Thứ Bảy, 2 tháng 5, 2015

Niệm Phật chỉ nam(Phần 1)

Phần 1

Niệm Phật chỉ nam

   Kinh Đại Tập nói: “Thời mạt pháp, ức ức người tu hành, hiếm có một người được đạo, chỉ y theo pháp môn niệm Phật mà ra khỏi sinh tử luân hồi”. 

   Đại sư Ngẫu Ích nói: “Trong tất cả pháp niệm Phật, tìm pháp giản dị nhất, ổn thỏa nhất, không gì bằng Tín–Nguyện–Chuyên trì danh hiệu, chẳng nhọc Quán tưởng, chẳng cần Tham cứu”. 

   Gần đây, người Trì danh nhiều mà người vãng sinh ít, đều do Tín–Nguyện không tha thiết, tu xen tạp không chuyên nhất, hoặc cầu phước báo nơi cõi trời người nên vẫn luân hồi như cũ. Ở đây, trích dẫn pháp ngữ của các bậc Cao Tăng Đại đức xưa nay, chẳng lấy những lời bàn luận diệu huyền về Tham cứu Quán tưởng, chỉ chọn lời thiết yếu của pháp Trì danh để tiện việc luôn luôn tỉnh xét, thúc đẩy tinh tấn, so với việc thưa hỏi bậc Tri thức càng thân thiết hơn

Trích dẫn “Thuyết chuyên tu và tạp tu tịnh nghiệp”

 của Đại sư Thiện Đạo
Có người gạn: “Sao Hòa thượng không dạy người Quán tưởng Phật, mà chỉ bảo chuyên Trì danh?”.
Ngài đáp: “Chúng sinh đời này phần nhiều chướng nặng tâm thô, thức thần tán động, mà cảnh Tịnh độ rất tế diệu, nên Quán tưởng khó thành. Vì thế, đức Phật xót thương, khuyên thẳng nên xưng danh hiệu. Chính vì xưng danh là hạnh dễ làm, nếu cứ giữ mỗi niệm nối nhau tu như thế suốt đời, thì mười kẻ niệm mười kẻ được vãng sinh, trăm người tu trăm người về Tịnh độ. Tại sao thế? Vì không duyên tạp bên ngoài, nên dễ được chánh niệm. Vì cùng với bản nguyện của Phật hợp nhau. Vì không trái với kinh giáo. Vì thuận theo lời Phật”.
“Nếu bỏ chuyên niệm, tu xen tạp những hạnh khác, trong trăm ngàn người chỉ hy vọng được ba bốn kẻ vãng sinh. Bởi tại sao? Vì duyên tạp loạn động khiến cho mất chánh niệm; vì không hợp với bản nguyện của Phật A-di-đà; vì trái với kinh giáo và không thuận lời Phật; vì sự hệ niệm không nối tiếp nhau; vì tâm không thường nhớ báo đáp ơn Phật; vì tuy hành đạo mà thường tương ưng với danh lợi; vì thích theo duyên tạp, làm chướng chánh hạnh vãng sinh của mình và người. Mong tất cả mọi người khéo tự tư duy, khi đi đứng nằm ngồi phải cố gắng nhiếp tâm ngày đêm chớ rời Thánh hiệu, thề quyết giữ đến hơi thở cuối cùng. Như thế tới lúc mãn phần, niệm trước vừa thọ chung, niệm sau liền sinh Cực Lạc. Từ đây, vĩnh viễn hưởng sự vui pháp lạc vô vi cho đến khi thành Phật, há chẳng đáng mừng ư?”.

Trích dẫn “Vạn thiện đồng quy” của Đại sư Vĩnh Minh

   Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ nói về chín phẩm có sự cao thấp. Tuy gồm đủ Thượng phẩm và Hạ phẩm nhưng chẳng ra ngoài hai thứ tâm:
1. Định tâm: Như tu định tập quán.
2. Chuyên tâm: Chỉ cần niệm danh hiệu Phật, thực hành mọi điều lành, hồi hướng phát nguyện.
Vẫn cần phải cả đời quy hướng, suốt kiếp tinh tu, khi nằm ngồi thường hướng về phương Tây. Mỗi khi hành đạo kính lễ và lúc niệm Phật phát nguyện, nên chí thành khẩn thiết không có ý niệm gì khác. Giống như phạm nhân khi đi đến pháp trường, như kẻ mang tội thân ở trong tù ngục. Lại giống như đang bị giặc thù bức bách, nạn nước lửa vây khốn, chỉ chuyên tâm cầu giải cứu. Nguyện cầu thoát khỏi đau khổ trong luân hồi, nhanh chóng chứng đắc Vô sinh, cứu độ khắp cả muôn loài, kế thừa và làm hưng thịnh Tam Bảo, quyết tâm báo đáp bốn ơn. Nếu có tâm chí thành như thế, tất nhiên sẽ đạt được như nguyện.
Còn như ngôn ngữ và hành động hoàn toàn không phù hợp, lòng tin yếu kém, không có tâm niệm Phật liên tục, lại có ý thường hay gián đoạn, dựa vào sự lười biếng này hy vọng lúc lâm chung được vãng sinh, chỉ e bị nghiệp chướng ngăn trở, khó gặp bạn lành, gió lửa bức bách, chánh niệm không thành tựu.
Tại sao? Vì hiện nay là nhân, lúc lâm chung là quả. Cần phải có nhân chân thật, quả mới không giả dối. Nếu muốn lâm chung thành tựu mười niệm, phải có sự chuẩn bị trước, tập hợp mọi công đức, đồng thời hồi hướng lúc lâm chung, niệm niệm không thiếu sót thì chẳng phải lo lắng điều gì.
Hỏi: “Trong luận nói, kinh hành niệm Phật và ngồi niệm công đức như thế nào?”.
Đáp: “Ví như đi thuyền ngược nước cũng gọi là đi, còn như thuận nước thì rất mau chóng. Ngồi niệm Phật một câu còn tiêu diệt tội lỗi trong 80 ức kiếp, kinh hành niệm Phật công đức ấy sao có thể suy lường? Cho nên, bài kệ nói:

“Kinh hành năm trăm vòng
Niệm Phật một ngàn câu.
Thường thực hành như thế, 
Tự thành Phật phương Tây”.

   Nếu lễ bái thì khuất phục vô minh, vào sâu nơi mảnh đất giác ngộ, khi mạng chung vãng sinh mau chóng chứng Niết-bàn.

Trích dẫn “Vãng sinh tịnh độ quyết nghi hạnh nguyện nhị môn” của Đại sư Tuân Thức

   Phàm xử lý việc công hay tư, có nhiều việc để làm, tuy vội vàng mà trong lòng chẳng quên Phật và nhớ Tịnh độ. Ví như người đời có việc cấp thiết trong lòng, dù nói năng, đi lại, ngồi nằm nhưng vẫn âm thầm nghĩ nhớ việc ấy rất rõ ràng. Tâm của người niệm Phật cũng phải như thế. Nếu như lãng quên thì phải luôn luôn thâu nhiếp trở lại, lâu dần thành thói quen, tự nhiên thường nhớ. Kinh Lăng-nghiêm nói: “Nếu tâm chúng sinh nhớ Phật niệm Phật, hiện tại tương lai nhất định thấy Phật, cách Phật không xa. Chẳng nhờ phương tiện, tự được tâm khai ngộ”. Buộc tâm như thế, tự nhiên thường ngăn chặn tất cả niệm ác; dù muốn làm ác nhưng do nhớ Phật nên việc ác không thể thành; dù cho khi theo niệm ác tạo nghiệp ác nhưng tâm vẫn thường hổ thẹn khiêm tốn, ví như trong mình có mùi thơm, tự nhiên không còn mùi hôi thối.
Hơn nữa, phải biết lúc tâm vừa khởi niệm ác vi tế thì liền nhớ Phật, do sức mạnh của Phật nên niệm ác tự dứt, như người gặp nạn cầu người kia cứu giúp, nhất định được thoát khỏi. Nếu lúc thấy người khác chịu khổ, do trong tâm niệm Phật nên thương xót mong họ lìa khổ. Nếu là người phán xét tội nhân để hình phạt và hạ ngục, do niệm Phật nên sinh tâm thương xót, tuy y theo pháp luật nhưng phải thầm nguyện rằng: “Ta thi hành pháp luật, chẳng phải là bản ý của ta, nguyện người được vãng sinh Tịnh độ, thệ sẽ cứu tế lẫn nhau”. Nói chung, trải qua tất cả mọi nơi mọi việc, hoặc thiện hoặc ác, do tâm nhớ Phật nên thường thệ nguyện. Trong Nguyện Vương của ngài Phổ Hiền nói: “Tất cả việc ác thảy đều chẳng thành, còn làm việc lành thì đều mau thành tựu”. Đó tức là ý này. Niệm Phật liên tục trong lòng, có thể làm thành tất cả công đức của nhân Tịnh độ.

Trích dẫn “Tam thời hệ niệm Phật sự” của Đại sư Trung Phong
  

Giáo pháp Tịnh độ được thành lập bởi 48 nguyện lực sâu nặng đại từ đại bi của Phật A-di-đà, thâu nhận tất cả chúng sinh trong mười phương, hễ ai đầy đủ lòng tin đều được vãng sinh.
Tin là tin có Tây Phương Tịnh độ, tin có Phật A-di-đà thâu nhận chúng sinh, tin những chúng sinh bọn ta có phần vãng sinh. Tuy bảo rằng Phật Di-đà tiếp dẫn chúng sinh vãng sinh, nhưng cần phải tin chỉ tùy tâm tự hiện, đạo cảm ứng qua lại, rốt cuộc chẳng phải từ bên ngoài mà được. Người tin như thế, đó chính là niềm tin chân thật.
Tin mà không thật hành thì chẳng thành tựu lòng tin. Hành là như trong kinh Lăng-nghiêm nói: “Nhiếp cả sáu căn, Tịnh niệm tiếp nối”. Kinh A-di-đà bảo rằng: “Nghe nói về Phật A-di-đà, nắm giữ danh hiệu, một ngày, hai ngày, cho đến bảy ngày nhất tâm không loạn”. Thực hành như thế, đó gọi là thực hành chân chánh.
Thực hành mà chẳng có nguyện thì chẳng thành tựu sự thực hành. Nguyện là phải tương ưng với từng nguyện trong 48 nguyện của Phật A-di-đà, đó là đại nguyện.
Tín–Hạnh–Nguyện là ba chân của cái đảnh, thiếu một tất không thể được. Nên biết, một niệm hiện giờ vốn tự viên mãn thường hằng, Tín–Hạnh–Nguyện nguyên là tánh đức như thế, xưa nay vốn có của chính mình. Nay chỉ là làm hiển bày phát khởi ánh sáng của bản tánh mà thôi.
Ngay khi vọng tâm tạp loạn, liền đề khởi một niệm như đối trước đấng Từ Tôn, nắm vững sáu chữ Hồng danh, mỗi câu mỗi câu miệng niệm tai nghe, sự tạp loạn ấy tự nhiên theo đó lặng lẽ. Từ một niệm đến mười niệm, cho đến niệm niệm chẳng đổi dời, đó chính là chỗ trong kinh gọi Tịnh niệm tiếp nối.
Người niệm Phật cần phải có lòng tin tha thiết, chánh nhân mạnh mẽ, nghĩ nhớ về sự sinh tử luân hồi đáng buồn thương, chán nản cảnh trần lao lăng xăng mà đau lòng. Đề khởi một danh hiệu Phật, ngay đó liền không có cái thấy nào khác, cho đến nhất tâm không loạn, năng sở đều quên, chẳng cần nói về việc đến nhà, đâu nhọc gì đề cập đến danh từ thẳng tắt, đây thật đáng gọi là: Thuật thần diệu để chứng đắc sự tu hành, con đường chân chánh vượt qua phương tiện.

Trích dẫn “Liên tông bảo giám” của Đại sư Ưu Đàm

   Pháp niệm Phật nhiếp tâm này, muốn được nhanh chóng thành tựu Tam-muội, thì pháp đếm hơi thở rất là thiết yếu để đối trị hôn trầm và tán loạn. Phàm lúc muốn ngồi, trước nên tưởng thân mình ở trong ánh sáng tròn đầy, thầm quán nơi chót mũi, tưởng hơi thở ra vào. Mỗi một hơi thở niệm thầm một câu A-di-đà Phật. Dùng phương tiện điều hòa hơi thở, không huỡn không gấp, tâm và hơi thở nương nhau theo sự ra vào của hơi thở. Lúc đi đứng nằm ngồi đều có thể thực hành đừng để gián đoạn, thường tự âm thầm hành trì cho đến vào sâu thiền định, hơi thở và câu niệm Phật cả hai đều quên thì thân tâm này đồng như hư không, lâu dần thuần thục, tâm nhãn khai thông, Tam-muội bỗng nhiên hiện tiền, tức là Duy tâm Tịnh độ.
Luận Bảo Vương Tam-muội nói: “Người tu trì Nhất Tướng Niệm Phật Tam-muội, khi đi đứng ngồi nằm buộc niệm không quên, dù cho ngủ nghỉ cũng buộc niệm, đến khi thức dậy tiếp tục thực hành, không để niệm khác xen vào, không để việc khác làm gián đoạn, không cho tham sân làm ngăn cách, có lỗi lầm gì liền sám hối, không có niệm gì gián cách, không có niệm nào khác, không có ngày nào gián cách, không khi nào gián cách, niệm niệm thường không rời Phật, niệm niệm thanh tịnh tròn sáng, đó tức là thành tựu Nhất Tướng Tam-muội”.
Bồ-tát tại gia thờ Phật giữ giới, mỗi ngày lo lắng việc nhà chưa thể nhất tâm tu hành, cần phải dậy sớm thắp hương, đảnh lễ Tam Bảo, tùy ý niệm Phật. Mỗi ngày lúc hoàng hôn cũng lễ niệm như thế, lấy đó làm thường khóa. Nếu như bỏ mất thời khóa thì ngày kế tiếp tự đối trước Phật sám hối. Pháp môn này không trở ngại với mọi nghề nghiệp, kẻ sĩ chẳng trở ngại việc học hành, nông dân chẳng ngại việc cày cấy, người thợ chẳng trở ngại công việc làm, doanh nhân không trở ngại mua bán. Ngoài việc lễ niệm sớm tối, lại có thể trong 24 giờ tranh thủ công phu trì niệm danh hiệu Phật trăm ngàn câu, lấy tâm chí thành làm công, mong cầu sinh về Tịnh độ.
Phàm người tu Tịnh độ rõ ràng muốn chống lại sinh tử, không phải chỉ nói liền xong. Nên nghĩ đến vô thường mau chóng, thời gian chẳng đợi người, cần phải làm cho được một việc này. Nếu tin được thì từ hôm nay trở đi, nên phát khởi tâm đại dõng mãnh, đại tinh tấn, đừng hỏi rằng thể hội hay không thể hội, thấy tánh hay không thấy tánh, chỉ cần nắm chặt một câu Nam mô A-di-đà Phật như dựa vào ngọn núi Tu-di chẳng lay động. Phải chuyên tâm nhất ý, hoặc Tham cứu niệm Phật, Quán tưởng niệm Phật, nghĩ nhớ mà niệm, hoặc dùng pháp thập niệm; hoặc mặc niệm, chuyên niệm, buộc niệm, lễ niệm. Mỗi niệm hằng giữ cho hiện tiền, thường nhớ thường niệm. Sáng cũng niệm, tối cũng niệm, đi cũng niệm, ngồi cũng niệm. Không để tâm niệm luống qua, câu niệm Phật chẳng rời tâm. Ngày ngày giờ giờ đừng buông bỏ, miên mật khít khao như gà ấp trứng thường giữ cho hơi ấm nối tiếp nhau, như thế tức là Tịnh niệm tiếp nối. Lại thêm dùng trí tuệ chiếu soi, thì biết Tịnh độ tức là tự tâm. Đó chính là công phu tu tiến của bậc thượng trí vậy. Như thế, nắm chặt được, làm chủ được, nương tựa được ổn thỏa thì dù gặp cảnh giới khổ vui thuận nghịch ở trước mắt nhưng vẫn chỉ niệm Phật A-di-đà, không có một tâm niệm thay đổi, không có một tâm niệm thối lui bê trễ, không còn một niệm xen tạp, cho đến trọn đời mãi không có niệm nào khác, chỉ quyết định cầu sinh về cõi Tây Phương Cực Lạc. Nếu quả dụng công được như thế, vô minh từ bao kiếp, nghiệp chướng trong sinh tử tự nhiên tiêu tan, tập khí phiền não trần lao tự nhiên hết sạch không còn sót, tận mắt thấy Phật A-di-đà vẫn không rời tâm niệm, công thành hạnh mãn, nguyện lực trợ nhau, đến khi mạng chung quyết định sinh về Thượng phẩm.
Nếu người niệm Phật trần cấu chưa sạch, khi niệm ác sinh khởi cần phải lập tức tự kiểm điểm. Hoặc có tâm tham lam keo kiệt, tâm sân hận, tâm si ái, tâm tật đố, tâm dối trá, tâm nhân ngã, tâm cống cao, tâm nịnh hót, tâm tà kiến, tâm khinh mạn, tâm năng sở, và tất cả tâm bất thiện do sự đắm nhiễm từ các cảnh giới thuận nghịch mà sinh khởi, nếu lúc chúng sinh khởi, cần phải gấp rút to tiếng niệm Phật, nhiếp vọng niệm trở về chánh niệm, chớ để cho tâm ác tiếp nối. Ngay khi ấy dẹp trừ hết sạch, dứt hẳn không còn sinh khởi trở lại. Nên thường luôn gìn giữ tất cả tâm tin sâu, tâm chí thành, tâm phát nguyện hồi hướng, tâm từ bi, tâm khiêm hạ, tâm bình đẳng, tâm phương tiện, tâm nhẫn nhục, tâm trì giới, tâm hỷ xả, tâm thiền định, tâm tinh tấn, tâm Bồ-đề, cùng tất cả tâm niệm lành thường nên gìn giữ. Lại cần phải xa lìa những điều phi phạm hạnh, đoạn trừ luật nghi tà ác, cẩn thận chớ nuôi dưỡng gà, chó, heo, dê, săn bắn, bắt cá, những việc ấy đều không nên làm. Người niệm Phật nên học theo Phật, lấy việc bỏ ác làm lành làm điều răn mình.
Người tu hành có lòng tin chân thật, chỉ cần ghi nhớ trong lòng một câu A-di-đà Phật đừng để rơi mất, mỗi niệm thường hiện tiền, mỗi niệm chẳng lìa tâm. Không việc cũng niệm như thế, có việc cũng niệm như thế, an lạc cũng niệm như thế, bệnh khổ cũng niệm như thế; sống cũng niệm như thế, chết cũng niệm như thế. Như thế, một niệm rõ ràng không mờ, đâu cần phải hỏi người khác để tìm lối về nữa!

Trích dẫn “Tịnh độ hoặc vấn” của Đại sư Thiên Như

   Kiếp người mong manh như đá chạm nháng lửa, như chớp giật lưng trời, mới còn đó đã mất đi, có chi là trường cửu? Thừa lúc chưa già chưa bệnh, gác qua thế sự, rủ sạch thân tâm, còn sống được một ngày lo một ngày niệm Phật, được một thời công phu tu một thời Tịnh nghiệp, dù có chết tốt hay chết xấu, lộ phí của ta đã chuẩn bị sẵn rồi, con đường phía trước chắc chắn là êm đẹp.
Ở đời, nếu là người thiết tha nghĩ đến vô thường, dụng tâm chân thật, thì chẳng cần biết khổ hay vui, thuận hay nghịch, ồn ào hay yên lặng, rảnh hay bận, mặc kệ việc chung hay riêng, tiếp người đãi khách, lắm duyên phiền nhiễu, ứng phó nhiều mặt, đều không cản trở được việc niệm Phật của người ấy.
Nếu duyên thế tục còn nặng, khả năng mình còn kém, cũng nên tranh thủ chút thời gian trong lúc bận rộn, cốt tìm lấy chút yên lặng trong chỗ ồn ào. Mỗi ngày có thể niệm ba vạn câu hoặc một vạn, hoặc ba ngàn, hoặc một ngàn, nên định chắc số lượng làm thời khóa, không được phép bỏ qua một ngày. Nếu quá bận rộn, không có thời gian rảnh rỗi thì mỗi sáng sớm phải niệm mười niệm, tích góp lâu ngày sẽ thành công, cũng chớ để luống qua. Ngoài việc niệm Phật, có thể lễ Phật tụng kinh, sám hối, phát nguyện, kết đủ mọi duyên, làm đủ các phước thiện, bố thí tùy sức, tu các thiện nghiệp để trợ giúp việc niệm Phật. Dù làm được một việc lành nhỏ, cũng nên hồi hướng về Tây Phương. Nếu dụng công như thế, không chỉ chắc chắn được vãng sinh mà còn nâng cao phẩm vị.
Chuyên trì danh hiệu, thêm lễ Phật sám hối rất phù hợp với thuyết chuyên tu không gián đoạn của ngài Thiện Đạo. Chuyên tu không gián đoạn, tức thân phải chuyên lễ Phật A-di-đà không lễ các Phật khác; miệng phải chuyên xưng danh hiệu Phật A-di-đà không xưng hiệu Phật khác hoặc tụng các kinh khác; ý phải chuyên quán tưởng Phật A-di-đà không quán tưởng gì khác. Nếu khởi tham sân si làm gián đoạn công phu liền phải sám hối ngay, không để cách ngày, cách đêm và cách giờ. Thường giữ được thanh tịnh cũng gọi là chuyên tu không gián đoạn.
Phương pháp buộc niệm chẳng hạn cuộc đi đứng nằm ngồi, chẳng cần niệm ra tiếng tổn khí, chỉ cốt ở chỗ chí thành, tưởng thầm niệm thầm, niệm niệm tiếp nối tâm không gián đoạn, dám bảo đảm mắt thịt ở hiện đời liền có thể thấy Phật, hoặc thấy ánh sáng, hoặc được xoa đảnh, đâu phải đợi đến lúc mạng chung! Đây là một pháp môn thẳng tắt, rất đơn giản, rất trọng yếu, cực kỳ linh nghiệm.

Trích dẫn “Tịnh độ Pháp ngữ” của Đại sư U Khê

   Dương Kiệt nói rằng: “Ái không nặng không sinh ở Ta-bà, niệm Phật không chuyên nhất không sinh về Cực Lạc”. Ở Ta-bà có một niệm ái nặng, đến khi lâm chung còn bị nó lôi đi không được vãng sinh, huống gì nhiều ái? Cầu sinh Cực Lạc mà có một niệm không chuyên nhất, đến khi lâm chung sẽ bị một niệm này xoay chuyển không được vãng sinh, huống gì nhiều niệm?
Phàm ái có nặng nhẹ, dày mỏng, chánh báo y báo. Hãy đưa mắt nhìn khắp xem, nào là cha mẹ, vợ con, anh em, bằng hữu, công danh phú quý, văn chương thi phú, đạo thuật kỹ nghệ, thức ăn, thức uống, nhà cửa, ruộng vườn, suối rừng, cỏ hoa, châu báu v.v… không kể hết được. Nếu còn nhớ một vật thì là ái, nếu một niệm chưa trừ thì cũng là ái. Nếu tâm còn một niệm ái thì niệm không chuyên nhất. Nếu còn một niệm không chuyên nhất thì không sinh về Tịnh độ.
Có người hỏi:
- Có cách nào làm cho ái được nhẹ chăng?
Đáp:
- Muốn làm nhẹ ái, không gì bằng làm cho nhất niệm.
- Có cách nào để nhất niệm không?
Muốn được nhất niệm, không gì bằng làm nhẹ ái. Bởi vì niệm không chuyên nhất là do tâm phân tán theo các duyên, rong ruổi theo ngoại cảnh. Hễ Ta-bà có một cảnh thì chúng sinh có một tâm, hễ chúng sinh có một tâm thì Ta-bà có một cảnh. Các duyên hội tụ làm xao động bên trong, tâm liền hướng ngoại rong ruổi tìm cầu. Tâm cảnh duyên nhau, ái khởi như cát bụi. Cho nên, người muốn làm nhẹ niệm ái, không gì hơn đoạn dứt ngoại cảnh, hễ các cảnh đều không, vạn duyên sẽ vắng lặng. Khi vạn duyên đều vắng lặng, tự nhiên sẽ được nhất tâm. Nếu được nhất tâm, ái duyên đều hết.
Hỏi: Có cách nào đoạn dứt ngoại cảnh không?
   Đáp: Đoạn dứt ngoại cảnh chẳng phải trừ dẹp muôn cảnh, cũng chẳng phải nhắm mắt không nhìn mà phải ngay nơi cảnh, biết cảnh hư vọng, thể hội được gốc để thấu suốt ngọn là không. Vạn pháp vốn tự không, nếu thấy có, ấy là vọng tình. Cho nên, vọng tình còn thì vật còn, vọng tình không thì vật không. Vạn pháp không thì bản tánh hiển bày; bản tánh hiện bày, tình niệm dứt bặt. Tự nhiên như thế, không cần phải gượng ép. Đó chính là nghĩa mà kinh Lăng-nghiêm đã nói: “Cái hay thấy cảnh và cảnh được thấy đều là tướng vọng tưởng, giống như hoa đốm trong hư không, vốn không thật có. Cái hay thấy và cảnh được thấy này, vốn là thể Bồ-đề thanh tịnh sáng suốt nhiệm mầu, làm sao trong đó có phải và chẳng phải?”. Vì thế, muốn đoạn dứt ngoại cảnh, không gì bằng thể hội được muôn vật là không, thể hội muôn vật là không tình tự dứt, tình dứt thì ái không sinh mà chỉ có tâm hiển bày, thành tựu được nhất niệm. Cho nên, kinh Viên Giác nói: “Biết huyễn liền lìa, không cần phương tiện; lìa huyễn liền giác, cũng không trải qua thứ bậc”. Bỏ kia giữ đây, không cho suy lường, công hiệu mau chóng giống như đánh trống. Người học đạo nên hết lòng đối với việc này.
Có ba pháp làm cho nhất niệm: Tín–Hạnh–Nguyện.
Thứ nhất là tín: Không nghi gọi là tín, nếu có nghi, tâm không được chuyên nhất. Vì thế, cầu sinh về cõi Cực Lạc cần phải lấy tín tâm làm đầu, cần phải đọc tất cả kinh điển Đại thừa, học những lời dạy của chư Tổ. Hễ là sách chỉ dạy Tịnh độ đều nên tìm đọc để biết cõi Tịnh độ vốn chính là tâm ta, không có cõi nào khác, tỏ rõ Phật A-di-đà nguyên là Phật chân thật nơi bản tánh của ta, chẳng phải là Phật nào khác. Có hai việc cốt yếu: một là biết được Diệu hữu vốn đầy đủ và cùng khắp, lấy đó làm gốc ưa thích cõi tịnh; hai là ngộ được Chân không vốn lìa thoát tất cả, lấy đó làm nguồn buông bỏ cõi uế.
Thứ hai là tu hành: Cho nên, khi tin hiểu đã đầy đủ phải nên niệm Phật tu hành.
Có hai pháp thực hành: một là chánh, hai là trợ.
    1. Chánh hạnh có hai: một là xưng danh hiệu Phật, hai là quán tưởng.
Xưng danh hiệu Phật, như kinh A-di-đà nói bảy ngày trì danh hiệu Phật được nhất tâm không loạn. Có Sự nhất tâm và Lý nhất tâm. Khi miệng niệm danh hiệu Phật, tâm phải buộc nơi từng tiếng niệm, từng tiếng liên tục, tâm tâm không loạn. Giả sử tâm duyên theo ngoại cảnh, nên thâu tâm trở về. Chỗ này cần phải có tâm cương quyết để đoạn trừ niệm sau, dẹp bỏ thế sự, buông bỏ tâm phan duyên, khiến cho tâm niệm Phật dần dần tăng trưởng từ tạm thời đến dài lâu, từ ít đến nhiều, một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày, cuối cùng đạt được nhất tâm không loạn mới thôi. Đó là Sự nhất tâm. Nếu đã được Sự nhất tâm rồi thì nhân Tịnh độ Cực Lạc đã thành tựu, lâm chung chắc chắn được chánh niệm, thân không bệnh khổ, không còn bị pháp ác trói buộc, biết trước giờ chết, thân tâm hoan hỷ, ra đi an lành, ngồi thoát hoặc đứng hóa đều thấy đức Phật A-di-đà phóng ánh sáng tiếp dẫn, chắc chắn được sinh về Tịnh độ. Lý nhất tâm cũng không khác, chỉ ở ngay nơi Sự nhất tâm niệm niệm thấu suốt tâm hay niệm và Phật được niệm ba thời đều bình đẳng, mười phương dung thông nhau, chẳng không chẳng có, chẳng phải ta chẳng phải người, không đến không đi, không sinh không diệt. Tâm nhất niệm hiện tại chính là cảnh Tịnh độ vị lai, niệm mà không niệm, không niệm mà niệm, không sinh mà sinh, sinh mà không sinh. Trong nơi không thể niệm mà niệm rõ ràng, trong nơi không sinh mà mạnh mẽ cầu sinh. Đó là trong Sự nhất tâm đạt được Lý nhất tâm. Nếu trong bốn oai nghi tu không gián đoạn chắc chắc vãng sinh Tịnh độ.
2. Trợ hạnh cũng có hai: một là hạnh thế gian, như hiếu thuận với cha mẹ, thực hiện lòng nhân từ, từ bi không sát sinh, giữ đầy đủ các giới luật. Tất cả việc lợi ích ấy nếu hồi hướng về Tây Phương, đều là hạnh trợ đạo. Hai là hạnh xuất thế, như tu Lục độ Vạn hạnh, làm mọi công đức, đọc tụng kinh điển Đại thừa, thực hành sám pháp, cũng nên dùng tâm hồi hướng mà trợ giúp cho sự tu hành. Những việc như thế đều là hạnh Tịnh độ.
Lại có một trợ hạnh vi diệu: dụng tâm đối với tất cả cảnh duyên đã gặp. Như nhìn thấy quyến thuộc thì quán tưởng họ là pháp quyến ở Tây Phương, dùng pháp môn Tịnh độ mà dẫn dắt họ làm cho nhẹ được ái mà thành tựu nhất niệm, mãi mãi là quyến thuộc Vô sinh trong tương lai. Nếu lúc khởi tâm ân ái, nên nghĩ rằng quyến thuộc Tịnh độ không có tình ái, làm sao được sinh về Tịnh độ để xa lìa tình ái này? Nếu khi sinh tâm sân hận, nên nghĩ rằng quyến thuộc Tịnh độ không còn phiền não, làm sao mới được vãng sinh về Tịnh độ để lìa bỏ sân hận này? Như lúc đang đau khổ nên nghĩ rằng về Tịnh độ không còn các khổ đau, chỉ hưởng các niềm vui. Nếu lúc đang an vui, nên nghĩ rằng niềm vui ở Tịnh độ vô lượng vô biên không cần phải chờ đợi. Phàm tất cả cảnh duyên gặp được, đều lấy ý này mà suy rộng ra thì tất cả việc làm ở mọi lúc, mọi nơi đều là trợ hạnh Tịnh độ.
Nguyện: Có chung có riêng, có rộng có hẹp, có phổ biến, có giới hạn. Chung thì như văn hồi hướng của Cổ đức; riêng thì tùy theo nguyện của mỗi người. Rộng là bốn hoằng thệ nguyện, trên cầu thành Phật, dưới hóa độ chúng sinh; hẹp là tự lượng sức mình  quyết chí vãng sinh. Giới hạn như tu hành có thời khóa, cùng phát nguyện theo mọi người, phổ biến thì lúc nào cũng phát thệ nguyện, nơi nào cũng bày tỏ tâm ý. Chỉ cần hợp với bốn hoằng thệ nguyện, không được theo ý riêng vọng lập. Tóm lại, trong tất cả các lời nguyện, lời nguyện riêng tốt hơn lời nguyện chung, vì sợ rằng lời nguyện chung bị thay đổi theo lời người, còn lời nguyện riêng thì tự mình bày tỏ tâm ý. Nhưng theo lời nguyện chung sinh tâm quyết định, thì tuy chung mà riêng. Nếu ý của văn riêng rộng lớn thì riêng cũng thành chung. Lại nữa, rộng thì hơn hẹp, rộng thì phát tâm rộng lớn nên được quả cao, hẹp bi nguyện cạn, nên được quả thấp. Còn phổ biến thì hơn giới hạn, giới hạn công phu thường gián đoạn, phổ biến niệm niệm được viên thành. Thực hành như ba cách này có thể chóng sinh về Tịnh độ, mau thấy được đức Phật A-di-đà. Tất cả pháp môn Tịnh độ đều không ngoài những điều này. 

Trích dẫn “Từ bá lão nhân tập” của Đại sư Đạt Quán

   Sư hỏi: Tăng Hải Châu niệm Phật có thường bị gián đoạn không?
Đáp: Khi ngủ thường quên niệm.
Sư ra uy trách rằng: “Ngủ liền quên, niệm Phật như thế, niệm đến muôn năm cũng không làm được gì!”.
“Từ nay về sau, cần phải trong mộng ông cũng niệm Phật không gián đoạn, mới có phần thoát khổ. Nếu trong giấc mộng không thể niệm Phật, không nhớ câu Phật thì khi vừa thức giấc phải khóc lớn, đến trước Phật dập đầu lễ lạy cho đến khi rướm máu, hoặc niệm một ngàn, một vạn câu Phật, kiệt sức mới thôi. Làm như thế hai, ba mươi lần, tự nhiên trong lúc ngủ say câu Phật cũng không bị gián đoạn”.
Người đời niệm Phật đã hai, ba chục năm, hoặc trọn đời, nhưng đến khi gần chết vẫn không dùng được, ấy là trong giấc mộng chưa từng niệm Phật. Người sống như thức, người chết như ngủ, cho nên người trong giấc mộng vẫn niệm Phật được thì gần chết tự nhiên không loạn.
Tâm niệm Phật chân thật hay chẳng chân thật, chỉ cần từ nơi hoan hỷ và phiền não kiểm nghiệm, tự nhiên phân biệt được rõ ràng. Đại khái, người có tâm chân thật niệm Phật, dù lúc vui vẻ hay lúc phiền não, niệm niệm không gián đoạn. Vì vậy phiền não không thể lay động được họ, vui vẻ cũng không thể lay động được họ. Nếu phiền não và hoan hỷ không thể lay động, trong cảnh sinh tử tự nhiên chẳng sợ hãi. Ngày nay, người niệm Phật, khi vừa có chút mừng giận đến liền quên câu A-di-đà Phật. Như thế làm gì có được sự linh nghiệm. Nếu niệm Phật theo cách của tôi, thật ở nơi yêu ghét chẳng mờ câu A-di-đà Phật này, hiện tại trong sinh hoạt hằng ngày không thọ dụng được, lâm chung chẳng được vãng sinh, thì lưỡi ta sẽ bị rữa nát.

“Vân thê pháp Trích dẫn vựng” của Đại sư Liên Trì

   Tâm vốn vô niệm, niệm khởi liền trái ngược, mà chúng sinh từ vô thỉ đến nay thói quen vọng tưởng không thể dễ dàng nhanh chóng trừ diệt. Nay dạy niệm Phật, đó chính là dùng độc trị độc, dùng binh chặn binh. Song pháp môn niệm Phật lại có nhiều môn mà pháp Trì danh này là lối tắt trong lối tắt. Do Phật có vô lượng đức, nay chỉ bốn chữ danh hiệu này đủ để bao hàm tất cả. Vì Phật Di-đà tức là toàn thể nhất tâm, tâm bao hàm mọi đức, Thường–Lạc–Ngã–Tịnh, Bản giác Thỉ giác, Chân như Phật tánh, Bồ-đề Niết-bàn, trăm ngàn vạn tên đều thâu nhiếp trọn vẹn.
Chúng sinh học Phật cũng có vô lượng pháp để thực hành, nhưng chỉ một pháp Trì danh này đủ để bao hàm trọn vẹn. Vì pháp Trì danh tức là trì một tâm này, tâm bao hàm trăm hạnh, Tứ đế, Lục độ, cho đến tám vạn bốn ngàn pháp môn nhiều như vi trần như cát sông Hằng, đều được thâu nhiếp trọn vẹn.
Trì danh niệm Phật có mấy loại:
1. Niệm ra tiếng.
2. Niệm thầm.
3. Niệm kim cang, nghĩa là sẽ động môi lưỡi mà niệm. Mật tông gọi là kim cang trì.
Hoặc là niệm Phật nhớ số, hoặc không nhớ số, tùy tiện đều có thể được.
Niệm Phật có phân ra Sự–Lý:
Nhớ niệm không gián đoạn, đó gọi là Sự trì
Thể cứu không gián đoạn, đó gọi là Lý trì.
Nhớ niệm nghĩa là nghe danh hiệu Phật thường nhớ thường niệm, đem tâm duyên theo, từng chữ rõ ràng, câu trước câu sau tiếp nối không gián đoạn, đi đứng ngồi nằm chỉ có niệm này không có niệm thứ hai, chẳng bị các niệm tham sân phiền não làm tạp loạn, như kinh Thành Cụ Quang Minh Định Ý nói: “Ở nơi vắng vẻ mà làm tâm mình chuyên nhất, ở trong những sự phiền não mà làm tâm mình chuyên nhất, cho đến ở những nơi khen ngợi hoặc chê bai, lợi ích hoặc tổn thất, tốt đẹp hoặc xấu xa, đều làm cho tâm mình được chuyên nhất”, chính là ý này. Về mặt Sự thì được, nhưng nơi Lý chưa thấu suốt, chỉ được Tín lực, chưa thấy đạo nên gọi là Sự nhất tâm.
Thể cứu là nghe danh hiệu Phật, không chỉ nhớ niệm mà ngay khi niệm nhìn trở lại quán sát cứu xét, xét kỹ cội nguồn, thể cứu tột cùng, bỗng nhiên khế hợp với bản tâm mình. Trong đây lại có hai:
Một là ban đầu Chân như–trí tuệ không hai. Ngoài tâm hay niệm không có Phật được niệm, đó là ngoài trí tuệ không có Chân như; ngoài Phật được niệm không có tâm hay niệm, đó là ngoài Chân như không có trí tuệ. Chẳng phải Chân như chẳng phải trí tuệ, cho nên chỉ là nhất tâm.
Hai là lặng lẽ và chiếu soi khó nghĩ bàn. Nếu nói là có thì tâm hay niệm bản thể tự rỗng không, Phật được niệm hoàn toàn chẳng thể được. Nếu nói là không thì tâm hay niệm sáng tỏ không mờ, Phật được niệm rõ ràng phân minh. Nếu bảo rằng cũng có cũng không, hữu niệm vô niệm đều dứt. Nếu bảo rằng chẳng phải có chẳng phải không, hữu niệm vô niệm đều tồn tại. Chẳng phải có thì thường lặng lẽ, chẳng phải không thì thường chiếu soi, chẳng phải cả hai cũng chẳng phải chẳng cả hai thì chẳng lặng lẽ chẳng chiếu soi mà chiếu soi lặng lẽ, dứt bặt ngôn ngữ suy tư, không thể đặt tên mô tả, cho nên chỉ là nhất tâm. Như thế tâm năng sở tiêu tan, cái thấy có không đều dứt, thể tánh vốn thanh tịnh lại có pháp nào để làm tạp loạn, do thấy rõ chỗ chân thật nên gọi là Lý nhất tâm. Bởi vì Sự nương nơi Lý mà phát khởi, Lý nhờ Sự mà được hiển bày, Sự–Lý trợ giúp lẫn nhau, không thể nghiêng lệch hay phế bỏ bên nào cả. Nhưng chấp Sự mà niệm có thể tiếp nối, chẳng uổng công phu được vào phẩm vị, còn chấp Lý mà tâm thật chưa rõ, trái lại vướng phải tai họa rơi vào chỗ rỗng không.
Niệm lớn tiếng cảm thấy rất phí sức, niệm thầm lại dễ hôn trầm, chỉ là miên mật khít khao, sẽ động môi, tiếng niệm ở nơi răng và lưỡi đó chính là phương pháp kim cang trì. Lại không nên chấp chặt, hoặc cảm thấy tổn sức không ngại niệm thầm, hoặc cảm thấy hôn trầm thì không ngại niệm lớn tiếng. Hiện nay, người niệm Phật tay đánh mõ, miệng kêu gào cho nên không được lợi ích, cần phải mỗi câu miệng niệm tai nghe, mỗi tiếng mỗi tiếng đánh thức tâm mình. Ví như một người ngủ say, một người gọi thức dậy, người kia liền tỉnh giấc. Cho nên, niệm Phật là phương pháp thu nhiếp tâm rất hay.
Tạp niệm là bệnh, niệm Phật là thuốc. Niệm Phật chính để trị tạp niệm mà người không thể trị được, vì niệm không khẩn thiết. Khi tạp niệm sinh khởi, liền dụng công gia tâm niệm Phật, mỗi chữ mỗi câu chuyên nhất không hai, tạp niệm tự dứt.
Mỗi niệm mỗi niệm đều niệm Phật, hoàn toàn không có tạp niệm, đó gọi là nhất tâm. Nhất tâm niệm Phật, lại nhất tâm tu nhiều pháp môn khác, đó là nhị tâm. Không có tạp niệm, chỉ được Sự nhất tâm, nay còn chưa được vậy huống gì Lý nhất tâm. Thế nên, người niệm Phật giữ chí không hai, đừng vì khó thành tựu Tam-muội mà vội vàng thay đổi tu theo những hạnh khác.
Kẻ sơ học hậu sinh, vừa đem một câu Phật đặt vào lòng thì càng cảm thấy vọng tưởng dâng trào. Họ liền bảo: “Công phu niệm Phật chẳng thể nhiếp tâm”. Đâu biết rằng, cội gốc sinh tử từ vô lượng kiếp đến nay làm sao dứt trừ ngay được. Vả lại, ngay khi muôn ngàn vọng niệm lăng xăng, chính là lúc thực hành công phu. Thâu nhiếp rồi lại tán loạn, tán loạn lại thâu nhiếp, thực hành lâu dài, công phu thuần thục, tự nhiên vọng niệm sẽ không sinh khởi. Tâm hay biết được vọng niệm là nhờ ở câu niệm Phật này. Nếu khi không niệm Phật, vọng niệm cuồn cuộn dâng trào, khoảnh khắc cũng không dừng nghỉ mà có nhận biết được đâu?
Người xưa dạy thân cận minh sư, cầu thiện tri thức. Song thiện tri thức thật không có pháp môn bí mật miệng truyền tâm trao, chỉ cởi mở trói buộc cho người, tức là bí mật. Nay chỉ “chấp trì danh hiệu, nhất tâm không loạn”, tám chữ này chính là pháp môn bí mật cởi mở trói buộc. Đó là con đường rộng lớn thênh thang ra khỏi sinh tử. Sáng niệm, tối niệm, đi niệm, ngồi niệm, niệm niệm tiếp nối tự thành chánh định, chớ tìm cầu chi khác nữa.
Tâm vốn không sinh, do duyên hợp mà sinh. Tâm vốn không tử do duyên tan mà tử. Dường như có sinh tử, nhưng vốn thật không đến đi. Thể hội được điều này thì sống bình thuận, chết an lành, thường lặng lẽ, thường soi sáng. Nếu chưa được như thế nên buông bỏ toàn thân, thầm thầm trì niệm một câu A-di-đà Phật cầu sinh về Tịnh độ. Giả sử các duyên chưa hết, thọ mạng chưa dứt thì nên niệm Phật gấp bội sẽ có lợi ích lớn. Người xưa nói: “Pháp môn niệm Phật là thuốc trường sinh của bậc Đại Giác”.
Nói về sự sinh tử chẳng rời một niệm, cho đến muôn pháp thế gian và xuất thế gian đều chẳng lìa một niệm. Hiện nay là dùng niệm này mà niệm Phật, thiết thực gần gũi làm sao! Nếu thấu suốt chỗ niệm này sinh khởi, tức là Tự tánh Di-đà, tức là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang. Cho dù không ngộ, nhưng nương niệm lực này vãng sinh Cực Lạc, dứt ngang dòng sinh tử, không còn bị luân hồi, rốt cuộc sẽ đại ngộ thôi. Mong ông buông bỏ muôn duyên, trong 24 giờ, mỗi niệm mỗi niệm luôn tự nhắc nhở, đó là điều tôi rất mong muốn!
Xưa nay bảy mươi hiếm thấy, trăm tuổi được mấy ai. Hôm nay, trong cảnh xế chiều này, chính nên buông bỏ những điều ấp ủ ở trong lòng, nhìn thấu thế gian rõ ràng là một tuồng hí kịch có gì chân thật. Chỉ lấy một câu A-di-đà Phật tiêu khiển tháng ngày, chỉ lấy thế giới Cực Lạc phương Tây làm quê nhà của mình. Nay tôi niệm Phật, sau này sẽ sinh về Tây Phương. Sao được may mắn như thế! Phát khởi tâm vô cùng hoan hỷ, chớ sinh phiền não. Nếu gặp việc không như ý, liền xoay chuyển tâm tư, một tiếng niệm Phật này mau chóng niệm lên. Lại hồi quang phản chiếu: “Ta là người trong thế giới Phật A-di-đà, tại sao lại có sự thấy biết giống như người thế tục?”. Đổi giận làm mừng, nhất tâm niệm Phật. Đây là pháp môn đại giải thoát, đại an lạc của bậc trí tuệ.
Nguyên do của bệnh tật phần nhiều từ sát sinh mà ra, cho nên cần chú trọng việc phóng sinh. Nhờ chư Tăng thay thế sám hối bên ngoài, so với tự mình sám hối trong lòng, công đức khác nhau xa. Nguyện làm trống không tâm mình, dứt hết tất cả các duyên, ở trong tâm rỗng không ấy chỉ niệm một câu A-di-đà Phật. Bảo rằng niệm, không cần động môi lưỡi, chỉ âm thầm dùng mắt tâm soi sáng lại, mỗi chữ mỗi chữ rõ ràng, mỗi câu mỗi câu liên tục, từ sáng đến tối, từ tối đến sáng, tâm tâm không gián đoạn. Nếu có thống khổ đều nhẫn nại chịu đựng, một lòng chuyên niệm. Trong kinh nói: “Chí tâm niệm Phật một câu, tiêu diệt tội nặng của sự sinh tử trong tám mươi ức kiếp”, cho nên công đức khác nhau xa.
Phàm người học Phật không cần trang nghiêm dáng vẻ, chỉ quý chân thật tu hành. Cư sĩ tại gia không nhất định phải thế phát xuất gia, người còn tóc vẫn có thể thường niệm Phật, không nhất định phải đánh chuông gõ mõ. Người ưa yên tĩnh vẫn có thể lặng lẽ niệm Phật, không nhất định phải nhóm họp đông đúc. Người sợ việc vẫn có thể đóng cửa niệm Phật, không nhất định vào chùa nghe kinh. Người biết chữ vẫn có thể y theo lời dạy niệm Phật. Hành hương ngàn dặm, chẳng bằng ngồi yên trong nhà niệm Phật. Cung phụng thầy tà, chẳng bằng hiếu thuận mẹ cha mà niệm Phật. Kết giao rộng với bạn ma, chẳng bằng riêng mình thanh Tịnh niệm Phật. Gởi trước giấy vàng mã cho đời sau, chẳng bằng hiện tại làm phước niệm Phật. Hứa nguyện dâng cúng trả lễ, chẳng bằng hối lỗi sửa đổi mà niệm Phật. Học tập văn thư ngoại đạo, chẳng bằng không biết một chữ mà niệm Phật. Không biết mà luận bừa lý thiền, chẳng bằng chân thật trì giới niệm Phật. Mong cầu sự linh thông của yêu quỷ, chẳng bằng tin đúng nhân quả mà niệm Phật. Nói tóm lại, tâm ngay thẳng diệt trừ điều ác, niệm Phật như thế gọi là Thiện nhân. Thâu nhiếp tâm, trừ tán loạn, niệm Phật như thế gọi là Hiền nhân. Tỏ ngộ tâm, đoạn dứt mê lầm, niệm Phật như thế gọi là Thánh nhân.
Một là, khuyên người hoàn toàn rảnh rang niệm Phật: Việc cưới gả đã xong, con cháu gánh vác được việc nhà, an nhàn vô sự, chính nên đem hết tâm hết sức mà niệm Phật. Mỗi ngày niệm mấy ngàn tiếng, cho đến mấy muôn tiếng.
Hai là, khuyên người không bận lắm niệm Phật: Tuy không hoàn toàn rảnh rang, cũng có thể lúc bận thì lo công việc, khi rảnh thì niệm Phật. Mỗi ngày niệm mấy trăm tiếng, cho đến mấy ngàn tiếng.
Ba là, khuyên người rất bận rộn niệm Phật: Nhọc nhằn việc triều chính, bôn ba vì sự nghiệp, tuy không rảnh rang, cũng phải tranh thủ niệm Phật trong lúc bận rộn. Mỗi ngày, sớm tối mười niệm, cho đến cả ngày niệm mấy trăm tiếng.
Pháp môn niệm Phật này không luận nam, nữ, Tăng, tục; không luận sang hèn, ngu trí, ai cũng có thể niệm Phật.
Nếu người giàu có vật dụng đầy đủ, phải nên niệm Phật. Nếu người bần cùng nhà tranh ít phiền, phải nên niệm Phật.
Nếu người có con thì việc hương hỏa đã có người, phải nên niệm Phật. Nếu người không con một mình tự do, phải nên niệm Phật.
Nếu người có con hiếu thảo an ổn tiếp nhận sự cung phụng, phải nên niệm Phật. Nếu người có con ngỗ nghịch thì khỏi phải thương yêu, phải nên niệm Phật.
Nếu người không bệnh thân thể khỏe mạnh, phải nên niệm Phật. Nếu người có bệnh cận kề vô thường, phải nên niệm Phật.
Nếu người tuổi già thời gian không còn nhiều, phải nên niệm Phật. Nếu người tuổi trẻ tinh thần sáng láng, phải nên niệm Phật.
Nếu người rảnh rang, tâm không phiền lụy, phải nên niệm Phật. Nếu người bận rộn tranh thủ thời giờ rảnh, phải nên niệm Phật.
Nếu người xuất gia, tiêu diêu ngoài sự vật, phải nên niệm Phật. Nếu người tại gia biết là nhà lửa, phải nên niệm Phật.
Nếu người thông minh hiểu rõ Tịnh độ, phải nên niệm Phật. Nếu người ngu khờ chẳng có tài năng, phải nên niệm Phật.
Nếu người trì luật, luật là do Phật chế định, phải nên niệm Phật. Nếu người xem kinh, kinh là lời Phật nói, phải nên niệm Phật. Nếu người tham thiền, thiền là tâm Phật, phải nên niệm Phật. Nếu người ngộ đạo, ngộ phải cần sự ấn chứng của Phật, phải nên niệm Phật.
Khuyên khắp mọi người gấp rút niệm Phật vãng sinh chín phẩm, hoa nở thấy Phật, thấy Phật nghe pháp, rốt ráo thành Phật, mới hay tâm mình xưa nay là Phật.
Chỉ xưng niệm tôn hiệu liền trở thành quy kính, sáu chữ bốn chữ thật không khác biệt, chỉ vì lâu ngày nên trong giáo pháp sinh nhiều tệ đoan, trở nên khinh lờn, khua chiêng gõ trống như xướng như ca, tán tụng thét gào tợ như chửi mắng. Chư Thiên nghe đến đâu không buồn bã? Song mà, xưng niệm đùa giỡn, giận tức luận đạo, cũng gieo trồng nhân lành, quả báo tương lai chẳng thể nghĩ bàn. Phàm tình chưa hiểu, người sáng suốt ắt rõ được. 

Trích dẫn “Mộng du tập” của Đại sư Hám Sơn

   Phật nói pháp tu hành ra khỏi sinh tử, phương tiện nhiều môn, chỉ có pháp niệm Phật cầu sinh Tịnh độ là thẳng tắt nhất. Trong kinh nói: “Nếu muốn tịnh cõi Phật, phải thanh tịnh tâm mình”. Ngày nay, tu hành Tịnh nghiệp, nên lấy việc thanh tịnh tâm làm gốc. Muốn tịnh tự tâm, trước nhất phải giữ giới thanh tịnh. Vì mười việc ác của thân miệng ý là nhân khổ của ba đường ác, chỗ cốt yếu của việc trì giới trước nhất phải làm cho ba nghiệp thanh tịnh, thì tâm tự tịnh. Nếu thân không giết hại, trộm cướp, tà dâm, nói dối thì thân nghiệp thanh tịnh. Miệng không nói dối, nói lưỡi đôi chiều, nói lời ác độc, nói lời thêu dệt thì khẩu nghiệp thanh tịnh. Ý không tham lam, không sân hận, si mê thì ý nghiệp thanh tịnh. Mười việc ác này dứt hẳn, ba nghiệp trong sạch, đó là điều thiết yếu của sự tịnh tâm. Ở trong tâm thanh tịnh này dấy khởi tâm chán khổ nơi cõi Ta-bà, phát nguyện vãng sinh miền An Dưỡng, lập chánh hạnh niệm Phật. Tâm niệm Phật phải thiết tha vì sinh tử. Đầu tiên, ngoài đoạn ngoại duyên, kế đến bên trong đơn độc đề khởi nhất niệm. Dùng một câu A-di-đà Phật làm mạng căn, niệm niệm không lãng quên, tâm tâm chẳng gián đoạn. Trong 24 giờ, đi đứng nằm ngồi, khi ăn lúc uống, cúi ngửa tới lui, động tĩnh bận rảnh, trong mọi thời không u mê, không ngu muội, hoàn toàn không có duyên gì khác, dụng tâm như thế lâu ngày thuần thục, cho đến trong mộng cũng không quên mất, thức ngủ như nhau tức là công phu miên mật, trở thành một khối tức là lúc công phu đắc lực. Nếu niệm đến nhất tâm không loạn, lúc lâm chung cảnh giới Tịnh độ hiện ra trước mắt, tự nhiên không bị sinh tử ràng buộc, bèn cảm Phật A-di-đà phóng quang tiếp dẫn. Đây là hiệu quả chắc chắn vãng sinh.
Tu tuệ ở chỗ quán tâm, tu phước ở nơi vạn hạnh. Quán tâm lấy niệm Phật làm bậc nhất, vạn hạnh lấy cúng dường làm trước tiên, hai điều ấy chính là bao gồm hết thảy. Tất cả mọi sinh hoạt hằng ngày của chúng ta, khởi tâm động niệm đều là vọng tưởng, là gốc sinh tử, cho nên chuốc lấy quả báo khổ. Nay đem tâm vọng tưởng đổi thành niệm Phật thì mỗi niệm đều trở thành nhân Tịnh độ, đó là quả báo vui. Nếu niệm Phật tâm không gián đoạn, vọng tưởng tiêu diệt, ánh sáng của tâm phát lộ, trí tuệ hiện tiền thì thành tựu Pháp thân Phật.
Chúng sinh sở dĩ bần cùng không có phước huệ, là do nhiều đời nhiều kiếp chưa từng có một niệm cúng dường Tam Bảo để cầu phước đức, mãi bị sinh tử làm khổ thân, niệm niệm tham cầu thú vui ngũ dục để vun bồi gốc khổ. Nay đem tâm tham cầu cho riêng mình, chuyển đổi mà cúng dường Tam Bảo, đem thân mạng hữu hạn tùy tâm tùy sức cúng dường mười phương, cho đến một nén hương, một cành hoa và lúa, gạo, thức ăn, phước ấy vô cùng, do đó cảm nên Hoa Tạng trang nghiêm Phật quả, làm nơi tự thọ dụng sau này cho mình, bỏ đây không có hạnh vi diệu để thành Phật.
Pháp môn niệm Phật cầu sinh Tịnh độ là mong thấu suốt vượt thoát sinh tử. Nếu chẳng biết cội rễ của sinh tử, rốt cuộc hướng đến chỗ nào để thấu suốt vượt thoát. Vậy cái gì là cội rễ sinh tử? Người xưa nói: “Nghiệp chẳng nặng chẳng sinh Ta-bà, ái chẳng đoạn chẳng sinh Tịnh độ”. Vậy ái là gốc sinh tử. Từ lúc mới có sinh tử đến nay, đời đời kiếp kiếp, bỏ thân này thọ thân khác đều do ái dục, nên bị lưu chuyển đến ngày nay. Nay niệm Phật, niệm niệm phải đoạn gốc ái này. Nghĩa là hằng ngày ở nhà niệm Phật, thấy con cháu, việc nhà, của cải không có gì chẳng thuộc về ái. Như thế, không có một việc gì, không có một niệm nào chẳng phải là thứ dẫn đến sinh tử. Khi đang niệm Phật, trong tâm chưa từng có một niệm buông bỏ gốc ái. Niệm Phật như thế, càng niệm ái càng tăng trưởng. Lại như lúc tình cảm con cháu khởi lên, phải xoay trở lại quán xét kỹ câu niệm Phật, quả thật có thể chống chọi và đoạn trừ được ái này chăng? Nếu không đoạn được, làm sao vượt thoát sinh tử? Vì duyên ái đã nhiều kiếp huân tập sâu dày, còn niệm Phật chỉ mới phát tâm, lại chẳng tha thiết chân thật, nên không đắc lực. Nếu hiện tại không làm chủ được cảnh ái, khi gần chết chắc chắn chỉ thấy gốc ái sinh tử hiện ra, rốt cuộc chẳng làm chủ được. Cho nên, khuyên người niệm Phật, đầu tiên là tâm phải tha thiết đối với việc sinh tử, phải tha thiết đối với việc đoạn dứt sinh tử, cần phải trong mỗi niệm đoạn dứt cội gốc sinh tử. Như thế, mỗi niệm mỗi niệm là lúc liễu ngộ sinh tử, gọi là trước mắt đều là việc sinh tử, trước mắt thấu suốt sinh tử không. Như thế, mỗi niệm chân thật thiết tha thì hiệu quả rõ ràng. Nếu không thoát khỏi sinh tử thì chư Phật mắc tội nói dối.
Học đạo không có khả năng đặc biệt gì khác, chỉ là phải làm cho đạo lực tăng trưởng, nghiệp lực tiêu mòn, lâu ngày thuần thục trở thành một khối, tự nhiên mỗi niệm đều là Di-đà, nơi nào cũng là Cực Lạc. Gần đây, nhận thấy người học đạo chỉ biết tham cầu huyền diệu, chẳng biết quyết tâm công phu ở chỗ căn bản, đến khi gặp cảnh vinh nhục, họa hoạn sinh tử liền thấy họ bấn loạn tay chân, đó chẳng phải là do người khác làm thành mà chính họ tự lầm đó thôi. Cội gốc sinh tử tức là mọi thứ vọng tưởng trong hàng ngày của chúng ta. Các thứ nghiệp phiền não, nhân ngã, yêu ghét, tham dục, nóng giận, si mê, nếu còn một mảy may chưa đoạn dứt tức là cội gốc sinh tử. Nay muốn tham thiền đốn ngộ vượt thoát sinh tử, xin tự lường xét! Quả như có thể ngay một niệm nhanh chóng đoạn dứt phiền não trong nhiều kiếp, như cắt đứt tơ rối hay chăng? Nếu chẳng thể đoạn dứt phiền não, dù có thể đốn ngộ cũng trở thành nghiệp ma, sao lại xem thường? Từ trước, chư Tổ đốn ngộ cũng do tích lũy công phu tu hành dần dần trong nhiều đời mà được, cho nên việc đốn ngộ nói thì dễ nhưng thật rất khó. Nếu không có hai ba chục năm quyết tâm công phu, làm sao được một niệm đốn ngộ ở trong chỗ nhiệt não? Quan trọng là tự biết căn cơ mình thế nào mà thôi!
Còn như pháp môn niệm Phật, người đời chẳng biết chỗ vi diệu cho là cạn cợt, kỳ thực mỗi bước đều đạp trên đất chân thật. Tại sao? Vì chúng ta từ khi chào đời đến nay, mỗi niệm mỗi niệm vọng tưởng phan duyên tạo nghiệp sinh tử, chưa từng có một niệm soi sáng lại tâm mình, chưa từng có một niệm chịu đoạn dứt phiền não. Nay quả như có thể đem tâm vọng tưởng đổi thành niệm Phật, thì trong mỗi niệm đoạn dứt phiền não. Nếu trong mỗi niệm đoạn được phiền não, tức là mỗi niệm thoát khỏi sinh tử. Nếu có thể giữ một niệm niệm Phật không đổi dời, nhất tâm không loạn, so với việc tham thiền còn rốt ráo hơn. Tóm lại, chỉ nơi một niệm chân thật thiết tha mà thôi. Song tham thiền nhất định phải chết hết tâm thế gian, chẳng chứa một niệm vọng tưởng; niệm Phật là đem ý tưởng thanh tịnh chuyển đổi ý tưởng nhiễm ô, dùng ý tưởng, dẹp trừ ý tưởng chính là một cách thay đổi, tùy theo căn cơ của chúng ta thích hợp để làm thôi.
Tu Tịnh độ không cần cầu tỏ ngộ tâm tánh, chuyên dùng niệm Phật làm chánh hạnh, lại lấy bố thí trai Tăng, tu các phước điền công đức để trợ giúp trang nghiêm cõi Phật. Người niệm Phật trong lòng tuy phát nguyện vãng sinh, nhưng phải biết chặt đứt gốc sinh tử trước, mới có hiệu quả nhanh chóng. Gốc sinh tử là sự tham đắm các thứ thọ dụng ở thế gian và sắc đẹp, tiếng hay, ăn ngon, mặc đẹp ở hiện nay, tất cả đều là gốc khổ. Phải tận lực dứt bỏ hết thảy tâm sân nộ, phẫn hận, chấp trước, si ái, và mọi giáo pháp tà vạy của tà ma ngoại đạo tà sư nói. Chỉ tin sâu một môn niệm Phật, mỗi ngày tụng hai quyển kinh Di-đà, niệm Phật bao nhiêu câu, hoặc không tính số, chỉ là tâm tâm không quên danh hiệu Phật. Phật là giác, nếu mỗi niệm không quên Phật, tức niệm niệm giác ngộ sáng suốt. Nếu tâm quên Phật tức là bất giác. Nếu niệm đến chỗ trong mộng có thể niệm tức là thường giác không mê. Hiện tại, nếu tâm này không mê thì lúc lâm chung tâm này chẳng mờ, ngay chỗ tâm này không mê mờ chính là hướng đi. Nay việc nước đa đoan, quyết không thể tham thiền, mà chỉ nên niệm Phật là hay nhất. Không câu nệ trong động tịnh bận rảnh, mọi nơi đều niệm được, chỉ là nhất tâm không quên thì đâu còn pháp hay khéo nào khác nữa!
Tham thiền phải lìa vọng tưởng, niệm Phật ở chỗ chuyên tưởng. Do chúng sinh đã chìm trong vọng tưởng từ lâu, lìa nó thật khó khăn. Nếu ngay nơi ý tưởng nhiễm ô chuyển biến trở thành ý tưởng thanh tịnh, đó là lấy độc trị độc, là phương pháp thay đổi mà thôi. Thế nên, tham cứu khó ngộ, niệm Phật dễ thành. Quả thật tâm vì sinh tử khẩn thiết, dùng tâm tham cứu mà niệm Phật, còn lo gì một đời này không vượt thoát sinh tử!


Niệm Phật tức là tham thiền, hoàn toàn không có hai pháp. Khi niệm Phật, trước đồng loạt buông bỏ tất cả phiền não, vọng tưởng, tham dục, sân hận, si mê, luyến ái, các thứ ý niệm tạp loạn trong lòng của chính mình, buông bỏ đến chỗ không thể buông bỏ, chỉ đề khởi một câu A-di-đà Phật rõ ràng phân minh, trong lòng không gián đoạn như chỉ xỏ ngọc, lại như đầu mũi tên cắm vào tâm điểm không có mảy may kẽ hở. Gắng sức giữ vững như thế, ở mọi nơi chẳng bị cảnh duyên dẫn dắt quên mất, hằng ngày lúc động tĩnh không xen tạp, không rối loạn, mộng thức như nhau, niệm đến lúc sắp lâm chung nhất tâm không loạn, tức là lúc siêu sinh Tịnh độ.
Pháp môn này, thứ nhất phải có chí quyết định; thứ hai phải buông bỏ được; thứ ba phải tùy duyên, tùy duyên thì an mệnh; thứ tư phải nhận rõ không mê lầm; thứ năm phải có tâm chán khổ khẩn thiết, tâm chán khổ khẩn thiết, tự nhiên diệt trừ ý niệm tham dục, chẳng còn lui sụt. Dùng năm yếu quyết này đơn độc giữ gìn một niệm.
Phương pháp tu hành cũng có thứ bậc, như công khóa của người xuất gia không cần câu nệ hình thức bên ngoài, chỉ lấy niệm Phật làm chính. Mỗi ngày dậy sớm lễ Phật, tụng một quyển kinh Di-đà, cầm chuỗi niệm danh hiệu Phật A-di-đà hoặc ba ngàn, năm ngàn câu, hoặc một vạn, niệm xong liền đối trước Phật hồi hướng phát nguyện vãng sinh Tịnh độ. Đó là thời khóa buổi sáng, tối cũng như vậy, ngày ngày lấy đó làm thời khóa cố định, nhất quyết không thể thiếu. Đem pháp này chỉ bảo cho quyến thuộc như pháp cùng tu càng hay, đó là pháp thực hành thường nhật. Nếu vì việc lớn sau cùng, thực hành công phu càng phải khẩn thiết, mỗi ngày ngoài hai thời công khóa, trong 24 giờ chỉ đem một câu A-di-đà Phật đặt trong lòng, niệm niệm chẳng lãng quên, tâm tâm không mờ tối, chẳng nghĩ nhớ tất cả việc đời, chỉ lấy một câu Phật làm mạng căn của chính mình, nắm chặt nơi lòng quyết không buông bỏ, cho đến khi ăn uống sinh hoạt, đi đứng ngồi nằm, một câu Phật này luôn luôn hiện tiền. Nếu lúc gặp những cảnh giới phiền não, thuận nghịch, mừng giận, tâm bất an, phải cố đề khởi niệm Phật khẩn thiết, ngay đó phiền não liền bị tiêu diệt. Vì mỗi niệm phiền não vốn là gốc khổ của sinh tử, nay dùng niệm Phật để tiêu diệt phiền não, tức là nơi Phật cứu độ khổ não sinh tử. Nếu niệm Phật mà tiêu được phiền não thì có thể cắt đứt sinh tử, chẳng còn pháp nào khác. Niệm Phật cho đến lúc làm chủ được phiền não, thì ngay trong mộng cũng tự làm chủ được. Nếu trong mộng tự làm chủ được, thì ngay trong lúc bệnh khổ cũng tự chủ được. Nếu trong lúc bệnh hoạn khổ đau tự chủ được, thì lúc lâm chung tâm sáng suốt rõ ràng, bèn biết lối đi. Việc này hành không khó, chỉ cần là tâm phải tha thiết vì sự sinh tử.
Đơn độc nương tựa một câu Phật hiệu, chớ hướng ra ngoài nghĩ ngợi những chuyện khác, lâu ngày thuần thục, tự nhiên được đại an lạc tự tại và được đại hoan hỷ thọ dụng, mà dục lạc thế gian không thể sánh bằng. Bỏ qua pháp môn này, không còn pháp môn thẳng tắt giản đơn nào khác.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét