tâm niệm Phật, niệm đến chỗ cùng tột thì vừa cất niệm liền đến ngay. Nếu tâm chẳng chuyên nhất niệm Phật, phàm phu mang nghiệp lực sao có thể đến cảnh giới của Phật, Bồ-tát?
Đã tin rồi, nguyện rồi, cần phải nhất tâm niệm Phật, khẩn thiết chí thành mà niệm. Bởi vì sinh tử vô thường, niệm Phật tâm không chuyên nhất không thể cảm ứng được Phật tiếp dẫn. Nhận lấy giấy bắt của Diêm Vương, chỉ đành đi theo họ để chịu nỗi khổ sinh tử mà thôi.
Cho nên, người tu hành, niệm Phật cần phải dũng mãnh tinh tấn, chuyên nhất tâm ý, quét sạch hết tất cả vọng tưởng, buông bỏ tất cả duyên đời, miên mật khít khao, tâm miệng hợp nhau, trong một ngày 24 giờ, không một giờ một phút một giây nào không niệm Phật (chữ niệm là từ tâm phát ra, không phải nơi miệng, trong miệng không niệm, tâm niệm cũng như nhau. Nhưng chỉ dựa vào tâm niệm thì dễ lười biếng, mỗi ngày ít nhất nơi miệng cần phải trì niệm một ngàn câu càng nhiều càng tốt).
Đi cũng niệm Phật, đứng cũng niệm Phật, ngồi cũng niệm Phật, nằm cũng niệm Phật, rảnh cũng niệm Phật, bận cũng niệm Phật. Tuy trong lúc vội vàng hấp tấp cũng không rời Phật. Đợi đến khi công phu thuần thục, dù trong khi ngủ hay trong mộng cũng đang niệm Phật, niệm đến nhất tâm không loạn, quyết định về Tây, quyết định thành Phật. Nếu như hôm nay niệm, ngày mai không niệm; trong miệng niệm, trong lòng không niệm; khi niệm Phật, trong lòng có Phật, lúc không niệm Phật, trong lòng không có Phật. Niệm Phật lơ là như thế, chẳng qua cũng chỉ là giúp đời sau gieo trồng chút ít Tịnh nhân mà thôi. Nếu muốn vãng sinh thành Phật thì không thể được. Như thế, chẳng trách Phật không đến độ ông, chỉ trách chính ông niệm Phật không chân thật. Ngài Hám Sơn nói: “Miệng niệm Di-đà tâm tán loạn. Dù cho rát họng cũng như không”. Đây là danh ngôn chí lý nhất định phải ghi nhớ!
Trích dẫn “Phật học trong toàn tập” của Lão Cư sĩ Lý Bỉnh Nam
Người tu Tịnh độ đều biết “muôn người tu, muôn người vãng sinh”, đó là lời nói của Tổ sư quyết không sai lầm. “Tu” là y theo pháp của pháp môn Tịnh độ mà tu, chỉ cho phần chánh hạnh và trợ hạnh.
Chánh hạnh là công phu căn bản, chỉ niệm sáu chữ Hồng danh (Nam mô A-di-đà Phật). Ai cũng biết niệm, người không học Phật cũng biết niệm, nhưng chẳng biết ý nghĩa. Nay xin giải thích sơ lược:
1. Một câu Nam mô A-di-đà Phật là Pháp giới Tàng thân, bao quát cả chư Phật khắp mười phương ba đời.
2. Một câu Nam mô A-di-đà Phật, bao quát hết ba tạng và mười hai bộ kinh, ngay một chữ “A” đã gồm thâu pháp của toàn bộ Tam tạng.
3. Sáu chữ Hồng danh là vua trong các câu chú. Sáu chữ Nam mô A-di-đà Phật là bí mật không phiên dịch, đều chẳng phải văn tự Trung Hoa. Pháp này cao tột, hơn trì bất cứ lời chú nào.
4. Học Phật nên tu định. “Hoa Nghiêm Đại Định” tức là “Di-đà Đại Định”. Nhất tâm không loạn tức là định, được nhất tâm là thành công, đó là chỗ tuyệt diệu của pháp môn Tịnh độ.
Niệm Phật là công phu chánh, có thể hiển bày Bản tánh Chân như. Niệm Phật được nhất tâm, tâm sáng tánh tỏ thì thành công. Sáu chữ Hồng danh Nam mô A-di-đà Phật tức là bản tánh của ông, bản tánh tức là tâm của ông, tâm ông chính là Phật, Phật chính là tâm ông. Tâm và Phật vốn là một, vì bị vô minh che đậy nên Phật là Phật, tâm là tâm, đem tâm và Phật phân làm hai đều do ông tự tạo. Nay ông niệm Phật, chính là hiển bày bản tánh của ông. “Phật mười phương ba đời cùng đồng một Pháp thân”, Phật quá khứ có Pháp thân, Phật vị lai cũng có Pháp thân, Phật vị lai chính là chúng ta, chúng ta và Pháp thân Phật Thích-ca, Di-đà là một chẳng phải hai. Niệm Phật là khai mở hiển bày bản tánh, là công phu chánh.
Tâm tánh chúng ta bị vô minh che lấp, không phải dễ hiểu rõ vô minh. Nói cách khác, vô minh chính là việc sát sinh, trộm cắp, tà dâm, tham lam, nóng giận, si mê mà hằng ngày chúng ta làm. Tu là trừ bỏ vô minh này, chẳng gây tạo nghiệp sát sinh, trộm cắp, tà dâm; chẳng khởi tham lam, nóng giận, si mê, làm cho bản tánh tỏa sáng, đó là tu.
Người thường vừa niệm Phật vừa nhiễm vô minh, làm sao có thể rõ tâm thấy tánh? Cho nên, phải dùng trợ lực diệt trừ sát sinh, trộm cắp, tà dâm, tham lam, nóng giận, si mê. Trợ tu như thế nào? Tuy không rõ Phật pháp, chỉ cần phân biệt được thiện ác và hiểu rõ hai câu thì được. Hễ là việc xấu đừng làm, đó là “không làm các điều ác”, dù cho nhẫn không được cũng cắn răng quyết không làm điều ác. Tìm việc lành để làm, ban đầu phải gắng sức mà làm, đó là “thực hành các việc lành”. Làm lành bỏ dữ, giữ tâm tốt, nói lời tốt, làm việc tốt, đó là phương pháp trợ giúp công phu chánh để trừ bỏ vô minh, cho nên gọi là trợ hạnh. Trợ hạnh nói rộng ra là tu Sáu pháp Ba-la-mật, nhưng khó hiểu không cần nói. Hễ làm việc ác dù tặng ông mười muôn cân kim cương cũng không làm, đối với điều lành dù bị bất cứ trở ngại nào cũng phải làm, hai điều đó là “tùy duyên tiêu nghiệp cũ, chẳng gây tai ương mới”. Thường ngày, gặp điều lành thì làm, gặp việc ác thì bỏ. Nếu khi niệm Phật thì buông bỏ muôn duyên, vừa khởi niệm ác liền dùng một câu Nam mô A-di-đà Phật đè bẹp chúng, thâu nhiếp ba nghiệp thân, miệng, ý an trụ. Y theo đó mà làm, lâu ngày có thể thành công, cho nên nói: “Muôn người tu, muôn người vãng sinh”.
Kiết thất là ở chỗ hạn định thời gian để cầu chứng đắc. Tu pháp môn niệm Phật Tịnh độ phải được nhất tâm không loạn mới có thành tựu. Kiết thất niệm Phật bảy ngày, nếu công phu tốt, niệm một ngày liền được nhất tâm. Đây phải là người niệm Phật nhiều năm, còn phải hiểu rõ giáo lý mới có thể thành tựu. Hạng kế đó hai, ba, bốn, năm, sáu ngày không nhất định. Hạng sau nữa niệm đến bảy ngày mới chứng nhất tâm. Ở đây là từ việc vào thất tu Tịnh nghiệp bảy ngày mà nói, ngày đêm niệm Phật không ngừng, trong bảy ngày liền có thể trừ kiến hoặc và tư hoặc; chỉ có đoạn kiến hoặc, tư hoặc mới thật sự được nhất tâm. Song, đoạn trừ kiến hoặc tư hoặc rất khó, nên có phương pháp đặc biệt, trước mong điều phục vọng hoặc mà thôi. Ngay khi khởi hoặc, dùng danh hiệu Phật điều phục nó, công phu thuần thục hoặc khởi liền điều phục ngay. Như thế là được Tương tợ nhất tâm, cũng có thể còn nghiệp mà vãng sinh. Nay y theo thứ lớp nói sơ lược về pháp tu chánh và trợ của Tịnh độ.
* Trước tiên nói về công phu chánh:
Trong bảy ngày cần phải luôn luôn giữ lòng cung kính. Vừa vào cổng chùa liền xem đồng như thấy Phật. Nên biết Pháp thân Như Lai khắp cả chỗ nơi, không chỉ tượng Phật trên đại điện mới xem là Phật mà thật ra mỗi sắc mỗi hương đều là sắc vi diệu, tâm vi diệu của Phật. Như thế nơi mình ở, mỗi mỗi xem là Phật, vậy thì lời nói và hành động tự nhiên cung kính không còn lười biếng. Cung kính là bí quyết tiến đến Bồ-đề. Đây là tầng công phu thứ nhất.
Đã ngồi yên định nên buông bỏ muôn duyên, quét sạch mọi vọng niệm tạp sự trong thường ngày, sau đó thâu nhiếp tâm một nơi, buộc vào một câu Hồng danh. Ví như ghe thuyền trên dòng nước chảy xiết, buộc vào cây cọc thì không bị trôi mất. Đây là tầng công phu thứ hai.
Khi trì danh cần phải đem sáu chữ Hồng danh này, từ tâm phát khởi, từ miệng niệm ra, từ tai nghe vào, ví như ba bánh xe xoay vần tới lui, cốt phải tâm tưởng rành rẽ rõ ràng, miệng niệm rành rẽ rõ ràng, tai nghe rành rẽ rõ ràng. Như thế, tự niệm tự nghe, mỗi chữ mỗi chữ thành khẩn, chớ để đánh mất một câu. Đó là tầng công phu thứ ba.
Vả lại, khi chúng ta niệm Phật, chẳng luận miệng niệm hay ý trì, nên khiến cho hoàn toàn không có xen tạp những âm thanh khác, chỉ còn tiếng Phật hiệu. Vì Pháp thân Phật Di-đà khắp tất cả chỗ nơi, ánh sáng của Phật cũng cùng khắp tất cả chỗ nơi, nên khi niệm Phật từ ta mà phát ra tiếng nơi tâm, tiếng nơi tâm vào trong ánh sáng của Phật, ánh sáng của Phật vào trong tiếng nơi tâm, như thế tiếng nơi tâm và ánh sáng của Phật giao dung thì ta tức là Phật A-di-đà, Phật A-di-đà tức là ta. Đó là tầng công phu thứ tư.
Y theo những điều nói trên tinh tấn tu hành, tiến vào từng tầng, khiến cho nghiệp lực tiêu mòn, đạo lực tăng trưởng, đợi đến tầng thứ tư tức là ngày thành công nhất tâm.
* Kế đến nói về công phu trợ:
Phương pháp công phu chánh cố nhiên là thẳng tắt nhanh chóng, nhưng chúng sinh từ vô thỉ kiếp đến nay phiền não tập khí sâu dày, vọng niệm lăng xăng. Nay muốn dùng một câu danh hiệu Phật bỗng chốc ép buộc khiến chẳng tạo nghiệp, không vọng tưởng, hoàn toàn chẳng phải trong thời gian ngắn mà có thể làm được, nên cần phải phụ vào công phu trợ hạnh. Nếu có thể hằng ngày tỉnh xét lầm lỗi của mình, thành tâm sám hối, khiến cho tiêu trừ nghiệp chướng; còn thấy người khác làm lành thì vui theo khen ngợi, để tăng phước đức. Sám hối, tùy hỷ, như thế đều hồi hướng vãng sinh Tây Phương, đó là phần thứ nhất trong trợ hạnh.
* Tiếp theo là pháp ưa thích và chán nản:
Trong sinh hoạt hằng ngày, chẳng luận ăn mặc, đi đứng, nói chung mọi thứ nơi Ta-bà đồng loạt đều xem là ô uế, chán nản muốn xa lìa, mọi thứ vui cùng tột được nói trong ba kinh Tịnh độ đều xem là thanh tịnh mà ưa thích hâm mộ. Chán nản muốn xa lìa thì không có tâm tham luyến; ưa thích, hâm mộ tự nhiên tâm thêm nguyện cầu sinh. Đợi đến khi ưa thích và chán nản cùng cực thì thân tuy cư ngụ nơi Ta-bà mà đã chẳng phải là kẻ khách ở lâu nơi Ta-bà, tuy chưa lên Cực Lạc sớm đã dự vào hàng khách quý nơi Liên Bang. Đó là bí quyết vi diệu của Tịnh tông, là phần thứ hai trong trợ hạnh.
Hơn nữa, có pháp phương tiện điều phục vọng hoặc: phải biết người niệm Phật không được nhất tâm, là do vọng niệm làm rối loạn. Vọng niệm chính là hoặc, cũng chính là ma. Kinh Niết-bàn nói: “Bậc Tu-đà-hoàn đoạn trừ kiến hoặc như ngăn chặn dòng sông bốn mươi dặm”, nên biết muốn mong cầu đoạn dứt ngay thật không phải dễ. Nay chính là phương pháp điều phục vọng hoặc tạm thời. Cổ đức nói: “Chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”, nếu có thể niệm khởi liền giác, vừa giác liền dùng danh hiệu Phật trấn áp. Như thế, ma đến thì Phật trấn áp, ví như lấy đá đè cỏ, lâu ngày vọng hoặc tự nhiên không còn khởi, cũng được phương tiện nhất tâm, đợi đến sau khi về Tây lại tiếp tục đoạn trừ vọng hoặc. Đó là phương pháp đặc biệt của Tịnh độ, là phần thứ ba trong trợ hạnh.
Bí quyết niệm Phật của Thiền sư Thảo Am
Phật A-di-đà ai không thể niệm, mà rất khó niệm; Tây Phương Cực Lạc ai chẳng nguyện sinh, mà rất hiếm được sinh. Bởi vì, người niệm Phật chưa được bí quyết thôi.
Dạy niệm Phật muốn cho được chân thật thiết tha, có lẽ chỉ dùng một chữ “chết”. Đặt chữ “chết” trên ý niệm thì đối với cảnh duyên tự nhiên lạnh nhạt, tình ái tự nhiên cũng nhẹ bớt, danh lợi, quyền thế, hào phú, ở chỗ này (chết) đều vô dụng. Thấy nghe hiểu biết đến khi ấy lại không dùng được. Bốn đại đều phân ly, biết nương tựa vào đâu? Cô hồn vô chủ sao được tự do? Lúc ấy, chẳng thấy Di-đà, e gặp La-sát, không sinh Tịnh độ, sợ vào thai lừa. Dù không có nghiệp ác, cũng không khỏi lại qua trong loài người; dù có nhân lành, phước trời dễ hết biết làm sao! Chớ bảo rằng tự mình có chủ tể, nghiệp quả trói buộc thật khó trốn tránh. Chớ bảo vốn không sinh tử, thức tâm chưa hết đều thuộc luân hồi. Đừng xem việc này là thong thả, việc ngày mai chẳng biết được. Chớ xem thường điều ấy, lầm qua đời này, trầm luân muôn kiếp. Tất cả việc không gì bằng việc lớn sinh tử, thế thì mọi việc đều chẳng phải là việc cấp thiết. Lúc nào cũng nghĩ là lúc sắp mạng chung, thì lúc nào cũng là lúc niệm Phật. Niệm Phật như thế, trong lòng khẩn thiết, khẩn thiết như thế mới sinh Tịnh độ. Cần phải kiên quyết công phu mới thành tựu Tịnh nghiệp, thường nghĩ nhớ khi chết mới khẩn thiết hành trì. Đó chính là nấc thang thành Phật, đó thật là bí quyết vi diệu của việc niệm Phật.
(Dịch xong ngày 24 / 03/ 2004 tại chùa Bửu Liên)