NIỆM PHẬT CHỈ NAM
Phần 3
Trích dẫn “Ngữ lục” của Đại sư Đế Hàn
Trì danh niệm Phật cần phải có lòng tin chân thật, phát nguyện khẩn thiết, thực hành chuyên nhất. Trước nên buông bỏ tất cả tạp niệm, ý tưởng lăng xăng, chỉ giữ chánh niệm, đem bốn chữ danh hiệu buộc niệm nơi lòng. Không cần phải niệm lớn tiếng mãi, e tổn thương nguyên khí, đến nỗi phải đau cổ họng. Nếu khi buồn ngủ cần phải niệm lớn tiếng để đánh tan, cũng không cần phải dùng cách niệm nhỏ mãi, e tâm niệm dễ tản mác đi vào hôn trầm. Trái lại, lúc sinh khởi nghĩ ngợi, ngay khi ấy tự biết tâm chẳng quy nhất, nên thâu trở lại chánh niệm, âm thầm trì danh, từ nơi miệng niệm ra, thâu trở vào tai, gọi là miệng và tai truyền nhau, đây kia không ngăn cách, rất dễ thực hành, lại dễ thuần thục, lâu dần tự nhiên thành tựu Niệm Phật Tam-muội.
Trích dẫn “Ấn Quang văn sao” của Đại sư Ấn Quang
Chúng ta nghe về pháp môn Tịnh độ, nên tin Ta-bà rất khổ, Tây Phương rất vui, nên tin từ nhiều đời đến nay nghiệp chướng sâu nặng, nếu không nhờ sức mạnh của Phật thì khó mà nhanh chóng thoát ra. Nên tin cầu vãng sinh chắc chắn hiện đời được sinh, nên tin niệm Phật nhất định được Phật từ bi thâu nhận. Do đó, một lòng kiên định, nguyện rời khỏi Ta-bà như tù nhân muốn thoát ra lao ngục, hoàn toàn không có tâm lưu luyến buộc ràng; nguyện vãng sinh Tây Phương như người khách nhớ về cố hương, lẽ nào lại có ý niệm dây dưa? Từ đây, tùy phần tùy sức, chí tâm trì niệm Thánh hiệu A-di-đà Phật. Không luận là khi nói, nín, động, tịnh, đi, đứng, ngồi, nằm, đón đưa tân khách, mặc áo ăn cơm, cốt phải làm cho Phật chẳng rời tâm, tâm chẳng rời Phật.
Niệm Phật khó quy nhất, phải nhiếp tâm niệm kỹ. Phép nhiếp tâm không gì hơn chí thành, tha thiết, nếu không chí thành mà muốn quy nhất ấy là điều rất khó. Đã chí thành, niệm còn chưa thuần, phải lắng tai nghe. Không luận niệm thầm hay ra tiếng, đều phải niệm khởi từ tâm, tiếng ra từ nơi miệng rồi lại vào tai. Tâm và miệng rành rẽ, tai nghe rõ ràng, nhiếp tâm như thế vọng niệm tự dứt. Nếu làn sóng vọng tưởng dâng trào quá mạnh, nên dùng pháp “Thập niệm ký số”, đem hết tâm lực chuyên vào câu niệm Phật, dù muốn khởi vọng cũng không có xen hở để nổi lên. Pháp này nhiếp tâm rất tuyệt diệu. Tôi nhiều phen dùng thử mới biết là rất hiệu nghiệm. “Thập niệm ký số” là khi niệm Phật phải ghi nhớ rành rẽ từ một đến mười câu, hết mười câu liền trở lại một, cứ như thế xoay vần mãi. Nhưng phải niệm trong vòng mười câu mà thôi, không được hai hoặc ba mươi câu, không được dùng chuỗi, chỉ dùng tâm ghi nhớ. Nếu niệm luôn một mạch mười câu thấy khó thì phân làm hai hơi, từ một đến năm, từ sáu đến mười. Nếu hoặc còn thấy kém sức lại chia làm ba hơi, từ một đến ba, bốn đến sáu, bảy đến mười. Cần để ý: Niệm rõ ràng, nhớ rõ ràng và nghe phải rõ ràng, vọng niệm mới không xen vào được. Dùng pháp này lâu sẽ được nhất tâm. Chỉ những khi nào làm việc, hoặc khó ký số nên khẩn thiết niệm suông, đợi lúc xong việc lại nhiếp tâm ký số. Như thế thì vọng tưởng không còn tung hoành, bởi tâm chuyên chú an trụ vào danh hiệu Phật.
Nhiếp tâm niệm Phật là con đường quyết định không thay đổi. Phương pháp nhiếp tâm chỉ có “nghe lại” rất là bậc nhất. Pháp môn Tùy Tức Bảo Vương nhiếp cả
Ngũ Đình Tâm Quán, nếu có thể theo hơi thở mà niệm, tức là gồm đủ hai môn: Sổ tức và niệm Phật. Nhiếp tâm niệm Phật thì lòng tham nhiễm lần lần dứt tuyệt, sân hận không còn lẫy lừng, khi hôn trầm tán loạn đã lui, trí tuệ liền hiện, phá luôn cả si mê nữa. Pháp môn Nhiếp sáu căn của Bồ-tát Đại Thế Chí, theo ngu ý những người niệm Phật lơ là hiện thời, dường như chẳng nên dùng, vì nếu không lần chuỗi ghi số, họ sẽ trở thành biếng trễ. Khác hơn thế, những ai quyết tâm niệm Phật, nếu bỏ pháp này nhất định khó thành Tam-muội. Pháp nhiếp sáu căn với bậc lợi cơ, trong một hai thất quyết sẽ được nhất tâm. Dù cho hạng ngu kém như tôi, nếu cố gia công hoặc tám năm hay mười năm, tưởng may ra có thể được không loạn.
Truy đảnh dễ bị bệnh. Niệm lớn, niệm nhỏ, niệm kim cang, niệm thầm, tùy theo tinh thần của mỗi người điều đình mà dùng, đâu nên chấp chặt vào một pháp để đến nỗi phải bị bệnh. Tùy tức niệm Phật chẳng bằng lặng lẽ mà nghe, bởi theo hơi thở không khéo sẽ sinh bệnh, lặng lẽ mà nghe thì không bệnh.
Cảnh tướng Tam-muội chỉ có chứng nhập mới thấu rõ. Nếu nói về pháp ấy thì khi niệm Phật, ngay nơi niệm nhìn trở lại, chuyên chú một cảnh, đừng để cho rong ruổi bên ngoài. Mỗi niệm soi lại nguồn tâm, mỗi tâm khế hợp thể tánh Phật, niệm trở lại chỗ mình niệm, quán trở lại nơi mình quán, ngay khi niệm tức là quán, ngay khi quán tức là niệm. Cốt yếu là khiến cho toàn niệm tức là quán, ngoài niệm không có quán; toàn quán tức là niệm, ngoài quán không có niệm. Quán và niệm tuy đồng như nước với sữa nhưng vẫn chưa đạt đến cội nguồn, phải ở trên một niệm A-di-đà Phật không ngừng thể cứu, thiết tha nhắc nhở, càng thể cứu càng thiết tha, càng nhắc nhở càng gần gũi, cho đến sức lực cùng cực, công phu thuần thục thoát nhiên ý niệm rơi rụng, chứng nhập cảnh giới vô niệm mà không lúc nào chẳng niệm. Đó gọi là: “Linh quang viên chiếu, vượt thoát căn trần, thể chân thường hiện bày, chẳng hạn cuộc nơi văn tự, tâm tánh không nhiễm, vốn tự thành tựu viên mãn, chỉ lìa vọng niệm tức là tánh Phật như như”. Công phu đến đây là đạt được pháp niệm Phật, đạo cảm ứng qua lại, đây chính là lúc nên gắng sức. Hiện tại, chưa rời Ta-bà mà thường dự Hải hội, lâm chung bước lên Thượng phẩm, nhanh chóng chứng đắc Phật thừa.
Niệm danh hiệu Phật đừng dùng pháp Niệm Quán tâm, nên dùng pháp Niệm Nhiếp tâm. Trong kinh Lăng-nghiêm, Bồ-tát Đại Thế Chí nói: “Nhiếp cả sáu căn, Tịnh niệm tiếp nối, được Tam-ma-địa, đây là bậc nhất”. Khi niệm Phật, trong tâm (ý căn) phải niệm rành rẽ rõ ràng, trong miệng (thiệt căn) phải niệm rành rẽ rõ ràng, trong tai (nhĩ căn) phải nghe rành rẽ rõ ràng. Ba căn ý, lưỡi, tai, mỗi mỗi thâu nhiếp nơi danh hiệu Phật, thì mắt cũng sẽ không nhìn Đông ngó Tây, mũi cũng không ngửi mùi vị khác, thân cũng không lười biếng giải đãi, gọi là thâu nhiếp cả sáu căn. Thâu nhiếp cả sáu căn mà niệm, tuy chẳng thể hoàn toàn không vọng niệm, nhưng so với kẻ không thâu nhiếp trong lòng đã thanh tịnh nhiều rồi, cho nên gọi là Tịnh niệm. Tịnh niệm nếu có thể thường thường tiếp nối không gián đoạn, tự nhiên tâm trở về một chỗ. Cạn thì được nhất tâm, sâu thì được Tam-muội. Có thể thật sự thâu nhiếp cả sáu căn mà niệm, chắc chắn nghiệp chướng tiêu trừ, căn lành tăng trưởng, chẳng cần quán tâm mà tâm tự thanh tịnh sáng ngời, sao lại gây ra bệnh tâm hỏa bốc lên?
Phương pháp Quán tâm chính là pháp tu Quán của Giáo gia, người niệm Phật không hợp cơ cho lắm. Thâu nhiếp cả sáu căn, Tịnh niệm tiếp nối là pháp vi diệu vô thượng cho mọi căn cơ, cả Thánh lẫn phàm, lợi khắp thượng trung hạ. Nên biết “điều thâu nhiếp” chú trọng ở chỗ nghe, ngay cả trong lòng thầm niệm cũng phải nghe. Vì trong lòng khởi niệm thì có âm thanh, tai của chính mình nghe tiếng trong lòng của chính mình, vẫn là rành rẽ rõ ràng. Quả như có thể từng chữ từng câu nghe rõ ràng thì sáu căn trở về nơi một, so với người tu pháp quán khác rất là ổn thỏa, rất đỡ tốn sức lực, rất khế lý khế cơ.
Niệm Phật tuy quý nơi tâm niệm, nhưng cũng không nên bỏ sự đọc tụng ra tiếng, vì thân miệng ý giúp đỡ lẫn nhau. Dù rằng tâm có thể nhớ nghĩ, song nếu thân không lễ kính, miệng chẳng trì tụng, cũng khó được lợi ích. Cho nên, kinh Đại Tập nói: “Niệm lớn thấy Phật lớn, niệm nhỏ thấy Phật nhỏ”. Cổ đức cũng bảo: “Niệm lớn tiếng thấy thân Phật cao lớn, niệm nhỏ tiếng thấy thân Phật bé nhỏ”. Với hạng phàm phu, tâm thường hôn trầm tán loạn, nếu không nhờ sức thân lễ, miệng niệm tụng tất khó được nhất tâm.
Pháp môn niệm Phật chú trọng ở lòng tin và sự phát nguyện. Có lòng tin và phát nguyện, dù chưa được nhất tâm cũng có thể vãng sinh. Được nhất tâm nhưng nếu không có lòng tin và phát nguyện cũng không được vãng sinh. Người đời phần nhiều chú trọng nhất tâm, chẳng chú trọng lòng tin và phát nguyện, đó là đã mất chỗ cốt yếu. Hơn nữa, khi sống chưa được nhất tâm, và còn nghi sợ chẳng được vãng sinh thì hoàn toàn trái ngược với lòng tin chân thật và sự phát nguyện thiết tha. Do vậy, càng thêm Tín–Nguyện để đạt đến nhất tâm, đó là ý niệm tốt. Nếu vì không được nhất tâm mà thường lo chẳng thể vãng sinh, thì trở thành ý niệm sai lầm. Điều đó không thể không biết!
Niệm Phật tối yếu ở chỗ thoát sinh tử. Đã vì thoát sinh tử thì đối với nỗi khổ sinh tử tự nhiên sinh lòng chán nản, đối với niềm vui Tây Phương tự nhiên khởi tâm ưa thích. Như thế, hai pháp Tín–Nguyện ở ngay nơi tâm niệm đầy đủ trọn vẹn. Lại thêm chí thành khẩn thiết như con nhớ mẹ mà niệm, thì sức mạnh của Phật, sức mạnh của pháp, sức mạnh của công đức Tín–Nguyện nơi tự tâm, cả ba hiển bày trọn vẹn, như vầng nhật tỏ sáng giữa trời không, dù có sương dầy băng tuyết, không bao lâu cũng sẽ tan chảy.
Muốn cho tâm không tham luyến việc ngoài, chuyên niệm Phật được quy nhất, cũng không có phương pháp chi kỳ lạ, chỉ đừng quên cái chết rình rập bên mình, không biết xảy ra lúc nào. Tâm luôn nghĩ nhớ: “Ta từ xa xưa đến nay tạo ra vô lượng vô biên nghiệp ác, như trong kinh nói: “Giả sử nghiệp ác kia có hình tướng thì khắp mười phương hư không cũng chẳng dung chứa hết”, duyên đâu may mắn, nay được thân người lại nghe Phật pháp, nếu không một lòng chuyên niệm Phật cầu sinh Tây Phương, khi cái chết đến thình lình, chắc chắn phải bị đọa vào ác đạo. Chừng ấy nếu vào địa ngục thì bị non đao, rừng kiếm, lò lửa, vạc dầu, một ngày đêm sống chết đến vạn lần, sự khổ cùng cực không thể diễn tả. Nếu ra khỏi địa ngục lại đọa vào loài ngạ quỷ, súc sinh; dù được làm người ngu si tạo nghiệp lại đọa lạc trải qua kiếp số nhiều như cát bụi, luân hồi trong sáu nẻo, dù muốn thoát ra cũng không thể được”. Hay nghĩ nhớ như vậy, những điều mong cầu trên liền được thành tựu. Cho nên, trong kinh thường nói, nghĩ về nỗi khổ nơi địa ngục mà phát tâm Bồ-đề, đó là lời khai thị thiết yếu nhất của đức Thế Tôn. Niệm Phật phải luôn luôn nghĩ mình sắp chết, sắp rơi vào địa ngục, thì chẳng khẩn thiết tự nhiên cũng khẩn thiết, chẳng tương ưng tự nhiên cũng tương ưng. Dùng tâm sợ khổ mà niệm Phật là pháp vi diệu bậc nhất để thoát khổ, cũng là pháp vi diệu bậc nhất để tùy duyên tiêu nghiệp.
Người niệm Phật không nên tập theo lối tham cứu của nhà tu Thiền. Vì người tham cứu hầu hết đều không chú trọng về việc Tín–Nguyện vãng sinh. Dù có niệm Phật, họ chỉ chú trọng khán “niệm Phật đó là ai?” để cầu khai ngộ. Nếu khai ngộ hoặc nghiệp hết sạch, có thể thoát sinh tử. Nếu hoặc nghiệp chưa hết, không thể nhờ vào tự lực để thoát sinh tử. Lại không có Tín–Nguyện thì chẳng thể nhờ vào Phật lực thoát khỏi sinh tử. Tự lực và Phật lực cả hai đều không nương cậy được, sao có thể thoát luân hồi?
Người niệm Phật không nên bắt chước kẻ ngu tối làm những việc: hườn thọ sinh, gởi giấy tiền vàng mã. Bởi sự hườn thọ sinh, trong kinh Phật không có nói, do người sau ngụy tạo. Còn gởi giấy tiền vàng mã là muốn cho mình khi chết rồi thành quỷ, nên mới sắm trước tiền của đồ vật cho thân quỷ dùng. Đã có tâm niệm muốn làm quỷ thì khó được vãng sinh. Như người nào chưa làm thì thôi, nếu đã làm phải bạch rõ trước bàn Phật như vầy: “Đệ tử là… chỉ cầu vãng sinh, những đồ minh khố đã gởi đi trước, xin đem chẩn tế cho cô hồn”. Như thế, mới không chướng ngại cho sự sinh về cõi Phật.
Người niệm Phật nên ăn chay trường. Như chưa được thế, thì giữ Lục trai hoặc Thập trai, để lần lần bỏ hẳn các thứ thịt của chúng sinh, mới là hợp lý. Lục trai là các ngày: mùng 8, 14, 15, 23, 29, 30; nếu thêm vào đó mấy ngày: mùng 1, 18, 24, 28 thì thành ngày Thập trai. Những tháng thiếu nên ăn trước một ngày. Lại tháng giêng, tháng năm, tháng chín là ba trai ngoạt, nên ăn chay trường và làm các việc công đức. Dù chưa ăn chay được, cũng nên mua thịt cá đã làm sẵn, chớ sát sinh trong nhà.
Người niệm Phật, việc quan trọng nhất là “thành khẩn”, làm tròn bổn phận, trừ dẹp tà vạy, giữ tâm thành kính, không làm các việc ác, thực hành mọi điều lành, giữ tâm tốt, nói lời lành, làm việc thiện. Những điều khả năng mình có thể làm được gắng sức làm, như không làm được cũng nên phát tâm lành ấy, hoặc khuyên người có khả năng làm, hoặc thấy người làm sinh tâm vui theo. Thốt lời khen ngợi việc lành cũng thuộc về công đức của tâm và miệng. Nếu việc mình không thể làm, khi thấy người khác làm được sinh tâm ganh ghét, đó là tâm hạnh của kẻ tiểu nhân gian ác. Như thế, nhất định sẽ bị mất phước tổn thọ, không được kết quả tốt, cần để ý răn chừa!
Người niệm Phật phải hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, tâm từ bi không giết hại, tu mười nghiệp lành (thân không sát sinh, trộm cướp, tà dâm; miệng không nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, nói hung ác; ý không tham dục, giận hờn, ngu si tà kiến). Lại cần phải: cha lành, con thảo, anh em thương kính, chồng vợ thuận hòa, chủ nhân hậu, tớ trung thành, mỗi người đều giữ tròn bổn phận. Ta chỉ nên làm hết nhiệm vụ mình, đừng so đo phiền trách người khác đối với mình có trọn cùng không. Nếu người nào đối với gia đình xã hội làm tròn bổn phận, đó là người lành. Người lành mà niệm Phật dễ có cơ cảm, quyết định khi lâm chung được Phật tiếp dẫn sinh về Tây Phương vì tâm hạnh hợp với Phật. Lại phải khuyên cha mẹ, anh em, chị em, vợ con, xóm giềng, bạn bè thường niệm Phật và Bồ-tát Quán Thế Âm. Vì việc này lợi ích rất lớn, nỡ nào để cho đấng sinh thành, người quyến thuộc và bạn bè của ta không được sự lợi ích này ư? Huống chi, khuyên người niệm Phật cầu sinh Tây Phương, tức là giúp kẻ phàm phu thành Phật, công đức rất lớn, nếu đem công đức ấy hồi hướng vãng sinh tất sẽ mãn nguyện.
Người niệm Phật khi tụng kinh, trì chú, lễ bái, sám hối, cứu tai nạn, giúp kẻ nghèo, tất cả công đức lành đều phải hồi hướng vãng sinh Tây Phương, không nên cầu đời sau hưởng phước báo ở cõi trời, cõi người. Vừa có tâm niệm ấy thì mất phần vãng sinh. Chưa thoát khỏi sinh tử, hưởng phước càng nhiều tất nghiệp càng lớn, qua một đời sau nữa khó khỏi đọa vào đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Chừng ấy, muốn trở lại làm thân người, được nghe pháp hiện đời giải thoát của môn Tịnh độ, còn khó hơn lên trời.
Quán Thế Âm Bồ-tát thệ nguyện rộng sâu, tìm tiếng cứu khổ. Khi gặp những tai nạn: đao binh, nước lửa, đói kém, cào cào, ôn dịch, khô hạn, cướp bóc, oan gia, thú dữ, rắn độc, ác quỷ, yêu mị, nghiệp bệnh, kẻ tiểu nhân hãm hại… nếu phát tâm sửa lỗi làm lành, lợi mình lợi người, chí thành khẩn thiết niệm Quán Thế Âm không xen hở, quyết định sẽ được sức từ bi ủng hộ tránh khỏi tai nguy. Nếu vẫn còn giữ lòng bất thiện, dù có xưng niệm, chẳng qua là gieo chút căn lành về sau, không được sự cảm ứng hiện tại, vì chư Phật, Bồ-tát thành tựu niệm lành cho người, tuyệt không thành tựu niệm ác cho người. Như không phát tâm sửa lỗi làm lành, lầm lạc muốn đem công đức niệm Phật, Bồ-tát để cầu cho việc ác của mình thành tựu, quyết không được cảm ứng. Rất không nên phát tâm điên đảo ấy!
Người niệm Phật, nếu tấm lòng chân thiết, tự có thể nhờ từ lực của Phật khiến cho khỏi tai nạn đao binh nước lửa. Dù có bị nghiệp cũ trói buộc, hoặc trường hợp chuyển quả nặng địa ngục thành ra báo nhẹ đời nay ngẫu nhiên bị tai nạn ấy, nếu lúc thường ngày có lòng Tín–Nguyện chân thật thiết tha, quyết định lúc bấy giờ sẽ được nhờ Phật tiếp dẫn.
Người nữ khi có kinh nguyệt chỉ nên lễ bái ít, còn sự tụng kinh niệm Phật đều chiếu theo lệ thường. Nên thường thay giặt vải dơ, phải rửa tay cho sạch sẽ, đừng dùng tay dơ mà lần chuỗi, lật kinh và đốt hương. Khi sinh sản, lõa lồ không sạch nhưng không cách nào hơn, đó chẳng phải ý mình buông lung. Nếu chí thành khẩn thiết niệm lớn tiếng Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát, quyết định sẽ không còn khốn khổ khó sinh và bị những bệnh băng huyết sau khi sinh, con trẻ bị kinh phong. Dù rất khó sinh sắp chết, nên bảo sản phụ và những người giúp đỡ trong phòng đều niệm lớn tiếng Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát. Người nhà tuy ở phòng khác cũng nên niệm trợ giúp, quyết định liền được sinh đẻ dễ dàng. Chẳng những không tội lỗi mà còn khiến mẹ con gieo trồng căn lành lớn. Lúc ấy, không nên niệm thầm vì niệm thầm tâm lực kém nên sự cảm ứng cũng kém. Hơn nữa, trong khi dùng sức cho đứa con ra, nếu niệm thầm tất phải tổn hơi mang bệnh.
Giữ một câu A-di-đà Phật, nhặt nhiệm nối nhau thường nhớ thường niệm. Khi những tâm hờn giận, dâm dục, háo thắng, kiêu mạn, thoạt nổi lên, phải nghĩ: “Ta là người niệm Phật cầu giải thoát, không nên có tâm niệm như vậy”, nghĩ rồi liền trừ diệt đi. Như thế, lâu dần những niệm lao thần tổn thân đều không do đâu sinh khởi, trọn ngày được công đức không nghĩ bàn của Phật gia trì nơi thân tâm mình, dám đảm bảo trong mười ngày sẽ thấy hiệu quả lớn. Nếu chỉ niệm một, hai câu liền muốn được công hiệu ngay, đó là lừa mình dối người, tuy có công đức nhưng muốn do đó lành bệnh quyết không thể được.
Người niệm Phật cần phải chí thành. Hoặc có khi trong tâm sinh khởi đau buồn, đây cũng là tướng căn lành phát hiện, quyết chẳng thể để cho thường như thế, nếu không thì ma bi xâm nhập. Phàm lúc có việc thích ý, không nên quá vui vẻ, nếu không ắt bị ma hoan hỷ xâm nhập. Khi niệm Phật mắt nên nhìn xuống, không nên đề khởi tinh thần quá lắm, đến nỗi gây ra bệnh tâm hỏa bốc lên. Hoặc có những bệnh trên đầu phát ngứa, phát đau… cần phải điều đình vừa phải. Niệm lớn tiếng không nên quá gắng sức để đề phòng sinh bệnh, lần chuỗi niệm có thể ngăn ngừa sự lười biếng. Khi tĩnh tọa, nhất định không nên lần chuỗi, lần chuỗi thì tay động tâm chẳng thể định, lâu ngày ắt sinh bệnh. Khi nằm chỉ nên niệm thầm bốn chữ, để khỏi vì nhiều chữ mà khó niệm. Nếu niệm ra tiếng, một là không cung kính, hai là bị hao hơi.
Niệm Phật nhắm mắt dễ đi vào hôn trầm, nếu chẳng khéo dụng tâm đôi khi có ma cảnh. Lúc ông niệm Phật, nếu cảm thấy có vật gì xoa cổ và kềm chế trên đầu, đó là khi niệm Phật tâm tưởng hướng lên nên gây ra tướng tâm hỏa bốc lên. Nếu mắt mở vừa phải nhìn xuống và tâm tưởng hướng xuống, thì tâm hỏa chẳng bốc lên, bệnh này liền hết. Nhất định chẳng thể cho đây là công phu, lại không nên sợ đây là ma cảnh, chỉ chí thành nhiếp tâm mà niệm, đồng thời tưởng thân mình ngồi hoặc đứng trên hoa sen, nhất tâm tưởng về hoa sen nơi mình ngồi hoặc đứng, tự nhiên có thể nhanh chóng lành bệnh. Nếu không dám tưởng mình ngồi hoặc đứng trên hoa sen, e dẫn đến việc ma thì chỉ tưởng dưới gót chân, bệnh tâm hỏa bốc lên đầu sẽ không phát sinh.
Thấy Phật không phải dễ, khi chưa được nhất tâm quyết không thể mống niệm muốn thấy Phật. Khi được nhất tâm, tâm hợp với đạo, tâm hợp với Phật, muốn thấy liền thấy ngay, dù không thấy cũng không ngại. Vội gấp muốn thấy Phật thì vọng tưởng rối ren, tâm niệm cầu mong cố kết nơi lòng, đây là chứng bệnh lớn lao nguy hiểm của người tu hành. Như thế lâu ngày, những oan gia đời trước nương theo vọng tưởng của hành nhơn, hóa làm thân Phật, để mong báo oán. Lúc ấy, tự mình đã không có chánh kiến, toàn thể là khí phần của ma, một khi thấy cảnh ấy tất sinh lòng hoan hỷ, ma nương theo đây mà vào tâm phủ làm cho hành nhơn điên cuồng, dù có Phật sống cũng không cứu được. Chỉ được nhất tâm, lo gì việc thấy Phật và không thấy? Sau khi nhất tâm, tự biết tốt hay không. Không thấy Phật cố nhiên có thể công phu tiến lên, dù thấy đi nữa lại càng dụng tâm chuyên tu, quyết không có lỗi nhận lầm, chỉ có sự lợi ích tiến thêm mà thôi.
Đóng cửa nhập thất, từ chối những việc
không cấp thiết rất là có ích. Trong thất dụng công, nên lấy việc chuyên tinh thuần nhất làm chánh. Nếu quả như tâm được thuần nhất ắt có sự cảm thông không thể nghĩ bàn, cảm thông thì tâm càng chuyên nhất, gọi là gương sáng trên đài gặp vật thì hiện bóng, tự chúng lăng xăng nào có dính dáng gì đến ta. Khi tâm chưa chuyên nhất, quyết không thể đem tâm vọng động mong cầu cảm thông, tâm mong cầu cảm thông này chính là sự chướng ngại lớn nhất của việc tu hành. Huống gì dùng tâm vọng động hy vọng đạt được những việc khác thường, có khi dẫn đến những ma sự, phá hoại tâm thanh tịnh.
Gần đây, người tu hành phần nhiều hay bị ma dựa, đều do dùng tâm vọng động mong được những cảnh giới lạ thường. Đừng nói cảnh ấy là ma, dù có cảnh thù thắng, nếu sinh lòng vui mừng tham trước cũng bị tổn hại, huống chi cảnh ấy chưa hẳn thật là cảnh thù thắng. Nếu người có công hàm dưỡng, dứt hẳn tâm vọng động, khi thấy các cảnh giới cũng như chưa thấy, không vui mừng, tham trước, sợ hãi, nghi ngờ, thì dù gặp ma cảnh cũng được lợi ích, nói gì là cảnh nhiệm mầu? Sở dĩ được như thế, bởi không bị ma chuyển nên có thể tiến triển thêm.
Những bóng đen chẳng phải là bóng chư Phật, Bồ-tát, cũng chẳng phải hình ảnh kẻ oan gia đối đầu. Vì nếu Phật, Bồ-tát hiện thân, tất phải tỏ rõ có thể trông thấy mặt mày; còn nếu là kẻ oan gia thì nó sẽ hiện ra tướng ghê gớm đáng sợ. Mấy bóng ấy có lẽ là những cô hồn hữu duyên từ kiếp trước, muốn nhờ sức tụng kinh niệm Phật để siêu sinh về cõi lành. Sau thời khóa tụng hồi hướng, nên cầu nguyện luôn cho các vong ấy được tiêu trừ ác nghiệp, thêm lớn căn lành, nhờ sức từ của Phật vãng sinh về Tây Phương. Như thế, các vong kia sẽ được lợi ích, không luống uổng một phen khổ sở mong cầu.
Chúng ta nhiều đời đã tạo mọi thứ nghiệp, may mắn được nghe Phật pháp nên chân thật tu trì, mới mong có thể tiêu trừ nghiệp cũ, siêu độ oan gia. Nếu chịu phát tâm Bồ-đề và thành tâm siêu độ, thì dù thắt gút khó mở đến đâu cũng liền được cởi mở. Niệm Phật mà bị khó thở, ắt không phải cơ thể yếu đuối mà chính là do nghiệp chướng gây ra, chỉ khẩn thiết chí thành mà niệm. Nếu niệm không được thì tâm thường nghĩ tưởng, có thể niệm được cần phải dùng miệng niệm, không thể niệm được thì chỉ dùng tâm niệm ghi nhớ, lâu dần nghiệp ấy liền tiêu. Từ nay về sau, nơi tâm niệm hành vi phải giữ cho hiền hòa mới được phước lành. Nếu chẳng thế, lại thêm tánh gian xảo, khắc hiểm, thì cũng như chót núi đá chơ vơ, mưa bao nhiêu cũng không đọng lại chút nào, dù loại cây cỏ chi cũng không sinh trưởng nổi.
Trích dẫn “Pháp vựng” của Đại sư Từ Chu Phổ Hải
Phật có trí tuệ rộng lớn, biết rõ căn cơ; quyết tâm niệm Phật bảy ngày không ai chẳng được nhất tâm không loạn. Không chịu quyết tâm (tử tâm) chẳng thể làm được việc gì. Tâm vốn hoạt bát linh thông, sao gọi là chết (tử)? Bởi vì, đem cái tâm nghĩ nhớ tình người ân ái, danh lợi phải quấy đổi trở lại để niệm Phật. Người xưa bảo rằng: “Đánh vọng tưởng chết, cứu Pháp thân sống”. Ví như kẻ cướp, chết đi tâm trộm cướp, một lòng làm người ngay thẳng. Nếu tâm chết thật thì lấy gì để niệm Phật? Muốn niệm đến chỗ nhất tâm không loạn, phải nhất tâm không loạn mà niệm.
Niệm Phật cần phải thiết thực dụng công, niệm đến chỗ không có người hay niệm và Phật được niệm, cũng không có thân tâm thế giới, niệm tức là vô niệm. Tạp niệm vừa khởi liền trở thành chướng ngại. Như thế, lẽ nào buổi sáng niệm vài câu, buổi tối niệm vài câu mà có thể được thành tựu? Tâm niệm niệm Phật này phải giống như cây chổi sắt quét sạch tất cả tạp niệm. Tạp niệm tuy nhiều nhưng chẳng ngoài những ý niệm nghĩ về tiền của, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ, cùng sắc, thinh, hương, vị, xúc. Trước dùng chổi sắt quét những niệm thô, sau quét những niệm vi tế. Tuy nhất thời quét không hết nhưng cũng phải giảm bớt, cần phải quét sạch mới thấy thái bình. Phải tự mình kiểm xét rõ ràng, niệm Phật có thể quét hết những ràng buộc ái ân của chính mình hay không? Nếu quét không sạch, cần phải sinh tâm rất hổ thẹn. Gọi là tin phải tin chân thật, nguyện phải nguyện thiết tha, thực hành phải thực hành thiết thực, mới được thọ dụng chân thật.
Trích dẫn “Pháp vựng” của Đại sư Viên Anh
Một câu danh hiệu Phật có đủ thần lực chẳng thể nghĩ bàn, có thể trị tất cả tâm bệnh phiền não. Mỗi khi gặp nghịch cảnh tâm sinh phiền não, liền kinh hành niệm Phật, bốn bước một câu Phật hiệu, xoay vần qua lại niệm mấy vòng, dần dần cảm thấy cõi lòng mát mẻ, nóng bức tự dứt. Có khi việc nhiều phiền nhiễu, đêm khuya không thể ngủ yên, cũng chuyên xưng danh hiệu Phật, trải qua giây lâu thì thân tâm an định liền ngủ được, không có chiêm bao. Khi chép kinh, một nét một câu Phật hiệu, tinh thần không tản mác, vọng niệm không dấy khởi, viết lâu cũng không cảm thấy nhọc nhằn. Quả như có thể tin một pháp niệm Phật này, chuyên tâm xưng niệm không có gián đoạn, niệm đến chỗ tâm không cảnh lặng, tự nhiên phiền não không do đâu mà sinh khởi.
Kinh Lăng-nghiêm nói: “Thâu nhiếp tâm là Giới”. Niệm Phật chính là phương pháp thâu nhiếp tâm, tức dùng chánh niệm của việc niệm Phật làm dừng mọi vọng niệm đuổi theo cảnh duyên. Nếu vọng tâm đuổi theo duyên sắc trần, liền chuyên niệm A-di-đà Phật, Tịnh niệm tiếp nối, tự nhiên không theo sắc trần lưu chuyển, thâu nhiếp trở về chánh niệm niệm Phật. Khi tâm đuổi theo các duyên thinh trần… mỗi mỗi đều thâu nhiếp trở về chánh niệm niệm Phật, như thế tự nhiên không đến nỗi phá giới làm việc ác. Niệm Phật, niệm đến chỗ mỗi niệm tương ưng với Phật, các vọng niệm đương nhiên chẳng khởi, ý nghiệp liền thanh tịnh, mọi giới luật tự nhiên đầy đủ. Hai nghiệp thân và miệng cũng do ý nghiệp sinh khởi, ý nghiệp không nghĩ tưởng làm việc sát sinh, trộm cắp, tà dâm, không nghĩ tưởng nói lời dối trá, thêu dệt, hung ác, hai chiều thì thân và miệng tự nhiên không dẫn đến việc phạm giới. Thế nên, niệm Phật là pháp môn Tịnh nghiệp, niệm một danh hiệu Phật liền có thể làm cho ba nghiệp thanh tịnh, đó là sự minh chứng niệm Phật đầy đủ Giới học.
Trích dẫn “Pháp vựng” và “Niên phổ” của Đại sư Cổ Nham
Tham thiền, niệm Phật, trì chú, tất cả pháp môn đều dạy chúng sinh phá trừ vọng niệm, hiển bày bản tâm. Phật pháp không có cao thấp, căn cơ thì có lợi độn, trong đó lấy pháp môn niệm Phật làm phương tiện ổn thỏa nhất. Tĩnh tọa là pháp phương tiện dạy người nhìn lại tự tánh, cốt yếu là ở chỗ buộc niệm vào một câu Phật hiệu, tâm tâm khế hợp, niệm niệm tiếp nối, từ tâm phát ra rồi lại vào tai, đừng để gián đoạn. Nếu được như vậy thì không có duyên nào khác xen vào. Nếu có thể thực hành lâu dài không lui sụt, càng siêng năng càng chuyên nhất, càng trì niệm càng thiết tha, chẳng phân biệt đi đứng ngồi nằm, chẳng quan tâm nơi động tĩnh hay khi bận rảnh, thì có thể một mạch đến nhà, vãng sinh miền An Dưỡng.
Vừa thấy có chút an định lặng lẽ sáng suốt liền sinh tâm động niệm chấp trước, nên chẳng thể tiến thêm nữa.
Tĩnh tọa đúng pháp có thể làm cho tứ đại điều hòa, dẫn đến khỏe mạnh, nên giữ một cách tự nhiên. Thân thể có bệnh phải điều dưỡng thích đáng, không cần miễn cưỡng ráng sức. Tu hành dụng công chẳng câu nệ nơi đi đứng ngồi nằm. Tĩnh tọa tu hành, mục đích phải vượt thoát sinh tử.
Ăn thịt tạo nghiệp sát sinh, rất trái với lòng từ bi, khiến cho thần trí của con người mờ tối, tăng trưởng tham lam, sân hận, dâm dục, lại tăng thêm dòng sinh tử khôn cùng, đời sau nghiệp chất như núi, đền trả quả báo oán thù không có ngày kết thúc. Ví như bình chảy muốn đựng đầy dầu chỉ nhọc nhằn tinh thần vô ích, người trí có thể tự xét rõ.
Tham thiền và niệm Phật đối với người mới phát tâm xem là hai việc, nơi người đã tu lâu thì chỉ là một. Tham thiền đề khởi một câu thoại đầu, cắt ngang dòng sinh tử, cũng là từ lòng tin kiên định mà thành. Nếu không nắm chặt thoại đầu thì tham thiền cũng không thành tựu. Nếu lòng tin kiên định, giữ chặt một câu thoại đầu tham cứu, cho đến uống trà chẳng biết là trà, ăn cơm chẳng biết là cơm, chỗ công phu thuần thục, căn trần rơi rụng, đại dụng hiện tiền, chẳng khác gì với chỗ công phu thuần thục tịnh cảnh hiện tiền của người niệm Phật. Đến cảnh giới này, Lý–Sự viên dung, Tâm–Phật không hai, Phật như, chúng sinh như, một như không có hai như, sai biệt ở chỗ nào?
Trích dẫn “Những trước tác còn lại” của Đại sư Văn Giác
Ba điều trọng yếu thường ngày:
Thứ nhất: Nói chuyện ít, niệm Phật nhiều. Việc muốn làm nhanh chóng làm cho xong, việc nên dặn dò sớm phải dặn dò. Đừng lưu luyến sự giàu sang ở thế gian, chớ ham muốn niềm vui sướng trên cõi trời. Về việc làm lành, khuyến hóa người phát khởi lòng tin thì tùy phận tùy sức mà làm, chủ yếu ở chỗ niệm Phật cầu sinh Tây Phương, thấy Phật nghe pháp.
Thứ hai: Làm chủ chính mình, không nghe lời người khác mà thay đổi, chẳng theo chân người mà dời bước. Tình người qua lại có thể giảm bớt thì giảm bớt, không cần chiều theo ý người. Tuổi già thời gian có hạn, chớ để qua suông. Trong lòng có nghi ngờ về đạo liền thưa hỏi cho rõ ràng, không thể mơ hồ mà tự lầm lạc.
Thứ ba: Luôn luôn hỏi lại chính mình: “Phật A-di-đà có ở trong lòng hay không? Tượng Phật có ở trước mắt hay không? Đi đứng ngồi nằm đều niệm Phật chăng? Lúc bận rộn hay rảnh rang đều chẳng quên hay không?”. Nói chung, công đức của mọi việc lành, tụng kinh, niệm Phật, trì chú, tĩnh tọa, lễ bái, thảy đều phát nguyện hồi hướng: “Hiện tại gia quyến bình an, tương lai trang nghiêm Tịnh độ”, lại nguyện: “Lúc lâm chung biết trước ngày giờ, tâm không điên đảo, được Phật tiếp dẫn”.
Trích dẫn “Khai thị lục” của Đại sư Quảng Khâm
Chúng ta đã nghe Phật pháp, phải tin sâu có thế giới Cực Lạc ở phương Tây, có đức Phật A-di-đà đại từ đại bi. Phật A-di-đà phát 48 đại nguyện, chỉ cần niệm danh hiệu thì Ngài liền tiếp dẫn chúng ta đến Tây Phương. Ngài có nguyện ấy, chúng ta cũng phải có nguyện vãng sinh Tây Phương ấy. Đầy đủ Tín–Nguyện–Hạnh, tùy thời niệm Phật. Lúc sắp mạng chung, chúng ta có chánh niệm, có thể niệm Phật, Phật A-di-đà liền đến tiếp dẫn. Nếu còn nhớ nghĩ đến một cây kim cọng cỏ nào của thế giới Ta-bà thì phải bị luân hồi trở lại.
Niệm Phật cũng không phải là đơn giản, cần phải buông bỏ toàn thân, các thứ phiền nhiễu trong ngoài đều phải vất bỏ, nhất tâm thanh tịnh xưng danh hiệu Phật, sau đó mới có thể tương ưng. Nếu hay đem một câu sáu chữ Hồng danh niệm rõ ràng rành rẽ, nghe rõ ràng rành rẽ, chẳng có mảy may nghi ngờ, những tạp niệm khác tự nhiên tiêu trừ, quyết định sẽ chứng được nhất tâm không loạn. Nếu mọi người tin lời tôi, chân thật niệm Phật, đi đứng nằm ngồi chẳng lìa Phật hiệu, thậm chí trong chiêm bao cũng giữ vững được, đem một câu Phật hiệu thận trọng ghi nhớ nơi lòng, chẳng bị lục căn trần cảnh xâm phạm và quấy nhiễu. Đến chỗ đó tự nhiên tâm không tham luyến, ý chẳng điên đảo, đợi đến khi công phu thuần thục, thế giới Tây Phương Cực Lạc tự nhiên hiện tiền. Quyết không thể lơ là xem thường!
Khi niệm Phật, nếu có tâm tán loạn, biện pháp duy nhất là niệm liên tục, đem toàn bộ tinh thần trụ vào sáu chữ Hồng danh là được.
Trích dẫn “Tinh tấn Phật thất khai thị lục” của Đại sư Tỉnh Thế
Tám pháp niệm Phật:
1. Nhiếp tâm niệm: Thâu nhiếp tâm trở lại, gọi là “nhiếp cả sáu căn, Tịnh niệm tiếp nối”, mọi lúc mọi nơi, thậm chí khi ngủ cũng không quên Thánh hiệu Di-đà.
2. Dõng mãnh niệm: Ví như người nghèo tìm của báu, dù cho của báu ấy để trong miệng cọp, hoặc dưới hang giao long cũng phải tiến tới không trở lui. Niệm Phật có tinh thần này, quyết định vãng sinh.
3. Tin sâu niệm: Chúng ta niệm Phật phải đầy đủ lòng tin sâu sắc, phát nguyện thiết tha và tâm vượt thoát sinh tử.
4. Quán tưởng niệm: Như quán 32 tướng hảo của Phật, mỗi niệm đều thấy 32 tướng, hốt nhiên ở phía trước như được bảo vật, có thể tham khảo phương pháp Quán tưởng niệm Phật trong kinh Thập Lục Quán.
5. Dừng tâm niệm: Dừng bỏ tất cả tâm yêu ghét, tâm danh lợi, tâm lập công và tâm lỗi lầm, tâm mong cầu, tâm tham luyến, tâm nhân ngã thị phi, mỗi niệm chỉ ở nơi Phật. Đó chính là buông bỏ tất cả tâm sinh tử, chỉ còn một tâm niệm Phật.
6. Ái mộ niệm: Ví như trẻ thơ xa mẹ, trong lòng đau buồn thương nhớ, cầu Phật thương xót thâu nhận. Chương Niệm Phật Viên Thông, Bồ-tát Đại Thế Chí nói: “Nếu con nhớ mẹ, như mẹ nhớ con, dù trải qua nhiều đời cũng không xa cách nhau”, chính là nói: Phật như người mẹ hiền, từng giờ từng phút trông mong những đứa con lưu lạc quê người như chúng ta, có thể sớm trở về cố hương. Chúng ta nếu có thể như con nhớ mẹ, nhớ niệm Phật A-di-đà, thì Phật quyết định đến tiếp dẫn, đó là do hai nguyện khế hợp nhau.
7. Quyết tâm niệm: Lấy việc thi cử đại học làm ví dụ. Nếu năm nay không thi đậu, quyết tâm mạnh mẽ năm sau thi lại, phải có tinh thần tiếp tục tiến lên ấy. Lại xét nghĩ Thánh Hiền nơi Tịnh độ đều là từ phàm phu mà thành, ta cũng không thể tự xem thường, nhất định cũng phải làm được.
8. Tất cả niệm: Phàm thấy, nghe, hiểu, biết, mỗi lỗ chân lông, cho đến xương tủy, không có chỗ nào mà không niệm Phật. Như thế gọi là chân thật niệm Phật, toàn thân đều phải ở nơi miệng.
Ba loại niệm Phật chẳng tương ưng:
1. Tâm tánh không thuần, lúc còn lúc mất, khi niệm Phật lờ mờ, tâm có khi trụ có khi không trụ, không dùng hết sức mình, do đó không được cảm ứng.
2. Tâm tánh chẳng chuyên nhất, không quyết định. Niệm Phật không có tâm quyết định cũng chẳng được cảm ứng.
3. Tâm tánh chẳng tiếp nối. Khi niệm Phật chẳng thể tiếp nối, niệm Phật giây lát, giây lát lại làm việc khác, cũng không được cảm ứng.
Ba điều này lần lượt tạo nên, do tâm tánh chẳng thuần nên không có tâm quyết định, do tâm không quyết định nên tâm tánh chẳng tiếp nối. Ba việc này trái với Phật, do đó niệm Phật chẳng được cảm ứng.
Trích dẫn “Phật đường giảng thoại” của Đại sư Đạo Nguyên
Niệm Phật cần phải chân thật mà niệm, mới có được công phu, mới có hy vọng chứng được nhất tâm không loạn. Như đã chứng được nhất tâm không loạn thì sự vượt thoát sinh tử chắc chắn thành tựu. Nếu chưa được vậy, cần phải mạnh mẽ tinh tấn để cầu chứng đắc. Cho nên, niệm Phật nhất định phải niệm một cách chân thật, phải niệm câu Phật hiệu từng chữ rõ ràng, đồng thời trong lòng mình quán tưởng rõ ràng, nơi tai cũng nghe rành rẽ rõ ràng, đó chính là niệm một cách chân thật. Câu Phật hiệu thứ nhất niệm được tốt, lại chân thật niệm câu thứ hai, câu thứ ba, cho đến vô số câu. Mỗi câu Phật hiệu đều phải từ trong tâm thành kính nhất, khẩn thiết nhất mà niệm ra, như thế mới xem là chân thật, mới coi là dụng công, mới có hy vọng vượt thoát sinh tử.
Niệm Phật thường ngày phải liên tục.
Thứ nhất: Ban đầu đừng tham nhiều, chỉ mong liên tục. Mỗi ngày niệm Phật đều có số mục nhất định, như thế Cư sĩ tại gia mới không đến nỗi do việc bận rộn quên niệm Phật. Việc này phải tùy vào hoàn cảnh của từng người, mỗi ngày niệm mấy ngàn câu, niệm mấy vạn câu đều tốt. Nhưng mỗi ngày ít nhất phải niệm mười niệm, nếu không chẳng thể vãng sinh. Còn như tiếng niệm Phật, hoặc niệm lớn tiếng, hoặc niệm nhỏ tiếng, hoặc niệm thầm, niệm Phật ở nhà tốt nhất là niệm thầm để khỏi phải
khiến người khác phiền não.
Thứ hai: Dần dần thêm nhiều để mong tiến thêm. Mỗi ngày mười niệm giữ không gián đoạn, đó chính là công phu, nhưng không thể cho là đủ, vẫn phải cố gắng hết sức mình dần dần niệm tăng thêm. Bởi vì chúng ta niệm Phật là vì vượt thoát sinh tử, cần phải hết lòng hết sức để mong tiến thêm. Ở trước nói, sáng sớm mỗi ngày niệm mười niệm, bây giờ lại thêm buổi tối mỗi ngày niệm mười niệm. Buổi tối niệm Phật tốt nhất là trước khi ngủ, niệm Phật xong rồi ngủ, có thể giấc ngủ được an lành không có ác mộng. Như thế, sáng tối mười niệm, có thể không gián đoạn, lại tiến thêm một bước là phải dùng chuỗi sáng tối đều niệm một trăm lẻ tám câu, lại tiến thêm một bước nữa lấy một trăm lẻ tám câu xem là một trăm câu, buổi sáng niệm ba trăm, tối niệm ba trăm, thêm lên buổi sáng niệm năm trăm, tối niệm năm trăm, thêm nữa sáng niệm một ngàn, tối niệm một ngàn. Nếu thời gian không thể phân phối thì ngủ trễ một giờ, dậy sớm một giờ, vẫn không ảnh hưởng sức khỏe. Còn như khi đi đường, lúc ngồi xe, khi nghỉ ngơi, lúc tản bộ, đều phải niệm Phật không cần nhớ số. Nếu có nhiều thời gian rảnh, vẫn cần phải tăng thêm số câu niệm Phật, mỗi ngày thêm đến ba ngàn câu, năm ngàn, một muôn, ba muôn, mười muôn.
Phương pháp niệm Phật:
1. Phải ngồi mà niệm. Tuy đi đứng nằm ngồi đều có thể niệm Phật, nhưng ngồi là thích hợp nhất.
2. Phải dùng chuỗi nhẹ, để lần được nhanh.
3. Phải niệm bốn chữ A-di-đà Phật, không niệm sáu chữ. Bởi niệm sáu chữ một muôn câu, nếu rút ngắn niệm bốn chữ, có thể lên đến một muôn năm ngàn câu.
4. Phải niệm theo lối kim cang trì, nghĩa là chỉ sẽ động môi mà thôi. Niệm lớn tiếng hay niệm nhỏ đều được, nếu muốn nhanh muốn nhiều, chỉ có phương pháp niệm kim cang trì là thích nghi nhất.
Thứ ba: Không cần tham nhiều nên cầu tinh thuần. Chúng ta phải biết niệm Phật là dụng công, chẳng phải tính số. Quả như niệm thật nhiều mà lại tinh thuần thì rất tốt, nếu chỉ tham nhiều mà chẳng cầu tinh thuần thì cũng là sai lầm. Thử nghĩ miệng niệm Phật, tay lần chuỗi, trong lòng lại nghĩ lăng xăng, dù cho mỗi ngày niệm mười muôn câu Phật, có thể xem là dụng công chăng? Cho nên nói, chẳng cần tham nhiều chỉ cầu tinh thuần. Mỗi một câu Phật hiệu đều phải niệm rành rẽ rõ ràng, bên trong phải niệm đến tự tâm, bên ngoài phải niệm đến cõi Cực Lạc. Một câu niệm như thế, trăm câu niệm như thế, ngàn câu muôn câu cũng niệm như thế, tự nhiên sẽ niệm thành nhất tâm không loạn, tự tâm cảm thông với Phật Di-đà không mảy may chướng ngại, chỉ ở nơi sự tinh tấn của mỗi người mà thôi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét