NIỆM PHẬT CHỈ NAM
Phần 2
Trích dẫn “Linh Phong tưng luận” của Đại sư Ngẫu Ích
Niệm Phật cầu sinh Tịnh độ là một pháp môn thâu nhiếp trọn vẹn trăm ngàn pháp môn, chẳng phải nêu một mà phế bỏ tất cả. Chỉ cần vào sâu một môn, lấy niệm Phật làm chánh hạnh, tất cả giới định tuệ làm trợ hạnh. Chánh, trợ cùng thực hành như thuyền thuận gió, lại thêm đôi chèo tốt, dây thừng to thì mau chóng đến bờ. Pháp niệm Phật tuy nhiều, Trì danh là giản tiện nhất; pháp Trì danh cũng nhiều, nhớ số là ổn thỏa nhất. Người chân thật tu trì, đâu mong cầu khác lạ với hàng ngu phu ngu phụ!
Ra khỏi nhà lửa ba cõi, có hai con đường ngang và dọc. Dùng tự lực đoạn hoặc vượt thoát sinh tử, gọi là ra khỏi ba cõi theo chiều dọc, đó là việc khó, phải dần dần mới thành công. Nhờ Phật lực tiếp dẫn vãng sinh Tây Phương, gọi là ra khỏi ba cõi theo chiều ngang, đó là việc dễ, lại nhanh chóng thành công. Tổ Huệ Viễn nói: “Thành công cao, dễ tiến tu; niệm Phật là bậc nhất”. Kinh Đại Tập nói: “Thời mạt pháp, ức ức người tu hành, hiếm có ai thành đạo, chỉ nương nơi pháp môn niệm Phật mà được giải thoát”, ví như thuyền vượt qua biển chẳng nhọc công sức. Người có thể tin tưởng lối tắt Tây Phương, chí thành phát nguyện, nhất tâm niệm Phật cầu vãng sinh là bậc đại trượng phu chân chánh. Nếu lòng tin không chân thật, phát nguyện không khẩn thiết, thực hành không gắng sức, Phật dù có đại từ bi làm thuyền, nhưng nếu chúng sinh chẳng chịu lên thuyền, cũng không làm sao được!
Muốn nhanh chóng thoát khỏi nỗi khổ luân hồi, không gì bằng trì danh niệm Phật cầu sinh về thế giới Cực Lạc. Muốn chắc chắn vãng sinh cõi Cực Lạc, không gì bằng lấy lòng tin làm người dẫn đường phía trước, sự phát nguyện làm người thúc đẩy ở sau. Tin sâu, nguyện tha thiết, dù tâm tán loạn niệm Phật cũng được vãng sinh. Tin không chân thật, nguyện không mạnh mẽ, dù nhất tâm không loạn cũng chẳng được vãng sinh.
Sao gọi là tin?
1. Tin nguyện lực của Phật A-di-đà.
2. Tin lời dạy của Phật Thích-ca.
3. Tin lời khen ngợi của chư Phật trong sáu phương. Không tin những điều ấy, thật không thể cứu độ. Cho nên, trước phải tin sâu đừng sinh khởi nghi hoặc.
Sao gọi là nguyện?
Lúc nào cũng chán nản nỗi khổ sinh tử nơi Ta-bà, ưa thích niềm vui giác ngộ nơi Tịnh độ. Có làm việc gì, hoặc thiện hoặc ác, thiện thì hồi hướng cầu vãng sinh, ác thì sám hối nguyện cầu vãng sinh, hoàn toàn không có hai chí hướng. Đó là nguyện.
Tín–Nguyện đã đầy đủ thì niệm Phật mới là chánh hạnh, sửa ác làm lành đều là trợ hạnh. Tùy công phu sâu cạn phân ra chín phẩm bốn cõi, chẳng lạm mảy may, chỉ cần chính mình kiểm xét, chẳng cần hỏi han kẻ khác.
Người tin sâu, nguyện thiết, niệm Phật, nhưng khi niệm Phật tâm nhiều tán loạn, chỉ được sinh về Hạ phẩm Hạ sinh. Tâm loạn dần ít, được sinh về Hạ phẩm Trung sinh. Không còn tán loạn, được sinh về Hạ phẩm Thượng sinh.
Niệm đến Sự nhất tâm không loạn, chẳng khởi tham sân si, được sinh về ba phẩm Trung. Niệm đến Sự nhất tâm không loạn, tự nhiên trước đoạn kiến tư trần sa hoặc, cũng có thể hàng phục và đoạn trừ vô minh, được sinh về ba phẩm Thượng.
Thế nên, Tín–Nguyện–Trì danh niệm Phật có thể trải qua chín phẩm, xác thật không sai lầm.
Hơn nữa, người Tín–Nguyện–Trì danh tiêu trừ hàng phục nghiệp chướng, còn lậu hoặc được vãng sinh thì ở cõi Phàm Thánh Đồng Cư.
Đoạn sạch kiến tư hoặc mà vãng sinh thì ở cõi Phương Tiện Hữu Dư.
Phá tan một phần vô minh mà vãng sinh thì ở cõi Thật Báo Trang Nghiêm.
Trì niệm đến chỗ cứu cánh, đoạn sạch vô minh mà vãng sinh thì ở cõi Thường Tịch Quang.
Thế nên, Trì danh có thể làm thanh tịnh bốn cõi, cũng là điều xác thực không sai lầm.
Hỏi: Làm sao Trì danh có thể đoạn trừ vô minh?
Đáp: Danh hiệu Phật được trì, không luận là ngộ cùng chẳng ngộ, đều là Nhất cảnh Tam đế . Tâm niệm hay trì, không luận là thông đạt hay không thông đạt, đều là Nhất tâm Tam quán . Chỉ vì chúng sinh vọng tưởng chấp trước, tình kiến phân biệt, cho nên không khế hợp chỗ chân thường viên mãn. Đâu biết rằng, tâm hay trì niệm tức là Thỉ giác, danh hiệu Phật được niệm tức là Bản giác . Nay ngay đó trì niệm, ngoài sự trì niệm không có Phật, ngoài Phật không có sự trì niệm, năng sở không hai, thì Thỉ giác hợp với Bản giác, gọi là Cứu cánh giác .
Pháp môn niệm Phật không có gì kỳ đặc, chỉ cần tin sâu, giữ chặt, ngay đó niệm đi! Một ngày đêm niệm đến mười vạn, năm vạn, ba vạn câu làm chuẩn, nhất định không thiếu. Trong một ngày niệm ra tiếng một cây hương, niệm thầm một cây hương, xoay vần không gián đoạn, phải lấy nhất tâm không loạn làm kỳ hạn, cho đến hết đời này thề không thay đổi. Như thế, nếu không được vãng sinh thì chư Phật ba đời đã nói dối. Một khi đã được vãng sinh vĩnh viễn không bao giờ thối lui, tất cả các pháp môn đều được hiện tiền. Rất kỵ hôm nay thế này, ngày mai thế khác. Chẳng hạn như gặp người theo giáo môn thì nghĩ đến việc tầm chương, trích cú; gặp người tu thiền lại muốn tham cứu hỏi đáp; gặp người trì luật thì nghĩ đến việc đắp y, ôm bát. Như thế, nơi nơi đều không rõ, việc việc cũng chẳng hay. Ông đâu biết rằng: “Niệm Phật A-di-đà đã thành thục, giáo lý cùng tột của ba tạng, mười hai phần giáo đều ở trong đó; một ngàn bảy trăm tắc công án, nghĩa thiền cùng tột cũng ở trong đó; ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, ba tụ tịnh giới, cũng ở trong đó. Người chân thật niệm Phật: thân tâm, thế giới đều buông bỏ, đó là đại bố thí; không khởi tham, sân, si, đó là đại trì giới; không chấp thị phi, nhân ngã, đó là đại nhẫn nhục; không còn một chút gián đoạn, xen tạp, đó là đại tinh tấn; không còn rong ruổi theo vọng tưởng, đó là đại thiền định; không bị lối tẻ khác mê hoặc, đó là đại trí tuệ”.
Hãy tự kiểm điểm xem, nếu thân tâm thế giới chưa chịu buông bỏ, niệm tham sân si vẫn còn dấy lên, thị phi nhân ngã còn ôm giữ, gián đoạn xen tạp còn chưa trừ, vọng tưởng còn rong ruổi chưa dứt, những lối tẻ khác còn có thể mê hoặc tâm trí, thì biết chẳng phải là chân thật niệm Phật. Muốn đạt tới cảnh giới nhất tâm không loạn, đầu tiên khi hạ thủ công phu, cần phải dùng tràng hạt, niệm niệm ghi nhớ rõ ràng, ấn định thời khóa nhất định không được thiếu, lâu ngày thuần thục, không niệm cũng tự niệm, sau đó nhớ cũng được, không nhớ cũng được. Nếu bước đầu vội muốn lộ vẻ mình hay giỏi, muốn tỏ ra không trước tướng, muốn học lối viên dung tự tại, rốt cuộc niệm lực khó thành. Đây nói chung bởi tin chưa sâu, thực hành chưa hết sức, dù cho ông có là người giảng rộng mười hai phần giáo, hay trình bày được một nghìn bảy trăm chuyển ngữ cũng chỉ là việc làm bên bờ sinh tử. Đến lúc lâm chung, những thứ đó nhất định không dùng được! Trân trọng!
Trích dẫn “Tịnh độ ngữ cảnh” của Đại sư Hành Sách
Niệm Phật phải đầy đủ lòng tin chân thật.
Thứ nhất: Phải tin Tâm, Phật và chúng sinh, cả ba không khác biệt. Ta là Phật chưa thành, Di-đà là Phật đã thành. Tánh giác không hai. Ta tuy điên đảo mê lầm, tánh giác chưa từng mất; ta tuy nhiều kiếp luân chuyển, tánh giác chưa từng động. Nên nói: “Đừng xem thường người chưa ngộ, một niệm soi lại liền đồng với bản đắc”.
Thứ hai: Phải tin ta là Phật lý tánh, Phật danh tự; Di-đà là Phật cứu cánh. Tánh tuy không hai nhưng ngôi vị cách xa như trời với vực. Nếu không chuyên niệm đức Phật ấy, cầu sinh về cõi Tịnh, ắt phải theo nghiệp lưu chuyển chịu khổ vô cùng! Đây gọi là Pháp thân lưu chuyển trong năm đường, chẳng gọi là Phật mà gọi là chúng sinh.
Thứ ba: Phải tin ta dù nghiệp sâu chướng nặng, sống lâu nơi cảnh khổ, vẫn là chúng sinh trong tâm của Phật Di-đà. Phật Di-đà tuy muôn đức trang nghiêm ở xa ngoài mười muôn ức cõi, cũng là đức Phật trong tâm chúng ta. Đã là tâm tánh không hai, tự nhiên đạo cảm ứng qua lại. Sự thiết tha của ta ắt có thể cảm, lòng từ bi của Phật ắt có thể ứng, như đá nam châm hút sắt, việc này không thể nghi ngờ.
Đủ lòng tin chân thật như trên, dù chút phước lành như hạt bụi mảy lông, đều có thể hồi hướng Tây Phương trang nghiêm Tịnh độ. Huống chi trì trai, giữ giới, bố thí, phóng sinh, đọc tụng kinh điển Đại thừa, cúng dường Tam Bảo, tu các hạnh lành, lẽ nào không đủ làm tư lương Tịnh độ sao? Chỉ e lòng tin không chân thành, mới khiến đắm chìm nơi hữu lậu. Cho nên, trong việc tu hành hiện nay không có yếu thuật gì khác, chỉ trong 24 giờ củng cố thêm ba niềm tin chân thật này thì tất cả sự thực hành không phiền phải sửa đổi.
Nếu như sự nghiệp ở cõi Ta-bà nơi nơi ràng buộc trong lòng, còn đối với việc niệm Phật tâm không chuyên nhất một nóng mười lạnh, khi gặp cảnh ngũ dục dính chặt như keo sơn, lúc gặp nghịch cảnh thì kết oán ôm hận. Đến khi sắp mạng chung, nghiệp nào nặng theo đó mà đọa lạc. Tịnh nhân yếu kém khó thoát nỗi khổ luân hồi, chỉ vì không buông bỏ được chỗ quý trọng mà thôi. Nên xét nghĩ thống thiết về sự hiểm ác của Ta-bà, sớm mong cầu ra khỏi quanh quẩn trong sáu đường, tiêu dao nơi chín phẩm. Việc lợi và hại cách xa nhau như trời với vực, nên tỉnh giác mạnh mẽ! Phải phát sinh lòng rất chán nản Ta-bà mà ưa thích miền Cực Lạc, bỏ uế lấy tịnh. Tin sự lấy bỏ này cùng không lấy bỏ vốn chẳng khác nhau. Đừng đuổi tìm hư danh, đừng chấp vào cái thấy không, đừng ham cao siêu huyền diệu, mà bị chánh định trên đầu môi của thiền giả làm mê lầm rối loạn. Chớ mong cầu hiệu nghiệm nhanh chóng trong một sớm một chiều, vọng tưởng trông mong ngoài tâm có Phật đến đón rước, như vậy dễ dẫn đến các việc ma. Thường lấy việc niệm Phật làm chánh hạnh, dùng sự cố gắng tu các điều lành làm trợ hạnh. Lại đối với tập khí tham sân tận lực lau chùi mài dũa, khiến cho chỗ nặng nề được trở nên nhẹ nhàng, chỗ chưa thuần thục dần dần thuần thục, Tịnh niệm tiếp nối, nguyện hạnh trợ nhau, tự nhiên hoàn toàn ổn thỏa.
Nay kính khuyên các bạn nên đủ nguyện chân thật, phát tâm chán nản và ưa thích, xem ba cõi như tù ngục, xem nhà lửa như xiềng xích, xem thinh sắc như thuốc độc, xem danh lợi như gông cùm, xem sự cùng đường và thông thoát trong mấy mươi năm in như giấc mộng hôm qua, xem cuộc sống trong Ta-bà như ở nơi quán trọ, tin rằng qua đêm rồi sẽ bỏ đi. Chỉ lấy việc về nhà làm cốt yếu, vừa lòng cũng được, không vừa lòng cũng được, dành được thời gian nhất tâm niệm Phật. Nếu được như thế mà không vãng sinh Tịnh độ thì chư Phật đều thành những người nói dối. Mong rằng chúng ta cùng nhau cố gắng!
Bảy ngày trì danh quý ở nơi nhất tâm không loạn, không gián đoạn, không xen tạp. Không phải niệm mau niệm nhiều là hay, chỉ cần không hưỡn không gấp, thầm thầm trì danh, khiến cho câu Phật hiệu rành rõ nơi tâm. Khi đi đứng nằm ngồi, ăn cơm mặc áo, một câu Hồng danh liên tục chẳng dứt, không tán loạn hôn trầm, dường như hơi thở. Trì danh như thế gọi là Nhất tâm tinh tấn về phần Sự.
Thời nay, người tu Tịnh nghiệp trọn ngày niệm Phật, sám hối phát nguyện mà Tây Phương còn xa vời, không bảo đảm vãng sinh. Không có lý do gì khác bởi cọc ái chưa nhổ, sợi dây tình còn buộc chặt. Nếu có thể xem sự ân ái nơi Ta-bà giống như nhai sáp, chẳng quan tâm tới bận rảnh, động tĩnh, khổ vui, mừng lo, chỉ dựa vào một câu Phật hiệu vững chắc như núi Tu-di, tất cả cảnh duyên không thể làm dao động. Hoặc có khi tự cảm thấy lười mỏi, tập khí hiện ra, liền phấn khởi một niệm như Ỷ thiên trường kiếm, khiến cho phiền não ma quân không nơi trốn tránh, cũng như lò lửa hừng hực khiến cho tình thức từ vô thỉ tan chảy hoàn toàn. Người này tuy đang ở cõi đời ngũ trược mà toàn thân đã ngồi trong thế giới Liên Hoa, đâu phải đợi Di-đà nắm tay, Quán Âm nghinh đón mới tin mình vãng sinh!
Trích dẫn “Pháp ngữ” của Đại sư Tĩnh Am Thư gửi cư sĩ Mao Tĩnh Viễn
Cư sĩ đã hoàn tất việc xây cầu, có thể nói công đức ấy rất lớn. Cư sĩ làm việc thiện không biết mỏi mệt. Việc thiện này vừa làm xong liền muốn làm việc thiện khác. Tốt thì tốt đấy! Nhưng việc lớn sinh tử thì thế nào? Nếu không coi việc lớn sinh tử là gấp, mà cứ mải mê làm việc thiện, thì dẫu có làm việc thiện lớn như núi Tu-di đi nữa, cũng đều là nghiệp duyên sinh tử mà thôi, biết đến ngày nào mới xong? Việc thiện càng nhiều, sinh tử càng lớn; một niệm tâm ái khởi lên muôn kiếp bị trói buộc. Ông há không sợ sao?
Công án thế gian, Cư sĩ đã thấu triệt từ lâu. Tây Phương Tịnh nghiệp cũng đã tu tập, nhưng tâm vì sinh tử thì không tha thiết, gia duyên không lìa bỏ, tình trần không vứt đi, tâm niệm Phật không chuyên nhất. Vì sao? Vì gốc danh lợi chưa đoạn trừ ư? Niệm ân ái còn trói buộc ư? Cần nên xem xét kỹ hai việc này. Nếu không dùng một dao chặt đứt tất cả gia duyên thế sự, dốc sức đề khởi sáu chữ Hồng danh mà muốn thoát khỏi Ta-bà, sinh về An Dưỡng thì rất khó. Không sinh về cõi An Dưỡng mà muốn giải thoát sinh tử đã là rất khó, không giải thoát sinh tử mà muốn khỏi đọa lạc, lại càng khó hơn! Dù cho một đời, hai đời không mất thân người cũng chẳng làm nên được việc gì. Than ôi! Cư sĩ tuệ tâm thông minh lanh lợi như thế, gia duyên sung túc như thế, con cháu hiền tài như thế, việc gì cũng vừa ý, sao còn không buông bỏ hết các duyên, nhất tâm niệm Phật? Là trời phụ người hay người cô phụ trời? Không lấy việc niệm Phật làm gấp lại lấy việc thiện nhỏ thế gian làm gấp; không lấy việc lớn sinh tử làm đầu mà lấy phước báo nhân thiên làm đầu. Đó là không biết trước sau vậy! Cư sĩ tuy không cầu phước mà thường làm phước, tuy muốn ra khỏi sinh tử mà lại vào trong sinh tử, đều do không biết việc này thư thả, việc kia là cấp bách, nên mới dẫn đến việc làm trái ngược, lùi bước mà muốn tiến lên phía trước. Việc cần thiết của Cư sĩ trong lúc này là chỉ nên buông bỏ hết mọi việc đời, nhất tâm niệm Phật, lại thêm giữ gìn trai giới là tốt nhất.
Tóm lại, cõi Phật phương Tây chẳng phải do lăng xăng làm những việc thiện mà có thể đến được, vạn kiếp sinh tử chẳng phải do sự dần dà, biếng nhác mà có thể thoát được. Vô thường qua mau, sớm tối liền đến, sao không sớm lo liệu giải quyết mau đi!
Trích dẫn “Ngũ lục” của Đại sư Triết Ngộ
Tất cả pháp môn lấy việc minh tâm làm thiết yếu, tất cả hạnh môn lấy việc tịnh tâm làm thiết yếu. Song mà, cốt yếu của chỗ minh tâm không gì bằng niệm Phật. “Nhớ Phật, niệm Phật, hiện tiền tương lai nhất định thấy Phật. Chẳng nhờ phương tiện tự được tâm khai ngộ”. Niệm Phật như thế chẳng phải là chỗ cốt yếu của sự minh tâm sao?
Hơn nữa, chỗ cốt yếu của việc tịnh tâm cũng không gì bằng niệm Phật. Một niệm tương ưng, một niệm là Phật; mỗi niệm tương ưng, mỗi niệm là Phật. Thanh châu gieo vào nước đục, nước đục không thể không trong; Phật hiệu gieo vào tâm loạn, tâm loạn không thể không thành Phật. Niệm Phật như thế chẳng phải cốt yếu của tịnh tâm sao?
Một câu Phật hiệu đều thâu nhiếp chỗ cốt yếu của hai môn ngộ và tu. Nói về ngộ thì tín ở trong ấy, nói về tu thì chứng ở trong ấy. Tin hiểu, tu chứng đều thâu nhiếp; chỗ cốt yếu của Đại thừa, Tiểu thừa và tất cả các kinh điển đều bao hàm trọn vẹn. Vậy thì một câu A-di-đà chẳng phải là đạo chí yếu sao?
Một tâm niệm hiện giờ của chúng ta hoàn toàn chân mà thành vọng, hoàn toàn vọng mà tức là chân, trọn ngày bất biến, trọn ngày tùy duyên. Hễ không theo duyên pháp giới Phật mà niệm Phật thì niệm chín pháp giới kia. Không niệm Tam thừa thì niệm Lục phàm; không niệm người trời thì niệm Tam đồ; không niệm ngạ quỷ, súc sinh thì niệm địa ngục. Bởi vì, hễ còn nơi hữu tâm thì không thể vô niệm. Tâm thể vô niệm chỉ riêng Phật chứng ngộ, từ Đẳng Giác trở xuống đều là còn niệm. Nếu khởi một niệm tất rơi vào mười pháp giới, không có niệm nào ra ngoài mười pháp giới. Vì mười pháp giới bao hàm tất cả, mỗi khi khởi một niệm là một duyên để thọ sinh. Nếu người biết lý này mà không niệm Phật thì chưa có điều đó.
1. Nếu tâm này có thể tương ưng với bình đẳng, đại từ, đại bi, công đức của y báo chánh báo và Vạn đức Hồng danh tức là niệm pháp giới Phật.
2. Nếu tâm này có thể tương ưng với tâm Bồ-đề, Lục độ Vạn hạnh, tức là niệm pháp giới Bồ-tát.
3. Dùng tâm vô ngã tương ưng với mười hai nhân duyên, tức là niệm pháp giới Duyên giác.
4. Dùng tâm vô ngã quán sát Tứ đế, tức là niệm pháp giới Thanh văn.
5. Hoặc tương ưng với Tứ thiền, Bát định và Thượng phẩm Thập thiện, tức là niệm pháp giới Trời.
6. Nếu tương ưng với ngũ giới, tức là niệm pháp giới Người.
7. Nếu tu các pháp giữ giới làm lành mà còn tâm sân hận, kiêu mạn, hơn thua, tức là rơi vào pháp giới A-tu-la.
8. Nếu dùng tâm chậm yếu niệm Hạ phẩm thập ác, tức là rơi vào pháp giới Súc sinh.
9. Hoặc dùng tâm vừa hưỡn vừa gấp tương ưng với Trung phẩm thập ác, thì rơi vào pháp giới Ngạ quỷ.
10. Nếu dùng tâm mãnh liệt tương ưng với Thượng phẩm thập ác, tức là rơi vào pháp giới Địa ngục.
Thập ác là sát sinh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, nói thêu dệt, nói lời ác, nói hai lưỡi, tham, sân, tà kiến. Ngược lại những điều này tức là Thập thiện. Nên thầm tự kiểm điểm những ý niệm sinh khởi hằng ngày, xem coi tương ưng với pháp giới nào nhiều. Nếu tương ưng với pháp giới nào mạnh, chỗ an thân lập mạng sau này không cần phải nhọc hỏi người khác nữa.
Một niệm hiện giờ của chúng ta duyên sinh không tánh, không tánh duyên sinh, chẳng sinh pháp giới Phật thì sinh chín pháp giới kia. Nếu ước về duyên sinh không tánh thì chúng sinh và chư Phật bình đẳng một tánh không. Ước về không tánh duyên sinh, thì mười pháp giới hơn kém cách xa.
Vua A-xà-thế lúc lâm chung, do người đuổi ruồi lấy phất trần phất qua mặt. Ông khởi một niệm sân hận liền đọa làm rắn độc.
Một người phụ nữ qua sông xảy tay, làm đứa con rơi xuống nước. Vì mò tìm con nên bị chết chìm, bởi lòng từ mà được sinh lên cõi trời.
Ôi! Một niệm từ bi và sân hận, bèn phân ra cõi trời và súc sinh. Thế thì một niệm duyên sinh lúc lâm chung, có thể không cẩn thận được sao? Nếu dùng tâm này, duyên niệm Phật A-di-đà cầu sinh Tịnh độ sẽ thấy Phật, được vãng sinh. Nhưng một niệm này không thể cầu may mà được, cần phải giữ gìn chân thật thường ngày thuần thục. Thế nên, chúng ta niệm ngàn muôn lần một câu A-di-đà này, cho đến niệm trọn ngày trọn năm, đều là để làm thuần thục một niệm này mà thôi. Nếu được một niệm thuần thục, thì khi lâm chung chỉ có một niệm này không còn niệm nào khác. Đại sư Trí Giả nói: “Khi lâm chung, tâm ở nơi định là tâm thọ sinh Tịnh độ”. Chỉ có một niệm này, không còn niệm nào khác, như vậy chẳng phải là tâm ở nơi định hay sao? Nếu niệm được như thế mà không thấy Di-đà thì còn thấy ai? Chẳng sinh về Tịnh độ thì còn sinh về nơi nào? Chỉ e chúng ta tự tin không nổi thôi.
“Thật vì sinh tử, phát tâm Bồ-đề.
Lấy Tín–Nguyện sâu, trì danh hiệu Phật”.
Mười sáu chữ này là toàn bộ cương lĩnh của pháp môn niệm Phật. Nếu tâm “thật vì sinh tử” không phát khởi thì tất cả lời khai thị đều trở thành luận bàn vô ích.
Tất cả nỗi thống khổ ở thế gian không gì hơn sinh tử. Chẳng thoát khỏi sinh tử, thì sinh tử tử sinh, sinh sinh tử tử, ra khỏi một bào thai lại vào một bào thai, bỏ một đãy da lại lấy một đãy da, khổ đã chẳng kham, huống chi luân hồi chưa ra khỏi, khó tránh đọa lạc. Một niệm sai lầm liền vào nẻo ác, ba đường dễ vào khó ra, địa ngục trường kỳ thống khổ. Vừa nghĩ đến điều này trong lòng như lửa đốt. Thế nên, hiện nay xét nghĩ thống thiết về sinh tử như an táng mẹ cha, như cứu lửa cháy đầu.
Song mà, ta có sinh tử, ta mong cầu ra khỏi, mà tất cả chúng sinh đều ở trong sinh tử cũng nên ra khỏi. Họ với ta vốn đồng một thể, đều là cha mẹ nhiều đời, là chư Phật vị lai. Nếu chẳng nghĩ suy độ khắp, chỉ mong cầu lợi ích riêng mình, đối với lý có điều thiếu sót, nơi lòng có chỗ chưa an. Huống nữa, nếu không phát tâm rộng lớn thì ở ngoài không thể cảm thông với chư Phật, bên trong không thể khế hợp bản tâm; bên trên không thể thành Phật đạo trọn vẹn, ở dưới không thể lợi ích chúng sinh rộng lớn. Ân ái từ vô thỉ làm sao giải thoát, oán hờn lầm lỗi bao đời làm sao cởi mở, tội nghiệp nhiều kiếp khó thể sám trừ, căn lành bao đời khó thể thành thục. Tùy sự tu hành, vướng nhiều chướng duyên, dù có được thành tựu cuối cùng cũng rơi vào nơi nhỏ hẹp nghiên lệch.
Thế nên, phải xứng với bản tánh phát tâm Đại Bồ-đề. Tâm rộng lớn đã phát nên tu hạnh rộng lớn. Nhưng trong tất cả hạnh môn, thì môn thực hành dễ nhất, thành tựu dễ nhất, ổn thỏa hoàn toàn, viên đốn cùng tột, thì không gì bằng “lấy Tín–Nguyện sâu, trì danh hiệu Phật”.
Bảo rằng tin sâu nghĩa là: Phạm âm của Thích-ca Như Lai quyết không lừa dối, tâm đại từ bi của Thế Tôn Di-đà quyết chẳng nguyện suông. Hơn nữa, lấy nhân niệm Phật cầu vãng sinh, tất cảm quả thấy Phật vãng sinh, như trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu; vang thì ứng tiếng, bóng ắt theo hình.
Nếu nhân đã chân thì quả sẽ thật. Điều ấy có thể không đợi hỏi Phật cũng tự tin được. Huống chi, một niệm tâm tánh hiện giờ của chúng ta, trọn ngày tùy duyên, trọn ngày bất biến, dọc ngang cùng khắp. Ngay nơi thể không gì ở ngoài, Di-đà Tịnh độ đều ở trong đây. Đem tâm Phật của ta, niệm Phật nơi tâm của ta. Lẽ nào Phật nơi tâm của ta chẳng ứng với tâm Phật của ta hay sao?
Truyện vãng sinh ghi chép tướng lành lúc lâm chung hàng hàng lớp lớp, lẽ nào lại lừa gạt ta sao? Tin như thế rồi nguyện ưa thích thiết tha. Lấy niềm vui ở cõi kia, xem lại nỗi khổ nơi Ta-bà, tâm chán lìa sẽ sâu sắc như rời hầm phẩn, như ra lao ngục. Lấy nỗi khổ nơi Ta-bà trông về niềm vui Cực Lạc, tâm chán nản ưa thích tự nhiên khẩn thiết như về cố hương, như đến Bảo sở. Nói tóm lại, như khát nghĩ đến uống, như đói nghĩ đến ăn, như bệnh khổ nghĩ đến thuốc hay, như trẻ thơ nghĩ về từ mẫu, như tránh kẻ thù cầm dao bức bách, như rơi vào nước lửa cấp thiết cầu cứu vãn. Nếu có thể khẩn thiết như thế, tất cả cảnh duyên không thể dẫn dắt được.
Sau đó, lấy tâm Tín–Nguyện này chấp trì danh hiệu. Trì một tiếng là một hạt giống nơi chín phẩm, niệm một câu là một chánh nhân của sự vãng sinh. Cần phải tâm tâm tương tục, niệm niệm không khác, chỉ chuyên tâm, chỉ cần mẫn, không xen tạp, không gián đoạn, càng lâu dài càng bền chắc, càng trì niệm càng thiết tha. Trải qua lâu dài tự thành một khối vào nơi nhất tâm không loạn. Quả thật như thế, nếu không vãng sinh thì Thích-ca Như Lai là người nói dối, Thế Tôn Di-đà chỉ lập nguyện suông. Lẽ nào lại có việc ấy hay sao?
Hiện trạng sinh tử của chúng ta chỉ do hai thứ: tâm lực và nghiệp lực.
Tâm lực là tâm niệm có nhiều mối, khi lâm chung đi theo mối nặng nhất. Nghiệp lực cứ như người mang nợ, chủ nợ mạnh lôi kéo trước tiên. Nghiệp lực tuy lớn, nhưng tâm lực lại càng lớn hơn. Bởi nghiệp không tự tánh, hoàn toàn nương nơi tâm.
Tâm hay tạo nghiệp, tâm hay chuyển nghiệp, nên khi tâm chú trọng thì làm cho nghiệp thêm mạnh, mới hay dẫn dắt thọ sinh. Nếu ta dùng tâm chú trọng tu Tịnh nghiệp thì Tịnh nghiệp mạnh. Tâm chú trọng, nghiệp mạnh chỉ hướng tới Tây Phương, khi lâm chung quyết định sinh về Tây Phương, chẳng sinh vào nơi khác. Ví như cây to, tường cao bình thường nghiêng về phía Tây, ngày kia khi ngã đổ tất không về chỗ khác.
Thế nào là tâm chú trọng? Chúng ta tu tập Tịnh nghiệp, lòng tin quý ở nơi sâu, chí nguyện quý ở nơi tha thiết. Do tin sâu, nguyện tha thiết, nên tất cả tà thuyết không thể lay động mê hoặc, tất cả cảnh duyên không thể kéo lôi. Giả sử khi ta đang niệm Phật, bỗng Tổ Đạt-ma hiện ra bảo rằng: “Ta có pháp Thiền chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật. Ông hãy bỏ niệm Phật, ta sẽ trao cho ông pháp Thiền ấy!”. Lúc ấy, chỉ nên lễ bái Tổ sư mà thưa: “Trước kia con đã thọ giáo pháp môn niệm Phật của Thích-ca Như Lai, phát nguyện thọ trì trọn đời chẳng đổi. Tổ sư tuy có truyền đạo vi diệu, nhưng con không dám trái với thệ nguyện của chính mình!”. Dù Phật Thích-ca hiện thân bảo rằng: “Trước kia ta nói pháp môn niệm Phật chỉ là phương tiện nhất thời thôi. Nay có pháp môn thù thắng hơn cả pháp ấy, ông nên ngừng niệm Phật ta sẽ nói pháp thù thắng này ngay!”. Bấy giờ, chỉ nên cúi đầu bày tỏ với Phật: “Trước kia con tiếp nhận pháp môn Tịnh nghiệp của Thế Tôn, phát nguyện nếu còn một hơi thở quyết chẳng đổi thay. Như Lai tuy có pháp thù thắng, nhưng con không dám trái với bản nguyện của chính mình!”.
Dù Phật Tổ hiện thân còn chẳng thay đổi lòng tin, huống là thuyết giả dối của ma vương ngoại đạo, há đủ để dao động ta sao? Tin được như thế mới gọi là lòng tin sâu chắc.
Về phần nguyện, ví như có vòng sắt nóng đỏ xoay vần trên đầu, cũng không vì sự khổ ấy mà thối thất chí nguyện vãng sinh. Nếu như có cảnh dục lạc tuyệt vời của Chuyển Luân Vương hiện đến, cũng không vì sự vui sướng đó mà thối thất chí nguyện vãng sinh. Gặp những cảnh duyên thuận nghịch cùng cực như thế còn chẳng thay đổi chí nguyện, huống là cảnh thuận nghịch nhỏ nhặt ở thế gian, lẽ nào có thể lôi kéo được sao? Nguyện như thế, nguyện ấy mới đáng gọi là chí nguyện tha thiết.
Lòng tin sâu chắc, chí nguyện tha thiết gọi là tâm chú trọng. Dùng tâm này tu Tịnh nghiệp thì Tịnh nghiệp rất mạnh mẽ, do tâm chú trọng nên dễ thuần thục, do nghiệp mạnh mẽ nên dễ chín mùi. Khi Tịnh nghiệp Cực Lạc thành thục, duyên nhiễm Ta-bà phải hết. Nếu duyên nhiễm đã hết, thì lúc lâm chung dù có muốn cảnh luân hồi hiện ra cũng không được. Nếu Tịnh nghiệp đã thành thục, lúc lâm chung tuy muốn cảnh Tịnh độ và Phật A-di-đà chẳng hiện cũng không thể được. Nhưng Tín–Nguyện này lúc bình thời phải rèn luyện cho thuần thục, khi lâm chung mới khỏi lạc vào đường khác.
Biển cả Phật pháp nhờ lòng tin được vào. Một môn Tịnh độ, lòng tin càng thiết yếu.
Thuở xưa, Vương Trọng Hồi hỏi Dương Vô Vi:
- Niệm Phật thế nào để được không gián đoạn?
Dương Vô Vi đáp:
- Sau khi đã tin không còn nghi nữa.
Vương Trọng Hồi vui vẻ rồi đi. Không bao lâu, Dương Vô Vi chiêm bao thấy Vương Trọng Hồi cảm tạ rằng:
- Nhờ sự chỉ bảo của ông tôi được lợi ích lớn, nay đã sinh về Tịnh độ rồi!
Một là: Thật vì sinh tử, phát tâm Bồ-đề, đó là con đường chung của người học đạo.
Hai là: Lấy Tín–Nguyện sâu, trì danh hiệu Phật làm chánh tông của Tịnh độ.
Ba là: Dùng sự nhiếp tâm chuyên chú mà niệm, làm phương tiện tu hành.
Bốn là: Lấy sự nhiếp phục phiền não hiện hành, làm việc chính của sự tu tâm.
Năm là: Lấy sự giữ vững bốn giới trọng làm căn bản vào đạo.
Sáu là: Lấy mọi thứ khổ hạnh làm trợ duyên tiến đạo.
Bảy là: Lấy nhất tâm không loạn làm chỗ trở về của Tịnh hạnh.
Tám là: Lấy những điềm lành làm chứng nghiệm vãng sinh.
Tám việc này đều nên giảng nói tận tường. Người tu Tịnh nghiệp không thể không biết.
Chấp trì danh hiệu là chăm chăm giữ lấy, gìn chặt trong lòng không tạm thời quên lãng. Nếu vừa có một niệm gián đoạn, hoặc xen tạp thì chẳng phải chấp trì. Mỗi niệm tiếp nối, không xen tạp, không gián đoạn, là tinh tấn thật sự. Tinh tấn không ngừng thì lần lần vào chỗ nhất tâm không loạn, thành tựu trọn vẹn Tịnh nghiệp. Nếu đến chỗ nhất tâm không loạn vẫn còn tinh tấn không ngừng, ắt sẽ khai mở trí tuệ, phát khởi biện tài, được thần thông, thành tựu Niệm Phật Tam-muội, cho đến mọi thứ tướng lành linh ứng lạ kỳ đều hiện tiền. Nhưng không thể đem lòng trông mong hiệu nghiệm, chỉ nên gắng sức nơi nhất tâm không loạn mà thôi.
Ngay khi niệm Phật, nên buông bỏ muôn duyên, chỉ chuyên nhất một niệm như cứu lửa cháy đầu, như an táng cha mẹ, như gà ấp trứng, như rồng dưỡng châu, không mong hiệu quả nhỏ bé, chẳng mong cầu mau chóng thành tựu, chỉ một lòng thường niệm như thế, đó gọi là môn Thiền thâm diệu vô thượng. Thế thì căn thân thế giới, mỗi niệm thầm chuyển biến theo tâm mình, tâm phàm mắt thịt chẳng thể thấy biết được. Đến lúc lâm chung, Phật A-di-đà cùng Thánh chúng bỗng hiện ra trước mắt, hoặc hiện hương lạ nhạc trời, các thứ tướng lành. Lúc ấy, người đời mới bảo rằng Tịnh ngiệp thành tựu, nhưng đâu phải lúc ấy mới thành tựu Tịnh nghiệp!
Niệm Phật nên phát sinh bốn thứ tâm:
1. Phát sinh tâm hổ thẹn, vì từ vô thỉ kiếp đến nay chúng ta đã tạo nhiều nghiệp chướng.
2. Phát sinh tâm vui thích, vì được nghe pháp môn này.
3. Phát tâm đau buồn, vì nghiệp chướng từ vô thỉ nên khó gặp được pháp này.
4. Phát tâm cảm kích, vì Phật từ bi như thế.
Nếu có được một trong bốn thứ tâm này, Tịnh nghiệp liền có thể thành tựu. Niệm Phật phải lâu dài, phải không gián đoạn, nếu gián đoạn Tịnh nghiệp sẽ không thành tựu. Niệm Phật lâu dài nhưng phải mạnh mẽ, không thể lười mỏi, nếu lười mỏi Tịnh nghiệp cũng không thể thành tựu. Lâu dài mà không mạnh mẽ thì sẽ thối lui; mạnh mẽ mà không lâu dài thì không tiến bộ.
Ngay khi niệm Phật, không thể có tư tưởng khác, không có tư tưởng khác tức là “Chỉ”. Ngay khi niệm Phật phải rõ ràng phân minh, hay rõ ràng phân minh tức là “Quán”. Trong một niệm Chỉ–Quán đầy đủ, chẳng phải có pháp Chỉ–Quán nào khác. Chỉ là nhân của định, định là quả của Chỉ. Quán là nhân của tuệ, tuệ là quả của Quán. Một niệm không sinh, rõ ràng phân minh là lặng lẽ mà sáng soi; rõ ràng phân minh, một niệm không sinh là sáng soi mà lặng lẽ. Người được như thế, Tịnh nghiệp nhất định thành tựu. Người thành tựu như thế đều là Thượng phẩm. Một người cho đến trăm ngàn muôn ức người, tu như thế đều thành tựu như thế.
Trích dẫn “Tịnh nghiệp tri ân” và “Niệm Phật bách vấn” của Đại sư Ngộ Khai
Mở mắt niệm Phật tâm dễ tán loạn, có thể nhắm mắt mà niệm. Ngay khi niệm Phật, buông bỏ tất cả để lòng rỗng không, rồi đề khởi danh hiệu Phật, vừa nghe vừa niệm, vừa niệm vừa nghe, nối nhau không dứt, hành trì lâu dần tất có lúc tương ưng. Chỉ cần mỗi chữ từ thâm tâm phát ra, mỗi câu tha thiết nhớ mong Tịnh độ. Có phương pháp buộc niệm là khi không niệm Phật đem tâm niệm mình nhớ nghĩ Phật A-di-đà. Tâm thường thanh tịnh không lay động, chính là chỗ dụng công đắc lực.
Hỏi: Tạp niệm từ đâu sinh?
Đáp: Con người chỉ có một tâm, tâm niệm Phật tức là nó, mà tâm tạp niệm cũng tức là nó. Chỉ nhân ta niệm Phật chưa tinh chuyên, nên niệm trần còn vơ vẩn thế thôi.
Hỏi: Làm sao trừ được tạp niệm kia?
Đáp: Chỉ cần tự phấn chấn tinh thần, đem tâm niệm hoàn toàn để trên Phật hiệu, tạp niệm liền mất.
Hỏi: Nhưng nếu tinh thần yếu kém suy mỏi, không thể khiến cho nó tiêu mất thì làm sao?
Đáp: Đạo lực chưa đủ nên tán loạn nhiều, phải cố thâu nhiếp sáu căn, lần lần sẽ được thanh tịnh. Đương lúc tạp niệm dấy khởi, đừng quan tâm đến nó, ta chỉ niệm Phật, mắt nhìn chăm chú tượng Phật, hoặc tâm chuyên chú nơi tượng Phật, tạp niệm sẽ tiêu. Nhưng lâu sau tạp niệm lại khởi, thậm chí ràng buộc không thể mở được. Không cần vội vàng, chỉ lóng lặng tâm tư, khiến sáu chữ Hồng danh mỗi mỗi từ nơi tâm phát khởi, thành tiếng nơi miệng, nghe rõ ràng nơi tai. Lại từ trong tâm niệm lưu xuất, xuyên xuốt xoay vần không để cho gián đoạn thì tạp niệm tự dứt. Còn có người độn căn không làm được, có thể đem sáu chữ Nam mô A-di-đà Phật, khi niệm ghi nhớ rành rẽ tiếng thứ nhất là “Nam”, tiếng thứ nhì là “Mô”, như thế đủ sáu chữ liên hoàn không dứt, thì tất cả tạp niệm không còn chỗ phát sinh.
Trích dẫn “48 pháp niệm Phật” của Đại sư Diệu Không
Pháp quán không dễ thành tựu, giới luật cũng chưa dễ giữ trọn, tu phước chẳng phải sớm chiều có thể thành công, sự diệu ngộ chẳng phải kẻ độn căn có thể làm được, còn đại nguyện bền chắc lại càng ít có người. Nếu không do nơi chỗ “chân thật trì danh” tìm nẻo thoát ly, tất phải chìm trong biển khổ, mãi chịu luân hồi, ngàn Phật dù từ bi cũng khó cứu độ! Người chân thật trì danh đã chẳng cầu danh lợi, cũng không khoe khoang tài năng, chẳng thêm một mảy may vọng tưởng ở nơi bốn chữ A-di-đà Phật.
Đã đem tâm này niệm Phật, phàm tất cả việc tạp thiện, tạp ác đều không nên nhớ. Hằng ngày làm mọi việc với ý niệm vạn bất đắc dĩ, xong rồi bỏ đừng để dây dưa, sẽ chướng ngại tâm niệm của chúng ta.
Đã dùng miệng này niệm Phật, phàm tất cả những việc sát, đạo, dâm, vọng không nên buông lời nói càn nói quấy. Một khi nói lỡ, nên tự nghĩ rằng: “Người niệm Phật không nên nói như thế”, rồi cố gắng niệm lớn ít tiếng danh hiệu Phật để trấn áp tâm mình và gột rửa ngay những lời bất thiện ấy.
Đã đem thân này niệm Phật, thời trong mọi lúc cũng như mọi cử chỉ đi đứng nằm ngồi, thân cần phải đoan chánh, thân có được đoan chánh, tâm mới được thanh tịnh.
Niệm Phật một tiếng tay lần một hạt. Chỉ nên niệm bốn chữ, đừng lộn sáu chữ, vì bốn chữ rất dễ thành khối. Trong bốn chữ A-di-đà Phật, hoặc lần chuỗi tại chữ “A”, hoặc lần tại chữ “Đà”, hoạch định cho có pháp tắc không được lầm lẫn, đây là pháp mượn chuỗi để nhiếp tâm vậy.
Nếu lúc thần chí hôn trầm, hay khi vọng tưởng đua khởi, hãy nên trấn tĩnh tinh thần, to tiếng niệm Phật, niệm cho được vài ba trăm tiếng tự nhiên đổi thành cảnh giới an tịnh. Bởi vì nhĩ căn thính lắm nên ngoại duyên dễ vào, tiếng làm cho tâm động, tạp tưởng nổi dậy, chỉ nên to tiếng niệm Phật để gìn giữ nhĩ căn, hầu mở tỏ tâm linh. Bây giờ, tâm chỉ nghe tiếng của chính mình, mỗi tiếng liên tục đầy đủ, tất cả những việc phải, quấy, phù phiếm tự nhiên rơi rụng.
Nếu lúc tinh thần tán thất, hoặc khi nhiều việc nhọc nhằn hay phải nhiều điều bức bách, thì không cần phải niệm to, chỉ nên thâu nhiếp tinh thần nhỏ tiếng niệm kỹ. Đến khi hơi thở điều hòa, tinh thần hưng khởi, an định tâm hồn mới nên niệm to tiếng.
Nếu tâm khí không được điều hòa, hoặc có người hay cảnh trở ngại, niệm to, niệm nhỏ đều thấy không tiện, thì chỉ nên động môi, dùng pháp niệm thầm (kim cang trì), không bắt buộc nhiều ít nhưng cần nhất: mỗi chữ mỗi câu phải từ tự tâm phát ra.
Tâm tưởng rồi mới động đến lưỡi, lưỡi khua động thành tiếng lại trở vào tự tâm, lưỡi đã phát ra tiếng, tai lại tự nghe đó là pháp: Tâm niệm tâm nghe. Tâm niệm tâm nghe thời mắt không nhìn bậy, mũi không ngửi bậy, thân không làm bậy, ông chủ được bốn chữ A-di-đà Phật mời ra rồi.
Hoặc niệm thầm vẫn thấy còn có dấu vết, thì người xưa có phương tiện rất khéo là không động nơi miệng, không phát ra tiếng, chỉ bắt tâm niệm duyên chuyên một cảnh, âm thầm dùng lưỡi chạm vào răng trước, tâm niệm ứng theo, tiếng thật rõ ràng, nhưng tiếng không phải phát ra từ cửa miệng, mà phải phát ra từ tự tánh. Tánh nghe lại phải dung thông ở trong, tâm in nơi lưỡi, lưỡi kéo lấy niệm căn, từ nghe mà vào dòng, nghe trở lại tự tánh. Ba thứ dung hội, niệm niệm viên thông, lâu dần sẽ được thành tựu pháp quán: Duy tâm thức.
Khi hôn trầm nhiều thì đi kinh hành, lúc tán loạn nhiều thì trở lại ngồi yên, hoặc đứng, hoặc nằm, hoặc quỳ, cũng tạo phương tiện rộng rãi tùy phần trì niệm để đối trị. Làm sao cho câu niệm Phật đừng xa lìa, đó là yếu thuật hàng phục tâm ma. Không luận chỗ sạch hay nhơ, hoặc chỗ vắng vẻ hay chỗ chộn rộn, chỗ vừa dạ hoặc nơi không vừa ý, cũng chẳng quản niệm được hay không niệm được, chỉ thề giữ chặt “tâm niệm Phật” này, dầu chết cũng không thể dứt niệm này. Bởi niệm này mà để một phút gián đoạn, thời tất cả thiện, ác, vô ký bao nhiêu tạp niệm lại sinh. Dù lúc đi đại, tiểu tiện lợi, hay sản phụ lúc lâm bồn, chỉ chăm chú việc niệm Phật, càng khổ càng niệm, càng đau càng niệm nhiều hơn. Buổi sáng niệm, buổi tối cũng niệm; có việc niệm, không việc cũng niệm; chỗ sạch niệm, chỗ nhơ vẫn niệm, không một niệm nào không phải là niệm Phật. Giả sử hàng ngày có sự thù tiếp bạn bè, đãi đằng tân khách, phải có lúc gián đoạn, nhưng chỉ gián đoạn thanh niệm, chớ không hề gián đoạn được tâm niệm. Công phu đến thế, sẽ dễ dàng thành tựu Tam-muội.
Sớm tối hai thời, hoạch định thường khóa, từ nay đến suốt đời không thêm không bớt. Trong suốt 24 giờ, nếu niệm được một câu nên niệm một câu, có thể niệm mười câu thì niệm mười câu; chỉ làm sao trong một trăm điều bận rộn có được một chút rảnh rang, liền buông bỏ thân tâm, sáng suốt tụng trì. Cần phải cố gắng liên tục, thúc liễm thân tâm, như thế mới không uổng phí tấc bóng quang âm. Nếu để tâm niệm buông trôi không làm được việc gì, luống tiêu hao ngày tháng, cô phụ bốn ân, một mai vô thường thoạt đến lấy gì chống cự?
Khi đối trước tượng Phật, phải xem tượng ấy cũng như Phật thật, mắt nhìn tâm niệm, cung kính chí thành, cung kính chí thành cùng cực ắt sẽ được linh cảm. Lúc không có tượng Phật, nên ngồi ngay thẳng hướng về phương Tây. Khi khởi tâm động niệm nên nghĩ nhớ ánh sáng của Phật A-di-đà ở trên đỉnh đầu của ta, mỗi chữ mỗi câu tự nhiên không qua suông, cũng có thể tiêu diệt được hắc nghiệp.
Phàm gặp tất cả cảnh vui nên biết là hư huyễn không thật, chẳng thể bền lâu, nương nơi giây phút tươi vui đó xoay tâm niệm Phật, thời ắt được nhờ ánh hào quang của Phật, trong thuận cảnh ấy, bỏ dứt đi ít nhiều ác niệm, những điều tốt đẹp liên miên như ý tu hành, mãi đến lúc mạng chung sẽ được vãng sinh Cực Lạc, há chẳng vui mừng lắm sao!
Phàm gặp tất cả nghịch cảnh quanh ta đều do trái duyên nên có hiện, (ta phải cố cam nhận chịu) không nên lại khởi ác niệm để phải dẫn khởi oan trái đến mãi về sau không dứt. Ta phải nên tùy thuận nhận lãnh, có thể tránh được thời tránh, dứt được liền dứt, chỉ tùy nhân duyên mà đừng quên niệm Phật. Ngài sẽ gia hộ cho ta, cảnh duyên liền chuyển đổi. Đời này hay kiếp trước ác quả đã thành tựu thì khổ báo ắt đến, mà một phần khổ ở đời này tức là một phần ác trong kiếp trước, không thể đổ thừa cho vận mạng, mà chỉ nên hổ phận mình chẳng sớm lo tu. Mỗi khi nghĩ đến đây, cảm thấy rợn người, thân thể như rã rời, buồn thương cảm mến, đau xót không muốn sống. Như vậy, thời mỗi câu mỗi chữ từ trong gan tủy phát ra, mới là chân cảnh niệm Phật.
Phàm thấy người khổ não trước phải giúp họ an thân, sau đó giúp khai mở tâm trí khuyên họ niệm Phật. Bởi vì cứu cái khổ trong nhất thời bố thí là gấp, cứu cái khổ trong nhiều kiếp niệm Phật lại gấp hơn. Hoặc thấy người hay vật bị nạn, sức mình không cứu được, phải gấp niệm Phật cầu cho thần thức ấy được an lành. Hoặc đêm thanh tụng niệm bố thí cho mọi loài quỷ thần. Gặp lúc đao binh tật dịch, năm canh trì niệm danh hiệu Phật, có thể được tiêu trừ mọi oan khổ. Nên nghĩ, một câu A-di-đà Phật của ta đây, trên tột trời Hữu Đảnh, dưới suốt đáy Phong Luân, mọi loài chúng sinh cùng lúc đều được lợi ích. Cách bố thí đó thật không thể nghĩ bàn.
Khi niệm Phật đã thuần thục, trong sáu trần chỉ có thinh trần, tác dụng của sáu căn đều gởi nơi nhĩ căn, không còn biết thân mình đang kinh hành, lưỡi mình đang uốn động, ý có phân biệt hay không, mũi thở ra vào, mắt mình nhắm hay mở. Khi ấy, sự viên thông của đức Quan Âm, Thế Chí chính là một. Căn tức là trần, trần tức là căn, căn trần tức là thức, mười tám giới dung hợp thành một giới. Ban đầu có lẽ chưa điều phục được, lâu dần tất sẽ tự thể nhập.
Phàm trong khi niệm Phật, phải lựa một chỗ vắng, yên sạch, khoảng bốn năm thước vuông, đi nhiễu một vòng theo phía tay mặt, sau đó từ từ mà niệm, tiếng niệm cao lên dần dần, niệm như vậy độ ba vòng trở lên sẽ tự cảm thấy tâm tiếng xuyên xuốt sáng tỏ, vòng quanh khắp thái hư, bao bọc cả mười phương, trùm đầy toàn khắp pháp giới. Đó là cách an trụ thân, tâm, thế giới vào trong tiếng niệm Phật, và đó là đem thân, tâm của mình an trụ trong tiếng niệm Phật mà niệm Phật. Đây là cảnh thù thắng tiêu diệt tâm địa phiền não nhơ trược, cần phải gắng sức thực hành.
Tiếng là tiếng của tâm, ánh sáng là ánh sáng của tâm. Chỗ tâm và tiếng xoay vần là chỗ ánh tâm tỏ sáng, an trụ trong tiếng của tâm mà niệm Phật, tức là an trụ trong ánh sáng mà niệm Phật. Đây là cảnh thù thắng tiêu diệt tâm địa phiền não nhơ trược, cần phải gắng sức thực hành. Tiếng tâm xoay vần, ánh tâm tỏ sáng, tâm thể tự nhiên hiển lộ. Một chân tâm này như gương tròn lớn thấu suốt không ngăn ngại, mười phương ba đời, ta–Phật và chúng sinh, nẻo khổ luân hồi, cõi đời trược ác, đài sen nơi Tịnh độ, đều là bóng trong gương. Trong tiếng tức là trong ánh sáng, trong ánh sáng tức là trong gương. Đây là cảnh cực kỳ thù thắng, có thể diệt hẳn tâm địa phiền não nhơ trược, hành giả cần phải gắng sức thực hành.
Không xen tạp niệm tức là Chỉ, Chỉ là nhân của Định, dừng được tạp niệm thì chánh niệm tự nhiên hiển bày. Tạp niệm có ba: thiện, ác và vô ký. Trừ hết ba thứ mới là không tạp. Tâm cần vắng lặng, vắng lặng thời các niệm thiện, ác đều không sinh. Tâm cần phải tỉnh sáng, tỉnh sáng thời niệm vô ký không có. Ngoài Phật không có niệm nên thường lặng lẽ, trong niệm có Phật nên thường tỉnh sáng. Không trụ tức là Quán, Quán là nhân của Tuệ. Câu niệm Phật trước đã qua, câu sau chưa đến, câu hiện tại cũng không dừng. Cứ thế mà quán sát rõ ràng nhưng không thể được, không thể được nhưng lại rõ ràng. Nếu khi niệm Phật chẳng hôn trầm, chẳng tán loạn thì Chỉ–Quán, Định–Tuệ trong mỗi niệm mỗi niệm, thành tựu trọn vẹn.
Trì giới luật của Phật để trị thân, trì danh hiệu Phật để trị tâm. Trì lâu thì thân thuần, niệm lâu được tâm không. Tánh của niệm và tánh của giới không hai. Giữ vững giới luật thì tội lỗi không hiện, nắm chặt danh hiệu Phật lúc lâm chung đánh tan được quỷ môn quan, vượt khỏi ba cõi. Nếu giữ giới đã có công phu thì đem công đức này hồi hướng Tây Phương, chắc chắn được về Trung phẩm. Còn như chưa có thể giữ trọn cả hai, thời nên phải siêng niệm Phật như cứu lửa cháy đầu. Nên biết, người đã niệm Phật phải có lòng từ của Phật, thực hành hạnh từ bi của Phật, phát nguyện rộng lớn tế độ chúng sinh, vì khắp tất cả chúng sinh sám hối những cấu uế, oan gia, trói buộc, tất cả công đức lớn nhỏ đều hồi hướng Tây Phương, như thế mới là chánh nhân của người niệm Phật.
Vừa làm xong một việc, vừa nói xong một lời, chưa khởi tâm niệm Phật mà một câu Hồng danh cuồn cuộn tuôn ra, đó là triệu chứng Tam-muội dễ thành. Trì danh niệm Phật không mỏi chán, thích thú lại càng thích thú hơn. Trong lúc niệm Phật, trì niệm bốn chữ thật rõ ràng, ý niệm không lay động, bốn chữ bỗng nhiên tạm dừng. Cũng không phải có cái ý niệm ngay nơi bốn chữ, cũng không có cái ý niệm lìa bốn chữ, cũng không có ý niệm ngoài bốn chữ, như thế có thể gọi là tạm được cảnh thù thắng, chớ chưa phải thật tâm không. Nhưng siêng năng niệm Phật, cảnh này thường hiện, thời dần dần được tâm không. Nếu nhân một niệm tâm không liền bị hôn trầm, thì đó là không có tuệ. Phải biết rằng, tâm càng không thời niệm càng sáng, tâm càng không thời niệm càng tịnh, đem cái ta trong tâm Phật này mà niệm Phật ở trong tâm ta, không và chẳng không đâu còn xứ sở? Ví như mặt trời, mặt trăng, xoay vần chiếu khắp thiên hạ. Ôi! Còn gì bằng Diệu giác viên minh.
Lúc xảy ra tai nạn mà phát tâm niệm Phật, tất có ứng nghiệm lạ thường. Tuy rằng một nước bị can qua hay một làng bị dịch lệ, mà niệm Phật để cầu, thì một người niệm một người an, trăm người niệm trăm người an. Không phải Phật có lòng riêng, lúc nào cũng ở trong ánh sáng bình đẳng, vô tâm mà ứng hiện. Vì sao? Vì động niệm thành tiếng, tự mình rõ biết hào quang của đức Phật A-di-đà trụ trên đỉnh đầu ta, thời tự nhiên mỗi niệm đầy đủ, mỗi niệm bền chắc, mỗi niệm dài lâu. Hào quang của Phật chiếu đến gia hộ, các vị thiên thần hộ trì, tự mình lìa khỏi nạn tai. Xin đừng thay đổi niệm nào khác!
Phút lâm chung nên cố gắng ghi nhớ bốn chữ A-di-đà Phật đừng để sót quên. Nếu niệm lớn được thời niệm, còn không niệm lớn thì niệm nhỏ. Trường hợp lớn nhỏ đều không niệm được thì nên ghi khắc, thầm tưởng bốn chữ trong thâm tâm đừng cho quên sót. Những người chăm sóc chung quanh phải thường nhắc nhở, khuyến khích người bệnh nhớ Phật niệm Phật. Phải biết rằng: Sở dĩ chúng ta rong chạy trong trăm kiếp ngàn đời, hoàn toàn là do một niệm lúc này quyết định. Tại sao? Vì sáu nẻo luân hồi đều do một niệm làm chủ, nếu một niệm chuyên chú niệm Phật thì thân tuy bại hoại nhưng tâm thần không tán loạn, liền theo một niệm ấy vãng sinh Tịnh độ. Vậy nên phải nhất tâm ghi nhớ bốn chữ A-di-đà Phật đừng quên!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét