Thứ Bảy, 2 tháng 5, 2015

THẬP ĐẠI ĐỆ TỬ





THẬP ĐẠI ĐỆ TỬ
Trưởng Lão Ðại Ca Diếp 
Maha Kasyapa – Ðầu Ðà Ðệ Nhất
Khi còn tại thế, trong 45 năm thuyết pháp với hơn 300 hội, Ðức Phật để lại 8 vạn 4 ngàn pháp môn. Tùy căn cơ, trình độ hoàn cảnh, người hành giả có thể chọn tu theo một trong những pháp môn đó, có người chuyên tu thiền định, có người niệm Phật, tụng kinh, có người trì luật, có người tu phước bố thí, có người trì bình khất thực… Với tất cả hành trì, theo Phật hạnh nào cũng đáng kính nể, quý trọng. Trong số các Thánh chúng, Ma Ha Ca Diếp là người dốc lòng giữ gìn phạm hạnh, nên được Phật và Thánh chúng tôn xưng là bậc Ðầu Ðà Ðệ Nhất.
Quê Quán Dòng Họ và Danh Hiệu của Ngài Ma Ha Ca Diếp
Ở Ấn Ðộ, không xa thành Vương Xá, nước Ma Kiệt Ðà, tại thôn Sa La Ðà, có một gia đình thuộc dòng họ Bà La Môn rất giàu có, đó là Ni Câu Lự Ðà Kiệt Ba có tài sản có thể so sánh với Vua Tần Bà Sa La lúc bấy giờ. Ðại Ca Diếp sinh trong gia đình phú hào này. Tên đầu tiên của Ngài là Tất Bát La Da Na, vì thân mẫu Tôn giả đi chơi quanh gốc cây Tất Bát La thì hạ sanh Tôn giả, vì thế lấy tên cây đặt cho đứa bé. Vì là con một trong gia đình, Ðại Ca Diếp rất được cha mẹ thương yêu, nuôi dưỡng, nhũ mẫu có đến 4 bà, còn bồng bế cho ăn, tắm rửa, trò chơi có rất nhiều người. Ðại Ca Diếp phước tướng đầy đủ, tư chất thông minh, lúc lên 8 đã được học văn học, toán thật, thi họa, âm nhạc, thiên văn, tướng số… Các Ðạo sĩ Bà La Môn còn dạy cho Ngài phép tế đàn 4 mùa, Thánh điển Vệ Ðà, Nhân minh học v.v… Với các môn học, Ðại Ca Diếp đều thấu hiểu rất nhanh.
Lúc khôn lớn, Ðại Ca Diếp khác hẳn những người cùng lứa tuổi. Với các lạc thú ở đời Ngài không ham thích, kể cả vấn đề âu yếm. Ðại Ca Diếp thường tỏ chán ghét, bất tịnh, thích xa đám đông, riêng ở một mình. Ngay cả Cha mẹ, Ðại Ca Diếp cũng không tưởng nhớ, trong những lúc xa nhà. Bởi thế khi phải vâng lời cha mẹ lập gia đình, Ðại Ca Diếp cũng không chung giường với Người vợ mới cưới tên là Diệu Hiền, một cô gái sắc nước hương trời không ai sánh kịp. Mỗi người mang một tâm trạng riêng, từ ngày cưới Diệu Hiền cho đến hơn cả chục năm về sau khong ai nói với ai một lời nào. Im lặng lâu quá không thể nín thinh mãi được, Ðại Ca Diếp hỏi Diệu Hiền lý do tại sao mặt lúc nào cũng buồn. Diệu Hiền trả lời:
Chàng đã phá hoại chí nguyện của tôi, sự giàu sang của chàng đã mê hoặc cha mẹ tôi, từ trước tôi vẫn thích phạm hạnh, ghét ngũ dục, nên hiện làm dâu gi đình nầy tôi rất lấy làm buồn!
Nghe ước vọng của Diệu Hiền không trái với ước vọng của chính mình, Ðại Ca Diếp nói:
Thế là hai ta đã có cùng chung một ước nguyện, cùng nhìn chung về một hướng, tôi vẫn không thiết tha với việc lập gia đình, nhưng vì là con một tạm để cho cha mẹ khỏi buồn, tôi phải tạm theo ý của gia đình mà thôi. Giờ đây chúng ta hãy tiếp tục sống theo phạm hạnh và dù là vợ chồng chúng ta cũng giữ sự thanh tịnh.
Mãi 12 năm sau, khi cha mẹ đều từ giã cõi đời, Ðại Ca Diếp rời gia đình đi tìm thầy học đạo, trước khi tạm biệt Ðại Ca Diếp có hứa sẽ trở về hướng dẫn Diệu Hiền khi tìm được minh sư.
Ðạo Nghiệp của Ðại Ca Diếp
Ðại Ca Diếp xuất gia trì hạnh Ðầu Ðà
Năm 30 tuồi, Ðại Ca Diếp từ giã thân thuộc vào rừng tìm đạo, chính là lúc Ðức Phật Thích Ca thành đạo dưới cội Bồ Ðề. Mãi đến hai năm sau Ðại Ca Diếp vẫn chưa có đạo sĩ nào giúp thỏa mãn nguyện vọng, nhân cuộc khởi xướng dâng y rầm rộ của ngự y Kỳ Bà. Ðại Ca Diếp biết Phật và tìm đến thành Vương xá, ngày ngày Ngài theo Thánh chúng đến nghe pháp mà chưa chính thức ra mắt với Phật, vì lòng còn muốn dò xét. Từ trên tòa giảng, Ðức Phật nhìn xuống thấy và biết Ðại Ca Diếp là người có thể kế thừa đạo nghiệp của Như Lai.
Tại hội Linh Sơn, khi đức Phật đưa lên một cành hoa, Ðại Ca Diếp mỉm cười, Phật biết chánh pháp đã có người tâm đắc kế thừa sau này. Một hôm sau khi mãn buổi thuyết pháp Phật đi đường tắt đón Ðại Ca Diếp ở một ngã đường. Trên đường về gặp Phật Ðại Ca Diếp chính thức bái yết Phật, xin được xuất gia tiếp tục học đạo. Qua cuộc gặp gỡ, Tôn giả theo Phật trở lại Tinh Xá Trúc Lâm, ở đây Ðức Phật đem pháp Tứ Ðế, Thập nhị nhân duyên, khai thị cho Tôn giả. Vốn thích tu hạnh Ðầu Ðà sau khi gặp Phật, Tôn giả vẫn tiếp tục thực hành pháp tu phạm hạnh. Hạnh đầu đà có năng lực tịnh hóa tâm hồn, khi tu theo hạnh này cần giữ đủ 10 điều.
1.      Chọn ở nơi hoang vắng.
2.      Sinh hoạt bằng phép trì bình.
3.      Thường ở tại một nơi.
4.      Ngày ăn một bữa.
5.      Khất thực không phân biệt giàu nghèo.
6.      Tài sản gồm có 3 y, một bình bát.
7.      Tư duy dưới gốc cây.
8.      Thường ngồi giữa đồng trống.
9.      Mặc áo phấn tảo.
10.  Sống tại các bãi tha ma.
Với 10 điều kiện trên, Tôn giả tuân giữ trọn vẹn chỉ có 9 điều, riêng điều khất thực số 5 Tôn giả không theo giáo đoàn, Tôn giả chỉ đến khất thực trước nhà người nghèo. Theo Ngài người giàu đã thừa phước đức, ta không cần phải mang phước đến cho họ, còn người nghèo vì thiếu phước đức ta cần đem phước điền cho họ gieo trồng. Trong hàng đệ tử Phật người đi khất thực ngược với Ðại Ca Diếp là Ngài Tu Bồ Ðề, chỉ đi khất thực nhà giàu. Nghe Tôn giả chỉ khất thực nhà nghèo, Ðức Phật khiển trách và khuyên nên đem tâm bình đẳng khất thực, từ bỏ tâm phân biệt. Với Tôn giả Phật còn khuyên không nên quá khổ hạnh, vì khổ hạnh là một cực đoan Ðức Phật đã bỏ sau khi bị kiệt sức ở xứ Ba La Nại, tu với 5 anh em Kiều Trần Như. Ngài đã tìm ra con đường trung đạo, và đạt được địa vị giác ngộ giải thoát. Với pháp khất thực bình đẳng có lúc Tôn giả tuân hành, riêng hạnh đầu đà Ngài vẫn giữ cho đến hơi thở cuối cùng, không ai lay chuyển được, cho nên Ngài được tôn xưng là bậc Ðầu Ðà Ðệ Nhất. Tầm vóc ảnh hưởng của Tôn giả rất lớn, lấn lướt hết ảnh hưởng người khác, như ánh sáng chói chang của mặt trời khỏa hết các ánh sáng khác, vì thế Ngài còn được dịch là Ẩm Quang.
Tiếp độ Diệu Hiền
Khi Ðức Phật trở về Ca Tỳ La Vệ giáo hóa cho các vương tôn công tử. Tôn giả có đi theo. Ðể hợp với giáo pháp bình đẳng, và cũng theo lời thỉnh cầu của A Nan, Ðức Phật cho Di Mẫu Ma Ha Ba Xà Ba Ðề xuất gia hiệu là Kiều Ðàm Di, vị nữ đầu tiên trong giáo đoàn của Phật. Thấy Di mẫu của Phật được xuất gia, tôn giả có ý mừng vì đã mở lối để Ngài thực hiện lời ước hẹn với Diệu Hiền lúc từ tạ gia đình để đi xuất gia.
Chờ đợi 3, 4 năm không thấy Ðại Ca Diếp trở về, Diệu Hiền cho phân tán tài sản, bố thí giúp đỡ cho bà con và những người nghèo rồi đi xuất gia theo phái ngoại đạo lõa hình ở bên bờ sông Hằng. Ðược tin Diệu Hiền đi tu nhưng vì sắc đẹp mà phải chịu nhiều sĩ nhục, Tôn giả nhờ một Tỳ kheo ni đi đón nàng. Khi về đến ni viện cũng vì sắc đẹp kiều diễm nàng vẫn không tránh khỏi sự xì xầm nơi chốn đông người. Tự thấy thân nữ trở ngại đạo nghiệp rất nhiều, Diệu Hiền không ra ngoài khất thực nữa, không tiếp xúc với đại chúng tránh chỗ đông đảo. Cảm kích tình cảnh của Diệu Hiền, hàng ngày Tôn giả chia nữa phần cơm và nhờ người mang đến cho Diệu Hiền. Ðời lại lắm chuyện, những người tò mò có tánh thị phi sinh tâm tật đố và cho là giữa hai người chắc còn tình ý. Ðể tránh tiếng đàm tiếu, Tôn giả không chia phần cơm cho Diệu Hiền như bấy lâu nữa. Tỳ kheo ni Diệu Hiền cũng muốn chóng được nhẹ nghiệp nữ lưu, ngày đêm không ăn ngủ, tịnh tọa sám hối tấn tu đạo nghiệp, chứng được Túc mạng thông, được Ðức Phật khen ngợi. Tôn giả Ðại Ca Diếp rất hoan hỷ, với hai mặt đạo và đời Ngài đều thực hiện viên mãn, hết mối bận tâm.
Ðộ Bà Lão Nghèo
Với chí nguyện, đem phước điền đến cho người nghèo thiếu khi đi khất thực, Tôn giả thường tránh những ngôi nhà giàu có, và dừng bưóc trước những ngôi nhà nghèo nàn lụp xụp. Một hôm vào thành Vương Xá khất thực Tôn giả thấy một bà lão ăn mày đau ốm nằm rên rỉ bên vệ đường, Tôn giả đến gần và ân cần thăm hỏi:
·       Này bà lão! tại sao trong lúc đau ốm bà lại nằm giữa đất và chỉ lấy lá che thân? Nơi đất hơi gió mưa sẽ làm cho bệnh của bà nặng thêm, bà không có nhà cửa con cháu gì cả sao?
·         Nếu đã có các thứ như Ngài vừa hỏi thì tôi đâu có nằm rên rỉ ở đây. Ngài có gì cho tôi không? Sao tôi thấy Ngài cũng có vẻ nghèo và mang bát đi xin ăn, tôi chẳng có gì cho Ngài cả. Thế Ngài có phép gì giúp tôi hết bệnh và hết nghèo đói chăng?
·         Tôi là một Tỳ kheo đang theo học đạo lý với Phật Thích Ca và đang tu khổ hạnh nên cũng đi xin như bà, nhưng lại đi bán giàu mua nghèo, bà hãy bán nghèo cho tôi để tạo nhiều phước báu giàu sang phú quý.
·         Nghèo thì lấy gì để bán? đã ba ngày qua tôi không có chút gì để bỏ vào bụng, sáng sớm hôm nay có người đi đổ nước cơm, tôi hứng được một tý đỉnh, nhưng nước đã có mùi chưa dám uống sợ tháo dạ.
·         Thế bà đem nước đó bố thí cho tôi chút đỉnh, gọi là gieo trồng phước đức, hy vọng tương lai gặp may mắn, trở nên giàu có.
Nghe Tôn giả giảng giải, tâm bà đầy hỷ lạc quên cả sự ô uế của thân mình, bà đem mẻ nước cơm dâng cúng cho Tôn giả. Ngài hoan hỷ tiếp nhận, và uống gần cạn mẻ nước cơm. Thấy thế bà lão vô cùng vui mừng, Tôn giả ngỏ lời chúc phúc cho bà rồi lên đường hành hóa.
A Nan Tặng Bát
Trong giáo đoàn của Phật, Tôn giả Ðại Ca Diếp giữ phạm hạnh bao nhiêu thì nhóm lục quần Tỳ kheo lại thường sai trái mất phạm hạnh bấy nhiêu. Có một thời Phật ở Kỳ Viên Tinh Xá, nhóm lục quần tỳ kheo thi nhau sưu tầm bình bát. Phật chế bát có hai loại, bát bằng sắt thép và bát bằng sành sứ. Nhưng khi sản xuất hình dáng bát mỗ thứ không giống nhau, chất liệu cũng có thứ tốt thứ xấu, màu sắc cũng có nhiều. Nước Tô Ma sản xuất bát thiếc, nước Ưu Già sản xuất bát màu đỏ, nước Ô Già sản xuất bát màu đen… Nhóm lục quần chẳng lo hành thiền, tu tập, ngày này qua ngày khác lo đi tìm kiếm bát tốt, đem về trưng bày để ngắm nhìn, phòng xá của các vị giống như nhà hàng bán đồ gốm, sành sứ. Biết được tình trạng tích trữ nhiều bát, Phật ban hành luật: Tỳ kheo chứa bát dư phạm Ni bát kỳ ba dật đề.
Trong lúc đó Ngài A Nan được đàn việt cúng dường 4 cái bát của nước Tô Ma rất quý, Ngài định đem bát đó dâng cúng cho Tôn giả Ðại Ca Diếp. Lúc bấy giờ Tôn giả không có mặt ở Xá Vệ, đang du hóa ở phương xa, giữ bát thừa tất phạm giới, không biết xử lý bằng cách nào, A Nan đành đem sự việc trình lên Ðức Phật. Phật hỏi:
·         Bao giờ Ðại Ca Diếp mới trở về?
·         Bạch Thế Tôn! Khoảng sau 10 ngày.
Trong giờ giảng pháp trước đại chúng, Phật hết lời khen ngợi phạm hạnh của Ðại Ca Diếp và khuyên đại chúng nên noi gương, đặc biệt là lục quần tỳ kheo. Sau cùng thể theo sự tình của A Nan đã trình bày với phép cất bát dư, Ðức Phật sửa lại điều luật và công bố:
·         Các Tỳ kheo được phép cất bát dư trong thời gian 10 ngày.
Qua sự kiện, Phật chế giới luật Tỳ kheo giữ bát dư, chúng ta biết được địa vị và ảnh hưởng của Tôn giả Ðại Ca Diếp đối với giáo đoàn rất cao.
Thừa Kế Ðức Phật
Thấy Ðại Ca Diếp đạo cao đức trọng, Phật và giáo đoàn đều vị nể, Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên yêu cầu Tôn giả tham gia việc hoằng pháp, nhưng Tôn giả từ chối vì việc đi bố giáo đã có các vị thông minh tài trí như Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, Phú Lâu Na, Ca Chiên Diên. Tôn giả chỉ chú trọng đến cuộc sống phạm hạnh, thiểu dục tri túc, vì đó cũng là cách gián tiếp truyền bá giáo lý của Ðức Phật. Tôn giả trọn giữ hạnh đầu đà, lúc nào Tôn giả cũng ở trong rừng già, kinh hành hoặc tọa thiền dưới gốc cây, quán xương trắng ở bãi tha ma chẳng quản nắng mưa, sương gió… Mãi đến lúc tuổi già râu tóc bạc phơ, thân thể gầy guộc Tôn giả vẫn không bao giờ chểnh mảng. Thấy thế không đành lòng Phật yêu cầu Tôn giả về sinh hoạt tại Tinh Xá Kỳ Viên. Dù biết rằng cung kính không bằng phụng mạng, nhưng Tôn giả thấy sống với tập thể thì phải theo khuôn khổ chung và đành phải ngưng thực hành hạnh Ðầu Ðà, hơn nữa ở chốn rừng sâu không phiền hà gì đến ai, khi cần gieo phước điền cho người thì đi vào thành khất thực, khi mệt mỏi không đi được thì kiếm hoa quả rau trái ở rừng, thọ dụng qua ngày. Thực hành phạm hạnh đầu đà đã là trực tiếp củng cố giáo đoàn, gián tiếp lợi lạc chúng sanh, củng cố tăng đoàn là điều kiện thừa kế Ðức Phật. Tôn giả xin Phật được tiếp tục con đường đã chọn. Biết không thể lay chuyển được ý hướng của Ngài, Phật hướng về đại chúng dạy rằng:
·         Này các Tỳ kheo! Ðại Ca Diếp luôn luôn lo ngại cho tiền đồ chánh pháp, thiên ma ngoại đạo hay thế lực cường quyền không thể phá hoại chánh pháp, nội tình lộn xộn, Tăng đoàn hủ hóa thiếu phạm hạnh, là điều kiện chính làm cho chánh pháp tiêu diệt “Trùng trong sư tử ăn thịt sư tử.” Vì thế nếu Tăng đoàn được củng cố, giới đức trang nghiêm, nội tình ổn định hòa hợp tất yếu chánh pháp được trường tồn. Ðể củng cố Tăng đoàn, sinh hoạt phải nghiêm túc, giới luật phải được tôn trọng giữ gìn, giới luật còn thì đạo ta còn. Người có thể chủ trì thừa kế chánh pháp nhãn tạng của ta phải là Ma Ha Ca Diếp, điều đó ta đã thấy rõ ngay ở hội Linh Sơn, khi ta đưa lên cành hoa sen, Ma Ha Ca Diếp liền mỉm cười.
Kiết Tập Kinh Ðiển
Ðúng là người thừa kế mang mạng mạch của Như Lai, sau khi Ðức Phật nhập Niết Bàn 7 ngày, Tôn giả Ðại Ca Diếp liền triệu tập hội nghị kiết tập kinh điển, trong suốt 3 tháng. Tinh Xá của giáo đoàn rộng rãi có rất nhiều, nhưng đa phần chưa phải là nơi hoàn toàn thanh tịnh, các Tỳ kheo lân cận chưa phải thật sự ly dục chứng Thánh quả. Suy xét kỹ lưỡng Tôn giả thấy chỉ có động Kỳ Xà Quật mới xứng đáng là nơi kiết tập kinh điển. Ðó là nơi u tịch, rộng rãi, cảnh trí thoát trần. Tôn giả triệu tập 500 vị đã chứng A La Hán quả, riêng Ngài A Nan luôn luôn gần Phật lại đa văn, thuộc tất cả các lời Phật dạy, nhưng lại chưa chứng Thánh quả lại còn có 6 tội. Ðể có thể và duy trì chánh pháp lâu dài, sự sinh hoạt của giáo đoàn phải oai nghiêm, không thể có người còn lỗi lầm, Tôn giả Ðại Ca Diếp buộc A Nan phải sám hối 6 tội trước đại chúng, còn vấn đề chưa chứng Thánh quả, Ðại Ca Diếp buộc A Nan phải ra ngoài động, kiếm nơi an tĩnh tu tập lúc nào chứng Thánh quả A La Hán hãy trở vào. Nhờ nhất tâm, chỉ tĩnh tu trong thời gian ngắn, Ngài A Nan liền chứng quả A La Hán.
Khi Tôn giả A Nan trở vào thạch động, cuộc kiết tập kinh điển chính thức bắt đầu. Ðại chúng nhất trí đề cử Tôn Giả Ðại Ca Diếp làm chủ tọa.
·         Ngài Ưu Ba Ly tuyên trì tạng Luật.
·         Ngài A Nan tuyên trì tạng Kinh.
·         Ngài Phú Lâu Na tuyên trì tạng Luận.
Ngoại hộ đắc lực cho cuộc kiết tập kinh điển là vua A Xà Thế.
Ðại Ca Diếp Nhập Niết Bàn
Trong hàng đệ tử của Ðức Phật, Ngài Xá Lợi Phất và Ngài Mục Kiền Liên Niết Bàn trước Phật, Niết Bàn sau Phật có Ngài Ðại Ca Diếp. Sau cuộc kiết tập kinh điển tại động Kỳ Xà Quật, khoảng hai hoặc ba mươi năm sau, cảm thấy cơ thể đã già yếu, mệt mỏi vì đã trên trăm tuổi, Ðại Ca Diếp quyết định Niết Bàn. Tôn giả tìm đến nơi Ngài A Nan đang du hóa để phú chúc pháp tạng, yêu cầu A Nan tiếp nối sứ mạng thừa kế truyền bá chánh pháp, rồi không nề mệt mỏi, Tôn giả đến 8 tháp thờ Xá Lợi phật để lễ lạy cúng dường. Sau đó Ngài trở về thành Vương Xá để tạ từ Vua A Xà Thế, nhưng gặp lúc nhà vua đang ngủ nghĩ, quân hầu không cho Tôn giả vào cung. Rời thành Vương Xá Tôn giả mang theo y bát của Phật đến núi Kê Túc, ngồi nhập định và Niết Bàn, nơi đây cách thành Vương Xá khoảng 8 dặm về phía Tây Nam. Nghe tin Tôn Giả Ðại Ca Diếp đã Niết Bàn, vua A Xà Thế rất bi thương! Nhà vua lập tức đến thông báo cho A Nan và yêu cầu cùng nhà vua đến núi Kê Túc đảnh lễ cúng dường. Mặc dù Tôn giả Ðại Ca Diếp đã nhập Niết Bàn, nhưng ảnh hưởng nếp sống đạo đức, phạm hạnh của Tôn giả vẫn còn tồn tại mãi với thời gian…
Nhận Thức và Kết Luận
Với những phép khất thực, Ðức Phật dạy phải bình đẳng không thiên chấp, phân biệt, nhưng Tôn giả Ca Diếp chỉ đi khất thực nhà nghèo, trong khi Ngài Phú Lâu Na thì khất thực nhà giàu, vì thế nên cả hai Ngài đều bị Phật khiển trách. Tuy thế, theo Tôn giả Ca Diếp người nghèo là kẻ đáng thương, đáng lân mẫn để an ủi họ, từ quan niệm đó, bất luận một hành vi một cử chỉ nhỏ nào của Tôn giả đều biểu thị đức từ bi bao la vô tận. Bởi thế, tăng hay tục, mọi người đều kính nể Tôn giả, hào quang hiền dịu của Tôn giả đã lấn lướt ảnh hưởng của người khác. Do đó tên của Ngài còn được dịch là Ẩm Quang (uống ánh sáng).
Theo Phật giáo Bắc Tông sau khi Phật nhập Niết Bàn, Ðại Ca Diếp được tôn vinh là tổ sư thứ nhất, trong khi Phật giáo Nam Tông lại tôn vinh Ngài Ưu Ba Ly. Vì quan điểm của hai phái có thiên trọng khác nhau, nên dự suy tôn sư tổ đương nhiên có khác. Ðó cũng chính là một trong những điểm mà Phật giáo có hai tông phái. Phật giáo Bắc Tông thiên về thiền, về giáo ngoại biệt truyền, không lập văn tự chỉ dùng tâm ấn tâm, cho nên qua biểu thị Ðức Phật đưa hoa sen, Ðại Ca Diếp liền mỉm cười (Chính ngộ yếu chỉ niêm hoa vi tiếu), vì thế Ngài được suy tôn là Sư tổ. Trong khoa chúc tán có bài tán đã nói lên ý nghĩa đó như sau:
·         Niêm hoa ngộ chỉ, tổ đạo sơ hưng, miên diên tứ thất diễn chơn thừa, lục đại viễn truyền đăng, dịch diệp tương thừa chánh pháp vĩnh xương minh.
Thấy hoa liền ngộ, vị tổ đầu tiên, liên tục bốn bảy giảng chơn thừa, đèn soi suốt sáu đời, cây lá nối nhau, chánh pháp mãi thịnh hành).
Phật giáo Nam Tông chủ yếu vẫn tọa thiền, loại trừ phiền não triều cái, nhưng lại nhắm hướng giải thoát cá nhân làm trọng điểm… Muốn giải thoát tất yếu phải giữ giới luật, chính chữ giới luật có nghĩa là biệt giải thoát, Phật tìm đạo vì muốn để giải thoát sinh tử luân hồi cho chúng sanh. Lúc Ðức Phật sắp nhập Niết Bàn, Ngài A Nan hỏi Phật:
·         Sau khi Thế Tôn nhập Niết Bàn chúng con biết lấy ai làm thầy. Phật bảo: “Lấy giới luật làm thầy, giới luật còn thì đạo còn”. Ưu Ba Ly là vị trì luật đệ nhất, với mục đích duy trì mạng mạch của Ðức Phật lâu dài, đồng thời cũng tiến đến chân trời giải thoát, nên Phật giáo Nam Tông suy tôn Ngài Ưu Ba Ly làm sư tổ.
Nhìn chung suốt cả cuộc đời Tôn giả Ðại Ca Diếp luôn luôn hướng dẫn phẩm hạnh đạo đức thiểu dục tri túc là chính, cuộc sống nội tâm, hành vi cử chỉ, lời ăn tiếng nói vào một khuôn khổ lề lối. Bởi thế người khác nhìn vào có vẻ thấy tiêu cực, thụ động, yếu đuối… nhưng ở đời có mấy ai ép mình được trong khuôn khổ đạo đức, lo trau dồi phẩm hạnh. Cái lăng xăng, tích cực tham dự và sự thu hút của xã hội, của cuộc đời có thể dễ dàng thực hiện. Cái tích cực diệt trừ thói hư tật xấu trong mỗi tự thân của con người thật khó thực hiện. Thắng người thì dễ, thắng mìn rất khó. Tôn giả Ðại Ca Diếp luôn luôn hướng về tự thắng, nhờ đó Tôn giả trở thành một con người gương mẫu trong giáo đoàn. Phẩm hạnh của Tôn giả đã có một tầm mức ảnh hưởng rất rộng. Ðức Phật cũng đã vị nể xem Tôn giả như bạn, có lần Phật đã nhường nửa tòa ngồi giảng pháp cho Tôn giả. Nhờ phẩm hạnh đầu đà sau khi Phật Niết Bàn Tôn giả đã được giáo đoàn suy tôn lên ngôi thủ lãng trong cuộc kiết tập kinh lần thứ nhất tại Kỳ Xà Quật. Ngày nay để duy trì đạo pháp lợi lạc chúng sanh, hàng tăng sĩ chúng ta hãy noi gương Tôn giả Ðại Ca Diếp, để nâng cao phẩm hạnh đạo đức ở đời. Người có tư cách đạo đức bao giờ cũng được kính nể, ngược lại không tư cách đạo đức dù giàu mạnh đến đâu, cuối cùng cũng bị cuộc đời đào thải.
Ngài Xá Lợi Phất 
Sariputra – Trí Tuệ Ðệ Nhất
Từ xưa đến nay, từ đông sang tây, đa phần các tôn giáo đều thiên về đức tin, riêng Phật giáo thì ngược lại, chỉ tin là khi đã dùng lý trí xét đoán, nói khác hơn Phật giáo thiên về trí tuệ. Bởi thế thông thường, Ðạo Phật được gọi là đạo Trí Tuệ, đạo Giác Ngộ, đạo Bồ Ðề. Ðức Phật là một con người đã đạt đến đỉnh cao của trí tuệ, giác ngộ hoàn toàn. Người theo đạo Phật cần cầu trí giác cao tột của Phật Ðà. Thời Phật còn tại thế, những đệ tử của Phật đều chứng Thánh quả. Trong số 1.250 vị, có mười vị đạt đến địa vị ưu tú bậc nhất, goị là mười vị đại đệ tử, gọi chung là Thánh Chúng. Ðứng đầu là Ngài Xá Lợi Phất, Trí Tuệ Ðệ Nhất.
Xá Lợi Phất Trước Khi Theo Phật
Gia thế Xá Lợi Phất:
Ở Nam Ấn Ðộ tại nước Ma Kiệt Ðà, cách thành Vương Xá khoảng hai dặm, có một thôn trang tên là Ca La Tý, nơi đây có non xanh nước biếc, cảnh trí u tịch, Ngài đã ra đời trong bối cảnh địa dư này.
Xá Lợi Phất thuộc dòng dõi Bà La Môn, thân phụ là Ưu Ba Ðề Xá hay Ưu Ba Thất Sa (Upatisya), một luận sư nổi danh trong hàng Bà La Môn. Thân Mẫu là bà Xá Lợi (Sàri) cũng là một người phụ nữ thông minh có tài biện luận. Bà là chị ruột của Câu Hy La (Kausthila), tức là Phạm Chí Trường Trảo. Những lúc luận bàn giáo lý với chị Trường Trảo luôn luôn bí lối. Không chịu thua chị, nhất là còn ngại về sau có thể thua đứa cháu ở trong bào thai của chị; với truyền thống của gia đình Trường Trảo tin con của Ưu Ba Thất sau sẽ thông minh tuấn tú. Vì tự ái, Trường trảo đến Nam Thiên Trúc quyết học 18 bộ kinh (xem chú thích ở cuối bài). Với lời thề, nếu chưa thông suốt thì không cắt móng tay, vì có móng tay dàI người đời tặng cho Phạm Chí, biệt hiệu là Trường Trảo. Xưa theo phong tục Ấn Ðộ, ngoài dùng tên cha để gọi con, phổ biến hơn người đời còn có thói quen gọi con bằng tên mẹ. Tiếng Phạn là Sàriputa, phiên âm là Xá Lợi Phất Ða La gọi tắt là Xá Lợi Phất, có nghĩa là con trai của bà Xá Lợi. Trung Quốc còn gọi là Xá Lợi Tử.
Tài biện luận và đạo giáo của Ngài Xá Lợi Phất:
Xá Lợi Phất là một thần đồng, lúc mới lên tám tuổi Ngài đã thuộc hết 18 bộ Kinh, biện tài vô ngại. Vào tháng hai, tại nước Ma Kiệt Ðà, hai anh em trưởng giả Cát Lợi và A Già La hợp cùng dân chúng tổ chức lễ tế đà. Ðàn tràng tiếp đón khách quý có 4 bậc:
Vua – Thái Sư – Ðại Thần – Luận Sư .
Khi đến dự lễ Xá Lợi Phất ngồi vào đàn thứ tư và dõng dạc tuyên bố: – Ai muốn hỏi gì thì hỏi. Các Luận sư cho Ngài là một thiếu niên ngỗ ngáo. Ðể hạ bệ Xá Lợi Phất các Luận sư cho các đệ tử nhỏ tuổi đến chất vấn, nhưng với tài biện luận khúc chiết, Ngài đã làm cho mọi người phải kinh ngạc, các Luận sư đều thán phục. Quốc Vương vui mừng vì thấy đất nước có nhân tài lỗi lạc, nên đã đem một trang trại ban cho Ngài.
Ðể quán thông triết lý của các đạo giáo đương thời, năm 20 tuổi Ngài rời thôn trang, thân thuộc, đến học đạo lý với San Xa Da Tỳ La Lê Tử, một trong sáu phái Lục sư ngoại đạo. Ðây là phái hoài nghi cho chân lý có thể biến đổi, tu đạo là vô ích chỉ cần tu thiền định là được giải thoát. Trong một thời gian ngắn Ngài đã am tường hết đạo lý của phái này, nhưng tư tưởng vẫn chưa thỏa mãn. Xá Lợi Phất đem tâm sự thố lộ với bạn đồng học lúc bấy giờ là Mục Kiền Liên, cả hai cùng đồng chung một tâm trạng nên đều tính từ giã từ giả phái hoài nghi để làm một học đoàn riêng. Tuổi trẻ tài cao, hai thanh niên cho là ở đời không có người trí thức nào sánh kịp, và cũng chẳng có ai có tư cách để làm thầy mình. Chẳng bao lâu mỗi vị đều có 100 đệ tử, cả hai còn ước hẹn hễ ai đắc đạo trước thì thông báo lại đễ dẫn dắt nhau tiến theo một con đường.
Ðạo Nghiệp Của Xá Lợi Phất Sau Khi Theo Ðức Phật
Xá Lợi Phất Ngộ Lý Duyên Sinh:
Một hôm tại thành Vương Xá, Xá Lợi Phất gặp Ngài Mã Thắng tức A Xã Bệ Thệ đang đi khất thực. Ðây là một tỳ kheo đã trải qua một thời gian dài tu khổ hạnh, khi gặp Phật Ngài đã nghe Pháp Tứ Ðế mà ngộ đạo, trở thành một trong năm đệ tử đầu tiên của Ðức Phật. Thấy phong độ uy nghi của Mã Thắng, Xá Lợi Phất tỏ lòng kính phục và thân đến hỏi đạo, Mã Thắng cho Xá Lợi Phất biết ông là đệ tử của Ðức Phật Thích Ca. Xá Lợi Phất hỏi Ngài về đạo lý của Phật Thích ca, Ngài đem giáo lý duyên sinh để giảng giải. Theo Phật, tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà có sinh, rồi cũng hoại diệt khi nhân duyên đã hết. Giáo pháp đó được diễn tả qua bài kệ:
Chư Pháp tùng duyên sinh
Diệt tùng nhân duyên diệt
Ngã Phật Ðại Sa môn
Thường tác như thị thuyết.
Nghĩa là:
Các Pháp do duyên sinh
Lại cũng do duyên diệt
Thầy tôi là Ðức Phật
Thường giảng dạy như vậy.
Nghe thuyết duyên sinh, Xá Lợi Phất thấu suốt được sự thành hoại của vũ trụ duyên sinh và rất thán phục Ðức Phật, nên theo Mã Thắng đến Trúc Lâm Tinh Xá bái yết Ðức Phật. Ðể khai thị thêm cho Xá Lợi Phất, Phật thuyết đạo lý Vô Ngã Niết Bàn… Theo Phật “Các hành vô thường là pháp sanh diệt, sinh diệt diệt rồi tịch diệt là vui.”
Trước Ðức Phật Xá Lợi Phất xin được quy y và xin được đưa Mục Kiền Liên đến Tinh Xá Trúc Lâm.
Hôm sau, cả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên dẫn 200 đệ tử đến thọ giáo với Phật. Giáo đoàn của Phật không những chỉ tăng thêm số lượng mà còn tăng thêm về mặt chất lượng. Phật rất hài lòng vì thấy giáo pháp sâu xa nhiệm mầu, từ nay đã có Xá Lợi Phất tiếp thu. Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên là hai thủ lãnh tư tưởng tôn giáo cao thâm trong giới học đạo bấy giờ.
Xá Lợi Phất chỉ đạo xây dựng Tinh Xá Kỳ Viên:
Khi Phật đang ở Phương Nam Ấn Ðộ, có trưởng giả Tu Ðạt, hiệu là Cấp Cô Ðộc, người thành Xá Vệ, nước Kiều Tát La ở Tây Bắc Ma Kiệt Ðà, đến Tinh Xá Trúc Lâm nghe Phật thuyết giảng pháp Bố thí, bái phục Ðức Phật, trưởng giả muốn xây dựng một tinh xá ở phương Bắc nước Ma Kiệt Ðà, để thỉnh Phật về hoằng hóa. Sau khi trải vàng mua đất của Thái Tử Kỳ Ðà, cạnh thành Vương Xá. Trưởng giả xin Phật đề cử một vị thiết kế và trông coi công trình xây cất tinh xá. Phật biết ở phương Bắc có nhiều triết nhân ngoại đạo, chỉ có Xá Lợi Phất mới có đủ sức thuyết phục, để có thể vừa trông coi công trình, vừa đối phó với ngoại đạo, Phật cử Xá Lợi Phất theo Tu Ðạt về phương Bắc.
Tinh xá bắt đầu khởi công, hàng ngoại đạo tìm phương cản trở, nhằm ngăn chận đà phát triển của Phật giáo. Họ yêu cầu Tu Ðạt bỏ ý định xây dựng tinh xá và cũng yêu cầu ông không nên theo Phật. Vì đã thâm tín Phật Tu Ðạt vẫn xúc tiến công trình; các nhà ngoại đạo tính hạ uy tín Xá Lợi Phất, để giúp Tu Ðạt bỏ Phật. Tu Ðạt rất lo ngại cho Xá Lợi Phất có thể không tranh biện nổi với ngoại đạo, ông trình bày nổi ưu tư với Ngài. Nhưng! Xá Lợi Phất cho đây là một cơ hội tốt để đạo Phật tuyên dương chánh pháp. Ngài nhờ Tu Ðạt đến hàng ngoại đạo ước hẹn ngày tranh luận. Vốn xuất phát từ Bà La Môn và đã am tường các triết thuyết đương thời, ngay trong ngày tranh luận đầu tiên Ngài đã thắng 10 Luận sư danh tiếng của ngoại đạo. Xá Lợi Phất đã tạo nhiều thanh thế cho Phật ở phương Bắc. Vì Xá Lợi Phất đã chuyển hầu hết các tư tưởng gia ngoại đạo về với Phật, khi Phật chưa đến giáo hóa. Từ đó sau khi Tinh xá Kỳ Viên hoàn thành, giáo đoàn của Phật về nước Xá Vệ được đón tiếp vô cùng nồng hậu linh đình. Công trình xây dựng Tinh xá, Xá Lợi Phất thiết kế 16 tiểu đường, gồm có: phòng ngủ, nhà khám bệnh, nhà tắm, nhà kho, nhà nhóm họp, giảng đường… Ðây là một trung tâm văn hóa thứ hai của Ấn Ðộ, gọi là trung tâm Kiều Tát La, còn trung tâm văn hóa thứ nhất được thành lập tại nước Ma Kiệt Ðà.
Thọ thức ăn bất tịnh:
Khi về thành Ca Tỳ La Vệ, giáo hóa cho các bậc vương tôn, công tử, Phật cho La Hầu La xuất gia và ủy thác cho Xá Lợi Phất lo việc dạy dỗ, Xá Lợi Phất đã truyền thọ giới Sa Di cho La Hầu La. Một hôm Ngài dẫn La Hốu La đI khất thực, hàng đàn na tín thí dâng cúng các thức ăn ngon cho Ngài và các vị Tỳ kheo Trưởng lão, còn hàng Sa di chỉ thọ nhận các vật có ít dinh dưỡng như xác mè ép, rau đồng luộc… trộn với cơm hẩm. Lòng của La Hầu La rất bất mãn và có ý nghĩ rằng tuổi trẻ sức đang phát triển, ăn uống như thế cơ thể sẽ bị suy nhược, không có sức khỏe để tiến tu đạo nghiệp. Khi về đến Tinh Xá, lòng La Hầu La vẫn buồn rầu và lên trình với Phật sự cố. Phật khuyên La Hầu La không nên có niềm đố kyï, người xuất gia chỉ cầu Phật đạo chứ đâu cần sự ăn uống, người tu hành khi thọ nhận của cúng dường một hạt mè, một hạt cơm cũng nên tự thấy là đủ rồi. Có tam thường bất túc, mới xứng đáng là bậc có chí xuất trần thượng sĩ, đừng quá quan tâm đến việc ăn uống.
Tuy dạy La Hầu La như thế, nhưng Phật cũng cho mời Xá Lợi Phất đến và dạy rằng:
·         Xá Lợi Phất! Hôm nay ông thọ thức ăn bất tịnh, ông có biết không?
·         Nghe Ðức Phật nói, Xá Lợi Phất kinh hãi liền cho thức ăn ói ra hết, rồi bạch Phật:
·         Bạch Ðức Thế Tôn! Từ khi xuất gia, con luôn luôn y pháp khất thực, chưa bao giờ con trái nguyên tắc và thọ thức ăn bất tịnh.
·         Tuy biết rõ tâm của Xá Lợi Phất, nhưng Phật giải thích:
·         Xá Lợi Phất tuy ông khất thực không trái phép nhưng không quên săn sóc các Tỳ kheo nhỏ tuổi và Sa di. Khi khất thực phải lưu tâm đến họ, để họ khỏi sinh tâm đố kyï và phát tâm tôn kính bậc Trưởng thượng. Nhân cơ hội này, Phật chế phép Lục Hòa để làm nguyên tắc sinh hoạt cho Tăng đoàn:
1.      Thân hòa đồng trú Cùng chung với nhau một chỗ.
2.      Khẩu hòa vô tranh Không nên tranh cãi với nhau
3.      Ý hòa đồng duyệt Thông cảm và cởi mở với nhau
4.      Lợi hòa đồng quân Lợi lộc nên đem chia đều cho nhau
5.      Giới hòa đồng tu Giới luật cùng nhau giữ gìn
6.      Kiến hòa đồng giải San sẻ hiểu biết cho nhau
Nghe xong, Xá Lợi Phất hoan hỷ tín thọ và tuân hành áp dụng.
 Kẻ phản nghịch kính sợ:
Trong số đệ tử của Phật, Ðề Bà Ðạt Ða luôn luôn muốn hạ Ðức Phật để làm thầy, ông vốn là con nhà thúc bá với Ðức Phật. Dù đã xuất gia, ông xúi thanh niên hại Phật, dụ dỗ A Xà Thế thả voi say chà Phật, ngay cả ông cũng đả xô đá làm cho Phật bị thương ở chân, và ông cũng đã tách rời giáo đoàn để làm giáo chủ.
Một hôm Ðức Phật và Thánh chúng đi khất thực về và đang nghỉ ngơi, Ðề Bà cầm đầu một nhóm Tỳ kheo la lối om sòm, yêu cầu Phật nhường quyền lãnh đạo cho ông, Ðức Phật vẫn im lặng mặc cho Ðề Bà làm náo động. Không thể chịu đựng được, Ngài A Nan là một bào đệ của ông lên tiếng chỉ trích Ðề Bà.
A Nan dõng dạc nói:
·         Xin Ðề Bà hãy im lặng, Ðức Phật là bậc chí tôn anh không thể thay thế Phật được. Anh phỉ báng Phật, anh làm mất sự hòa hợp của Tăng đoàn anh sẽ mang tội rất nặng. Giờ này, Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên ở đây anh không sợ sao? Chắc chắn hai vị sẽ không để anh tung hoành như thế được?
·         Thấy không lay chuyển được Phật, Ðề Bà chuyển hướng, đem lợi lộc của vua A Xà Thế cúng dường để dụ dỗ các Tỳ kheo ham lợi, tách khỏi đại chúng và thành lập một giáo đoàn riêng do ông thủ lãnh. Sau một buổi đI khất thực về, bè nhóm của Ðề Bà Ðạt Ða tụ tập phân chia phẩm vật của đàn việt một cách ồn ào. Thấy trái đạo lý Xá Lợi Phất lên tiếng:
·         Này chư vị! Chúng ta đi xuất gia với mục đích giác ngộ, giải thoát hay vì lợi lộc cúng dường?
Cả nhóm đồng đáp:
·         Thưa Xá Lợi Phất! Vì mục đích tu đạo, cầu giác ngộ và giải thoát khỏi sinh tử luân hồi.
·         Thế! Các ông hãy loại bỏ tâm tham thực, ăn năn sám hối trở về giáo đoàn tu theo pháp lục hòa.
Nghe Ngài khuyến hóa, cả nhóm đều bỏ rơi Ðề Bà, trở về với Ðức Phật. Từ đó uy tín của Ngài được tăng thêm, Ðề Bà Ðạt Ða cũng kính sợ Xá Lợi Phất hơn cả Phật.
Rộng lượng khoan dung:
Tại Tinh Xá Kỳ Viên, sau ba tháng hạ Xá Lợi Phất tạm biệt Ðức Phật để lên đường đi hóa đạo. Khi Ngài ra khỏi cổng Tinh xá, một Tỳ kheo thưa với Ðức Phật rằng: – Xá Lợi Phất vô cớ nhục mạ ông, rồi bỏ đi với lý do đi giáo hóa, thực sự Xá Lợi Phất không đi truyền bá Phật pháp. Phật cho gọi Xá Lợi Phất trở lại và yêu cầu cho biết dữ kiện. Xá Lợi Phất trình Phật:
·         Bạch Ðức Thế Tôn! Sau khi theo Ðức Thế Tôn học đạo đến nay tuổi gần 80, con chưa bao giờ làm tổn hại sinh mạng kẻ khác, chẳng biết dối trá chăm lo thăng tiến đạo nghiệp, kể cả 40 năm qua, đưoợc vinh dự làm môn đệ của Ðức Thế Tôn, dù nhiều lần được Ðức Thế Tôn khen ngợi, nhưng con chưa bao giờ tỏ ý kiêu mạn coi thường người khác, từ đó đâu dám nhục mạ người trong giáo đoàn.
·         Con thiết nghĩ: Ðất luôn luôn nhận lãnh hết tất cả những sự dơ uế của thế gian, con tự nguyện làm đất luôn luôn nhẫn nhịn tất cả những điều tráI ý, không hạ nhục bất cứ ai. Dòng nước cuốn trôi, rửa sạch tất cả những vết dơ bẩn của trần gian, con tự nguyện rửa sạch trần cấu cho mọi người. CáI chổi quét sạch hết tất cả rác rưởi không hề phân biệt con tự nguyện làm cáI chổi quét sạch bụi trần của chúng sanh. Bấy lâu con chưa hề khinh khi ai, chưa hề có ý niệm phân biệt, cố gắng không để tâm vọng đọng thường an trú trong chánh niệm. Bởi thế nếu con còn có lỗi lầm nào, xin các tỳ kheo từ mẫn chỉ bảo con xin thành khẩn y pháp sám hối.
Ðể thỏa mãn cho tất cả các môn đệ, Phật cho gọi các tỳ kheo đương cáo ra đối chứng. Trước giáo đoàn, vị tỳ kheo đã nói dối rất hổ thẹn, xin Phật và Xá Lợi Phất rộng lượng khoan dung. Phật bảo trong đời có hai hạng người mạnh nhất đó là người không có tội, người có tội mà biết ăn năn sám hối. Riêng Xá Lợi Phất không những không oán giận mà còn hoan hỷ khoan dung.
Phẩm hạnh nhường nhịn:
Một hôm Xá Lợi Phất đi truyền giáo ở phương xa, đến trời tối mới trở về, các phòng xá đều bị các tỳ kheo lục quần chiếm hết. Ngại lục quần làm ồn ào, Ngài lẳng lặng ra ngoài sân ngủ dưới gốc cây. Sáng ngày biết được sự ngủ nghỉ mất trật tự, Ðức Phật gọi nhóm lục quần đến hỏi lý do. Nhóm lục quần bạch với Phật rằng:
·         Xá Lợi Phất không xuất thân từ hàng Bà La Môn, cũng không phải dòng dõi Sát Ðế Lợi, do đó Xá Lợi Phất không có quyền có chỗ ngủ riêng, sàng tòa tốt đẹp…
Ðể ngăn chặn sự sai trái của nhóm lục quần, Ðức Phật dạy:
·         Ngày xưa trong núi tuyết có chim chóc, khỉ, voi đồng chung ở. Tuy là bằng hữu nhưng cả ba loài không nhường nhịn nhau, con nào cũng tự cao tự đại định hại nhau. May có một vị tiên giải thích sự phải trái, cả ba loài mới biết kính nhường loài lớn tuổi. Các Tỳ kheo! Giáo pháp của ta xương minh phép bình đẳng, nhưng không vì thế mà mất trật tự. Những ai có đạo hạnh cao, pháp lạp nhiều, tuổi lớn phải được cung kính cúng dường, ưu tiên nơi ăn chốn ở được tốt nhất, thực phẩm ngon tươi nhất.
Nghe Ðức Phật nói đại chúng đều y giáo phụng hành. Xá Lợi Phất không vì thế mà ngã mạn, lại cảm ơn sự ưu ái của Phật và sự trọng nể của giáo đoàn.
Phép ăn của Tỳ kheo:
Một ngày nọ, sau khi khất thực về Xá Lợi Phất quay mặt vào vách mà ăn, thấy vậy nữ Phạm Chí Tịnh mục chất vấn:
·         Ông đang ăn?
·         Không, Xá Lợi Phất đáp.
·         Ông cúi miệng mà ăn?
·         Không.
·         Ông ngữa miệng mà ăn?
·         Không.
·         Vuông miệng mà ăn?
·         Không.
·         Quay miệng bốn phương mà ăn?
·         Không.
·         Không phải 4 phép ăn như trên, thế thì ông ăn bằng cách nào?
Xá Lợi Phất giải thích:
+ Người xuất gia đem thảo mộc đổi thức ăn mà ăn, gọi là cúi miệng mà ăn.
+ Dùng phép xem tinh tú để có ăn, gọi là ngửa miệng mà ăn.
+ Nịnh bợ nhà giàu để được ăn, gọi là vuông miệng mà ăn.
+ Bói toán bùa chú để có ăn, gọi là quay miệng bốn phương mà ăn.
Ta không ăn theo 4 phép đó. Người tu hành chỉ đI khất thực mà ăn một cách thanh tịnh.
Nghe Ngài giảng giải, nữ Phạm chí sinh tâm hoan hỷ, chứng quả Tu Ðà Hoàn.
Khen một cái chết đẹp:
Thấm nhuần tư tưởng bình đẳng dù đã chứng Thánh quả, đối với nữ giới, Ngài vẫn kính trọng. Gần thành Vương Xá trong một khu rừng khi đang ngồi thiền định, bỗng nghe tiếng Tỳ kheo ni Ưu Ba Tiên Na kêu cứu ở một khu rừng đối diện, Xá Lợi Phất liền xả thiền, vội vàng đi tiếp cứu. Khi Ngài đến, Ưu Ba Tiên Na lấy lại được sự bình thản và trình bày:
·         Thưa Tôn Giả! Vừa rồi trong lúc đang tọa thiền, con nghe một vật gì láng trơn chạm vào cơ thể, con liền nghĩ có thể đó là một con rắn, tức thì con liền bị rắn cắn, nọc đọc của rắn đã ngấm vào người con và con sẽ lìa đời. Xin Tôn Giả thông báo cho chư ni quy tụ về đây để con tỏ lời cáo biệt.
Bấy giờ sắc diện của Ưu Ba Tiên Na vẫn bình thản như không có chuyện gì xảy ra. Thấy thế Xá Lợi Phất nói với Ưu Ba Tiên Na rằng:
·         Chắc không hề gì vì sắc diện của Tỳ kheo không biến đổi.
Ưu Ba Tiên Na thưa rằng:
·         Bạch Tôn giả! Với đạo lý của Ðức Phật, thân do 4 đại, 5 uẩn, hư vọng hợp thành, không có chủ tể là vô thường, là không, rắn làm sao cắn được cái “Không”. Con thầm hiểu như thế nên con không cảm thấy đau đớn. Nhờ đó mà nét mặt con không biến sắc.
Xá Lợi Phất hết lời khen ngợi Ưu Ba Tiên Na và thông báo cho Tỳ kheo, Tỳ kheo ni ở trong khu rừng tập họp và đưa Ưu Ba Tiên Na ra khỏi hang động. Khi nọc độc của rắn đã ngấm khắp cơ thể, Ưu Ba Tiên Na xã bỏ báo thân vào cõi tịch diệt Niết Bàn. trước các Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, Xá Lợi Phất ca ngợi Ưu Ba Tiên Na, do đạt được giới thân tuệ mạng nên có một cái chết thật đẹp, sắp chết mà sắc diện vẫn không bị biến đổi, tâm hồn lại rất bình thản, đáng cho người tu hành phải noi gương.
 Xá Lợi Phất Viên Tịch
Lại một hôm, khi nghe tin người lão hữu Mục Kiền Liên bị bọn lõa hình ngoại đạo ám hại tại thành Thất La Phiệt (tức Xá Vệ), lúc đang đi thuyết giáo. Xá Lợi Phất vô cùng buồn rầu, suốt mấy ngày liền. Bấy giờ Ðức Phật, Xá Lợi Phất và một số Tỳ kheo ở tại thành Vương Xa¸, thấy Xá Lợi Phất vì thương bạn mà ủ rủ, Phật phải khuyên răn. Sau đó Phật tập họp tất cả tăng chúng báo cho tất cả biết tin Mục Kiền Liên đã vào Niết Bàn và nhân đó Phật cũng báo cho chúng Tăng hay sau ba tháng nữa là Phật sẽ vào Niết Bàn. Cùng lúc nhận được hai tin buồn, Mục Kiền Liên đã chết một cách bi thảm và Phật cũng sắp ra đi, lòng Xá Lợi Phất vô cùng chua xót. Bởi thế liền ngày hôm đó, Xá Lợi Phất xin được về quê thăm mẹ và nhập Niết Bàn trước Phật. Vì theo Xá Lợi Phất trong quá khứ các đệ tử hàng đầu đều nhập Niết Bàn trước vị giáo chủ đương thời. Hơn nữa, Ngài không muốn chứng kiến cảnh đau buồn khi Phật nhập Niết Bàn.
Sau khi tạ từ Ðức Phật và giáo đoàn, Xá Lợi Phất lên đường về quê nhà tại thôn Ca La Tỳ Ma Ca với một Sa di tên là Quân Ðầu, lúc nầy Ngài đã 80 tuổi, mẹ của Ngài cũng đã ngoài 100 tuổi. Vì đã 40 mươi năm xa cách, mẹ con gặp nhau trong cảnh mừng mừng tủi tủi … dù đã già bà vẫn xem Tôn Giả như hồi còn thơ ấu, bà sai cháu gái là Ưu Ba Ly Bà Ða thu dọn cho Tôn Giả một căn phòng thật khang trang. Ngay trong đêm gặp mẹ già ngoài vấn đề giảng giải đạo lý của Ðức Phật, Xá Lợi Phất bày tỏ tâm sự: trước là về quê thăm mẹ, sau cũng xin phép mẹ được từ giả cõi đời tại quê nhà. Tuy có đau buồn nhưng bà Xá Lợi cũng thấy vinh dự có được một người con đạo cao đức trọng, biết trước ngày giờ rời bỏ xác thân để sửa soạn giờ biệt ly vô cùng chu đáo. Sau đêm tâm sự với mẹ già, Ngài cho gọi dân làng đến để bố giáo và tỏ lời từ biệt. Trước dân làng, trước môn đồ tứ chúng và có cả vua A Xà Thế, Ngài bày tỏ tâm tình thiết tha yêu quê hương xứ sở và đem giáo pháp của Phật khuyên bảo mọi người.
Xá Lợi Phất bày tỏ mục đích ra đời của Phật là: Vì một đại sự nhân duyên chỉ rõ tri kiến Phật cho chúng sinh. Con nguời cần tiến tu Giới, Ðịnh, Tuệ để giải thoát sinh tử luân hồi. Nhưng trước hết phải xây dựng con người, tạo lập một quốc gia xã hội an bình tốt đẹp là chính yếu, con người nên noi gương từ bi nhẫn nhịn của Phật để sinh hoạt. Vào đến nữa đêm, mọi vật hoàn toàn yên lặng, Ngài lạy chào mẹ già, vua A Xà Thế và tất cả những người hiện diện rồi nhập đại định Niết Bàn. Sau khi làm lễ Trà Tỳ, Sa di Quân đầu mang hàI cốt Ngài trở về trình với Ðức Phật. Ðể giáo đoàn được chiêm bái và nhân thể tán dương Xá Lợi Phất, Ðức Phật tập họp đại chúng Tỳ kheo lại và dạy rằng:
·         Ðây là hài cốt của Xá Lợi Phất, một bậc trí tuệ hàng đầu. Xá Lợi Phất là người đã tiếp thu trọn vẹn giáo pháp cao huyền của ta được truyền bá đầu tiên ở phương Bắc, đó là công lao của Xá Lợi Phất. Trí tuệ của Xá Lợi Phất thật là trí tuệ cao tuyệt, trừ Ðức Phật ra không ai bì kịp. Qua trí tuệ đó, Xá Lợi Phất đã thành tựu đạo nghiệp. Bậc đại trí nầy đã chứng pháp tính, ít muốn biết đủ, siêng năng dũng mãnh, tiến tu thiền định, không cố chấp trước, đối với ngoại đạo luận bàn vô ngại, hoằng truyền chính pháp lợi lạc mọi người, thoát ly sanh tử khổ đau, chứng nhập Niết Bàn.
Trong hàng Thánh chúng nay trong mười đại đệ tử của Phật, Xá Lợi Phất đứng hàng đầu, vì đạo Phật là đạo của trí tuệ. Mục đích của Phật là khai thị cho chúng sanh cáI tri kiến của chư Phật (Kinh Pháp Hoa-Phẩm Tựa). Mặt khác với triết lý của đạo Phật, thuyết duyên sinh là một thuyết thâm áo nhất. Ðạo Phật giải thích sự hiện hữu của mọi hiện tượng, sự vật khách quan, thế giới hữu hình qua thuyết duyên sinh, sự vật sinh sinh hóa hóa, liên hệ chằng chịt với nhau, Kinh Hoa Nghiêm gọi là trùng trùng duyên khởi. Cái nầy có thì cái kia có, cái nầy diệt thì cái kia diệt. Có lần Tỳ kheo Mang Ðồng Tử hỏi Ðức Phật về thế giới thường hay vô thường, hữu biên hay vô biên, Phật cho là không nên hý luận nhưng không vì thế mà Phật không giải thích thế giới hiện tượng. Chính thuyết duyên sinh nầy đã giải thích sự sinh tồn của vũ trụ vạn vật. Xá Lợi Phất đã thấu rõ thuyết duyên sinh. Bởi thế Xá Lợi Phất là bậc Trí Tuệ Ðệ Nhất đứng đầu trong hàng Thánh chúng.
Nhờ có trí tuệ số một biện tài vô ngại, Ngài đã chinh phục được các Luận sư của Bà La Môn ở phương Bắc Ấn Ðộ, khi Ngài đến Ma Kiệt Ðà để xây dựng Tinh Xá Kỳ Viên. NgoàI trí tuệ, Ngài còn là nhà kiến trúc đại tài. Tôn giả đã thiết kế và trực tiếp chỉ đạo xây dựng Tinh Xá Kỳ Viên. Ðây là trung tâm sinh hoạt văn hóa ngang hàng với trung tâm văn hoá Kiều Tát La, thời Phật còn ở Ấn Ðộ có hai trung tâm văn hóa lớn nhất là Ma Kiệt Ðà và Kiều Tát La. Khi Ðức Phật còn tại thế, Xá Lợi Phất được tín nhiệm và được cử đi bố giáo đầu tiên. Vì ngoài trí tuệ biện tài, Ngài còn am tường mọi tập tục, truyền thống của dân tộc Ấn Ðộ, hơn nữa là ngôn ngữ đương thời của Ấn Ðộ, thời cổ đại tư tưởng tôn giáo đã nhiều mà ngôn ngữ các địa phương không phải là một. Bởi thế Ngài mới đại diện Phật tuyên dương giáo pháp khi Phật còn hiện diện. Mặt khác, Xá Lợi Phất còn là vị có phẩm hạnh cao, khi bị chỉ trích là đã thọ thức ăn bất tịnh, con người khinh mạn, bị Lục quần chiếm chỗ ngủ nghỉ … Ngài vẫn từ áI khoan dung không tranh chấp thù oán. Trí tuệ đã cao mà từ ái lại bao la, Xá Lợi Phất được giáo đoàn kính nể. Ðề Bà Ðạt Ða là một con người có nhiều tác oai tác quái, đòi thay Phật lãnh đạo giáo đoàn, nhưng đối với Xá Lợi Phất vẫn kính sợ hơn cả Phật. Sau hết Ngài là con người tha thiết với quê hương với thôn xóm, với mẹ già, với mọi người dân quê. Khi 80 tuổi, Ngài quay về với quê hương để ban bố giáo pháp cho tất cả mọi người rồi mới vào Niết Bàn.
Nhìn chung, với những người xuất gia theo Phật để được gọi là toàn bích phải được đầy đủ 3 đức: An Ðức, Trí Ðức và Ðoạn Ðức. Xá Lợi Phất đã thể hiện trọn vẹn, cho nên xứng đáng là vị đứng đầu trong giáo đoàn của Phật. Nhưng không vì đạo nghiệp giải thoát mà quên mất mẹ già, quê hương thôn xóm, dù đã 80 tuổi Ngài vẫn về quê nhà truyền bá nếp sinh hoạt vị tha vô ngã… Xá lợi Phất xứng đáng là một biểu tượng cho tất cả mọi người noi theo.
Ðức Mục Kiền Liên 
Manda Galỳayana – Thần Thông Ðệ Nhất
Trong thời gian 45 năm Phật giáo hóa, Ngài A Nan làm thị giả, Ðức Phật luôn luôn có Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên trợ lý, Hai Tôn giả nhiều lần thay Phật đi truyền giáo đó đây. Hai vị là bạn tâm giao, lúc đầu theo phái San Xa Dạ sau ngộ lý duyên sinh trở về với Ðức Phật. Xá Lợi Phất là bậc trí tuệ đệ nhất đứng đầu hàng Thánh chúng nhưng nghị lực dứt kiết sử không nhanh bằng Ngài Mục Kiền Liên. Với các lậu hoặc trong thời gian 7 ngày, Mục Kiền Liên đã dứt sạch và có thần thông số một, đứng hàng thứ hai trong Thánh chúng.
Dòng Họ Và Chí Khí Ngài Mục Kiền Liên
Trong kinh điển và trong sách vở không ghi rõ nguyên quán của Ngài, nhưng qua sự kiện Mục Kiền Liên là bạn tâm giao của Xá Lợi Phất hồi còn thanh niên. Từ đó có thể Mục Kiền Liên sinh trưởng ở phía Bắc Ấn Ðộ nước Ma Kiệt Ðà, thân phụ của Tôn giả tên là Câu Hy La, thân mẫu thuộc dòng họ Mục Kiền Liên, Tôn giả theo họ mẹ nên gọi là Mục Kiền Liên (Manda Galyàyana). Trong kinh có chỗ gọi Tôn giả là Câu Ly Ca hay Câu Luật Ðà nhưng hai tên sau không thông dụng bằng tên Mục Kiền Liên. Ngài có hình dáng cao lớn, mặt vuông tai dài, tính cứng rắn lạc quan, khí tiết hùng dũng ít khuất phục việc trái chính nghĩa. Vì thế dù đã theo San Xa Dạ, một trong sáu phái lục sư ngoại đạo, Ngài đã cùng với Ngài Xá Lợi Phất lập một học phái riêng. Sau một thời gian mỗi vị đã có 100 đệ tử. Khi thấy thuyết duyên sinh của Phật là siêu tuyệt, cả hai đã tìm về với Phật. Xá Lợi Phất luôn luôn ở bên tay phải còn Mục Kiền Liên luôn luôn ở bên tay trái của Ðức Phật. Trong khi các đệ tử của Phật còn đang tu học Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đã thay Ðức Phật đi truyền bá chánh pháp. Với dũng chí Ðại Ðức không hề ngại khó khăn, không chịu thỏa hiệp, với sức thần thông sẵn có Ngài không bao giờ chịu khuất phục ngoại đạo.
Ðạo Nghiệp Của Mục Kiền Liên
Mục Kiền Liên với phép thần thông
Trong hàng Thánh chúng hay 10 đại đệ tử của Phật, Mục Kiền Liên là vị Thần Thông Ðệ Nhất đứng đầu trong hàng Thánh chúng. Trong mọi tình huống Mục Kiền Liên thường hay sử dụng phép thần thông; khi đi truyền giáo Ngài dễ dàng chinh phục được người, nhưng pháp căn bản của đạo giải thoát không phải là thần thông, với nghiệp lực của con người thần thông không thể giải cứu. Với phép thần thông có thể khuất phục được người dễ dàng, nhưng chưa hẳn lòng người đã không oán giận. Dù bị Phật quở Ngài vẫn sử dụng phép thần thông để làm phương tiện. Ngày Tỳ Lưu Ly đến vây hãm thành Ca Tỳ La Vệ Mục Kiền Liên đã dùng thần thông đến cứu dòng họ Thích Ca bị bách hại, thành Ca Tỳ La Vệ vẫn bị hỏa thiêu. Ngài vẫn không cứu được mẹ bằng phép thần thông. Ngay chính bản thân Ngài cũng đã không thắng được nghiệp báo để thoát chết bởi bọn ngoại đạo, khi Ngài đến truyền đạo tại thành Thất La Phiệt. Ðó là chưa kể đến trường hợp người có thần thông sẽ lợi dụng phép đó để làm việc bất chánh. Ðề Bà luôn luôn có dự mưu thay Phật lãnh đạo giáo đoàn, vì thấy được lòng dạ đen tối của Ðề Bà, Phật đã không dạy cho Ðề Bà tu luyện phép thần thông. Giá trị của thần thông là để giúp người tu chứng thấy xuyên suốt thời gian vô cùng và không gian vô tận, để biết được mọi vấn đề, mọi sự kiện, kể cả những gì sâu kín nhất trong lòng nguời. Nhưng Ðức Phật đã không đặt nặng vấn đề tu luyện thần thông.
Trong kinh đIển của Phật giáo có kể một mẫu chuyện Phật đánh giá thần thông rằng:
·         Một hôm có một vị đạo sĩ Bà La Môn đang trổ tài phép thần thông bên một bờ sông cho quần chúng hiếu kỳ xem, khi thấy Phật từ xa đến đạo sĩ còn biễu diễn nhiều trò hấp dẫn với mục đích khoe khoang. Phật hỏi đạo sĩ phải tu luyện bao lâu mới có được phép thần thông và chứng quả gì, đạo sĩ cho biết là đã tu luyện trên 30 năm, khi đạt được thần thông có thể bay đi tự tại không cần đò. Phật nói: Nếu phải mất một nữa đời người, phải tu luyện để bay qua dòng sông thì giá quá đắt.
Mục Kiền Liên độ bà lão bán bánh
Một hôm trên đường đi khất thực, Ngài dừng chân trước nhà một bà lão bán bánh, thấy bà không đem vật thực ra cúng dường, đoán biết là bà này có tâm keo kiết Ngài cố tình đứng lại chờ đợi, để bà gieo công đức phước điền. Không những không cúng dường bà còn xua đuổi Tôn giả, bà nói:
·         Làm gì mà sáng sớm ông đứng án nhà tôi thế? Ông có biết rằng tôi đang hông bánh chưa có buôn bán gì được cả chăng? Xin mời ông di mau cho với để sáng sớm tôi khỏi mất hên.
·         Xin bà cho tôi một nắm cơm, nếu không bà cho tôi một cái bánh cũng được, Ngài năn nỉ.
·         Tôi nghèo lắm ông ơi! Ông không thấy nhà tôi đang xiêu vẹo, sau trận cuồng phong chưa sửa được đấy à! Còn xin bánh, tôi đã bảo bánh chưa chín mà, ông này lẩn thẩn thật.
·         Nếu bà không cho tôi hóa phép làm gió thổi sập nhà bà luôn.
·         À! thế ông có biết làm phép ư? Nếu có phép ông thử chết xem nào? Nếu thực sự ông có thể biến hóa chết được, tôi sẽ cho.
Với thần thông đã chứng, Mục Kiền Liên rùng mình ba lần rồi lăn ra chết. Thấy thây chết khiếp quá nhưng vì tâm keo kiệt, bà nói:
·         Ðã là xác chết còn ăn uống được gì mà cho, giờ thì ông còn báo đời tôi phải chôn cất thây ma, thật là khổ!
Mục Kiền Liên đứng dậy và nói:
·         Giờ nầy tôi là người bình thường, ăn uống được, xin bà hãy đem vật thực cho tôi.
·         Tôi đã bảo là tôi nghèo rớt mồng tơi mà! xin ông hãy dời gót gấp cho để tôi còn lo sinh kế nữa.
·         Bà đã biết tôi có phép sẵn có tảng đá bên đường, nếu bà không cho vật thực tôi sẽ mang tảng đá thả đè bẹp nhà bà ngay tức khắc.
Giận quá nhưng lại sợ sập nhà, nhân đang hông bánh bà mở vung chọn một cái bánh nào nhỏ nhất để cho hầu khỏi rắc rối. Lúc nầy bà thấy cái bánh nào cũng to lớn, cho thiệt hại cả vốn và lời. Dù bánh đã được xoa dầu để khỏi dính nhau nhưng bà càng xáo tìm cái bánh nhỏ nhất thì bánh càng dính chùm với nhau. Giận quá bà khuân cả nồi để trước mặt Ngài và nói:
·         Ông hại tôi quá, làm bánh tôi dính chùm với nhau hết. Hỏng hết rồi, ông mang luôn cả nồi nầy về mà ăn cho thỏa.
Thấy ý cho bánh trong sự tức giận, nhưng thiện tâm đã bắt đầu được nhen nhúm, Ngài gắp một cái bánh để vào bình bát, rồi tạ từ bà già và tiếp tục lên đường.
Mục Kiền Liên trước nữ sắc
Một lần khác, nhân đI khất thực ngang qua một khu vườn rất là nên thơ, Mục Kiền Liên gặp một người nữ tuổi trung niên rất là kiều diễm, bà nầy đón Ngài lại và mời vào rừng nói chuyện. Biết có chuyện chẳng lành, Ngài liền từ chối và nói:
·         Bà không nên đem sắc đẹp mê hoặc tôi, con người của bà bên ngoài vui tươi ngọt ngào nhan sắc, nhưng chắc chắn lòng bà không khác nào một cuộn chỉ rối, bà đang có một tâm sự uất nghẹn nên mượn sắc đẹp sẳn có để giết thời gian, xin lỗi bà chớ phiền, tôi thẳng thắn khuyên bà không nên chơi với lửa, nguy hiểm lắm! Càng lao vào con đường trụy lạc, tâm hồn càng thêm dơ bẩn. Trong vũng bùn bà càng cố vẫy vùng thì bà càng lún sâu, khó thoát khỏi tội lỗi, thiện tâm của bà chưa hẳn đã mất bà nên quay hướng chưa muộn lắm đâu.
Nghe nói đúng quá, bà ta giật mình khóc sụt sùi và thưa:
·         Thưa Tôn giả tôi vẫn biết thế nhưng không có con đường nào hơn, tôi mượn lạc thú để quên hết uẩn khúc của cuộc đời, quên quá khứ đau thương.
Mục Kiền Liên bình thản khuyên:
·         Thông thường với những điều càng cố quên thì càng nhớ, càng nhớ lại càng thấy đau, càng đau thì lòng càng căm tức, càng oán tức lại có thể phát khùng điên. Ở đời có hai hạng người mạnh nhất là: Người không có tội lỗi. Người có tội lỗi mà biết ăn năn sám hối. Thân thể quần áo dơ bẩn dùng nước giặt rửa, tâm hồn nhiễm đầy trần cấu, Phật pháp có năng lực làm cho trong sạch thánh thiện. Nếu biết sám hối bà sẽ hết tội, tăng phước trở nên con người gương mẫu.
·         Nhưng tội lỗi quá nhiều, sám hối bao giờ mới hết tội… tôi đã mượn tiền tài và sắc đẹp làm lung lạc không biết bao nhiêu người đàn ông nhẹ dạ. Tôi đã phá tan hạnh phúc của nhiều gia đình, rồi tôi cũng bị người cùng phái nguyền rủa, có lần tôi suýt thiệt mạng. Nếu tôi phơi bày hết tâm sự Tôn giả càng khinh ghét tôi bội phần.
·         Với giáo pháp của Phật khi nghe bà bộc lộ tâm hồn, tôi sẽ tăng thêm từ ái, không có khi dễ gì đâu.
·         Tôi là con của Trưởng giả ở thành Ðức Xoa Tỳ La, tên là Liên Hoa Sắc, lúc lên 16 tuổi tôi lấy chồng, chẳng may cha chồng chết sớm mẹ chồng tôi còn xinh đẹp và sinh lý còn cường thịnh, do đó bà ta đã khuynh đảo chồng tôi, phạm tội loạn luân. Quá buồn tôi xin ly dị để lại cho chồng tôi một bé gái, rồi tôi đi lang thang như kẻ mất hồn. Sau đó tôi kết bạn với một chàng thương gia trẻ tuổi, tôi ở nhà lo việc quản gia chồng tôi lại đi đó đi đây để buôn bán. Làm ăn phát đạt lắm tiền của lại sinh tật, một chuyến đi buôn xa trở về, chồng tôi đem về một hầu thiếp son trẻ, gởi ở nhà một người bạn thân. Thường muợn cớ đến nhà bạn hàn huyên chồng tôi ít ngủ ở nhà, nghe bà con xì xầm tôi nổi cơn ghen, quyết tìm cho bằng được và ăn thua đủ với kẻ đã phá hại hạnh phúc gia đình tôi; không ngờ khi chạm mặt nhau, hầu thiếp của chồng tôi lại chính là con gái đời chồng trước của tôi. Oan trái gì mà ghê thế! Mẹ chồng tôi lại đi cướp chồng của tôi, rồi con tôi và tôi lại cùng chung một chồng. Xưng hô như thế nào cho phải đạo lý? Uẩn khúc như thế hỏi ai có còn chịu đựng nổi?
·         Khi tỉnh lại, không giữ được thăng bằng của tâm hồn tôi lại bỏ nhà ra đi, mượn những cuộc truy hoan đó đây đùa cợt cho vơi sầu. Chuyện của đời tôi thật quá bi thảm, Tôn giả có đủ năng lực để cứu vớt tôi chăng?
Nghe tâm sự não nùng của Liên Hoa Sắc, Ngài đem thuyết duyên sinh, thiện ác nghiệp báo, nhân quả luân hồi giảng giải cho Liên Hoa Sắc nghe. Khi thấy Liên Hoa Sắc có thể hồi tâm, Ngài hướng dẫn Liên Hoa Sắc về bái yết Ðức Phật. Liên Hoa Sắc hết lòng sám hối, tinh tấn tu hành, chẳng bao lâu chứng quả A La Hán và có thần thông số một bên phái nữ.
Mục Kiền Liên với Lễ Vu Lan Bồn
Trong hàng Thánh chúng, Mục Kiền Liên không những là vị thần thông đệ nhất, bản tính rất năng động mà còn là một vị hiếu đạo hơn hết. Một hôm nhớ mẹ, Ngài vận dụng thần thông đi khắp mọi nơi để tìm mẹ. Ngài thấy mẹ đang ở chốn địa ngục, ốm yếu gầy còm và vô cùng đói khát. Ngài đem một bát cơm đến dâng lên mẹ là bà Thanh Ðề, mừng quá bà dùng tay trái che bát và tay phải bốc cơm đưa vào miệng. Nhưng than ôi! Cơm thành than đỏ, bà không thể nào ăn được. Mục Kiền Liên rơi nước mắt lòng buồn vô hạn, Ngài vận dụng đủ mọi phương tiện để cứu mẹ nhưng không có kết quả.
Trở về bạch sự tình và hỏi lý do, Ðức Phật nói:
·         Mục Kiền Liên! Lúc sanh tiền mẹ ông đã hủy báng Phật pháp, chửi mắng chư Tăng, bà không tin nhân quả luân hồi. Ðặc biệt bà rất bỏn xẻn, chẳng bao giờ bà bố thí cho ai, kể cả bố thí cho con kiến một hạt gạo. Từ đó sau khi chết bà phải chịu các quả báo như thế. Ông tuy là người con hiếu đạo, muốn đền đáp thâm ân nhưng sức của cá nhân có hạn, dù có thần thông một mình ông cũng không thể giải cứu nghiệp lực của bà Thanh Ðề. Ông hãy đợi đến ngày rằm tháng bảy, ngày chư Tăng mãn hạ thiết lễ Vu Lan nhờ chư Tăng chú nguyện, mẹ ông mới thoát khỏi cảnh địa ngục.
Theo như lời Phật dạy, ngày rằm tháng bảy Ngài sắm sửa trai diên, dâng cúng mười phương Tăng và nhờ thần lực của chư Tăng chú nguyện. Quả như vậy, với đạo nghiệp tấn tu ba tháng, chư Tăng không những giúp cho bà Thanh Ðề, mà nhiều người khác trong ngày đó cũng thoát khỏi địa ngục. Kinh Vu Lan và ngày Lễ Vu Lan còn gọi là ngày rằm xá tội vong nhân có từ đó. Vu Lan Bồn có nghĩa là mở sợi dây treo ngược cho nguời có tội, Trung Quốc còn gọi là Giải đảo huyền.
Mục Kiền Liên Nạn Vong
Vào thời Ðức Phật, Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên là hai cánh tay đắc lực của Phật, cả hai đã làm cho ngoại đạo phải kính sợ. Xá Lợi Phất đã dùng trí huệ biện tài chinh phục ngoại đạo, với dũng khí kiên cường năng động, Mục Kiền Liên dùng thần thông lấn lướt hàng ngoại đạo. Bởi thế ngoại đạo rất oán ghét NgàI và luôn tìm cơ hội bức hại.
Một hôm trên đường đi khất thực tại thành Thất La Phiệt cùng với hai môn đệ là Mã Túc và Mãn Túc, Ngài đã bị bọn lõa hình ngoại đạo vây đánh. Vì bất ngờ và quá đông, Tôn giả bị trận đòn hội đồng mà vong mạng. Về cái chết của Mục Kiền Liên có sách lại chép: Tại núi Y Tư Xa Lê, bọn lõa hình mai phục chờ Mục Kiền Liên đi ngang qua rồi ném đá xuống như mưa. Dù có thần thông nhưng vì bất ngờ quá không kịp đối phó, Ngài đã tử thương.
Một sách khác lại chép: Một hôm trên đường đi du hoá trở về, Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên bị đồ đệ của phái Ni Kiền Tử thường gọi là phái lõa hình, đem gậy gộc ra chặn đường gây sự. Bọn chúng hỏi Xá Lợi Phất: “Trong chúng chánh mạng (lời tự xưng của phái lõa hình) có sa môn không?” Vốn bậc trí tuệ, đoán biết được ý đồ của bọn chúng Ngài trả lời: “Chúng chánh mạng sa môn không. Chúng thích ca sa môn có, nếu A La Hán còn tham ái là không có kẻ ngu si.” Không hiểu ý, tưởng đó là lời khen mình, họ để cho Xá Lợi Phất đi. Bọn lõa hình quay qua hỏi Mục Kiền Liên, giọng đanh thép Mục Kiền Liên đáp: “Trong chúng của các ông làm gì có quả sa môn.” Cho là giọng trịch thượng, bọn lõa hình tức giận vác gậy gộc đánh Mục Kiền Liên, không chịu nổi trận đòn, Mục Kiền Liên bất tỉnh, tuởng là địch thủ đã chết bọn chúng bỏ đi. Xá Lợi Phất trở lại tìm xem bạn như thế nào, thấy Mục Kiền Liên bất tỉnh thân thể tím bầm, máu ra lai láng, Xá Lợi Phất lấy cà sa làm võng đưa Mục Kiền Liên về Tinh Xá. Ðại chúng hỏi Ngài: “Tôn giả là bậc có thần thông, sao lại chịu thua thiệt đến thế?” Mục Kiền Liên liền đáp: “Vì bất ngờ hơn nữa khi nghiệp lực đến, chỉ một chữ Thần còn chưa thể được, huống là phát Thông.” Nói xong Tôn giả vào Niết Bàn.
Dù các sách chép có phần hơi khác nhau, nhưng các sách đều có ghi là, bọn lõa hình ngoại đạo đã bức hại Mục Kiền Liên. Khi nghe tin Ngài bị ám hại Vua A Xà Thế đã phẩn nộ và hạ lệnh truy nã bọn lõa hình và xử giảo.
Sau khi hỏa táng Mục Kiền Liên, Ngài Xá Lợi Phất Mã Túc và Mãn Túc đã đem hàI cốt của Mục Kiền Liên về trình Phật. Ðức Phật tập họp chúng Tỳ kheo lại và dạy:
·         Này các vị Tỳ kheo! Hãy chiêm ngưỡng hài cốt của Mục Kiền Liên. Ðã mang sắc thân chắc chắn còn nghiệp phải trả, nhục thể phải chịu luật vô thường, do đó sinh tử trả nghiệp là chuyện thường tình, không có gì phải hoang mang lo sợ, khi xả báo thân con người cần giữ tâm hồn không nên mê muội, oán thù, sân giận, trong các nghiệp cận tử nghiệp là nghiệp nặng nhất. Mục Kiền Liên vì tuyên dương giáo pháp mà phải tử nạn đó là một vinh dự, đáng cho tất cả noi gương. Người chiến sĩ phải da ngựa bọc thây, mới xứng đáng là chiến sĩ anh hùng. Chúng ta hãy xây tháp tôn thờ hà cốt của Mục Kiền Liên. Hài cốt của Ngài và hài cốt của Ngài Xá Lợi Phất đều được tôn thờ và giữ gìn nguyên vẹn. Khi đến chiếm Ấn Ðộ, người Anh đã thỉnh hai hài cốt nầy về trưng bày tại viện bảo tàng Luân Ðôn. Năm 1947, sau khi Ấn Ðộ dược độc lập, chính phủ Anh đã hoàn trả hài cốt của hai Ngài lại cho chính phủ Ấn.
Nhận Thức và Kết Luận
Ðúng là sinh nghề tử nghiệp! Suốt cả cuộc đời hành đạo Mục Kiền Liên đã dùng thần thông làm phương tiện. Bởi thế trong hàng tứ chúng Ngài được suy tôn là bậc thần thông đệ nhất, nhưng vì có thần thông mà Ngài bị hàng ngoại đạo oán thù, và bọn lõa hình đánh Ngài đến tử thương, đó là nghiệp lực còn tồn tại Ngài phải trả để vào vô dư Niết Bàn. Sức thần thông của Ngài vẫn không cưỡng lại được nghiệp lực hữu dư, còn thân ngũ ấm là còn nghiệp lực phải trả. Người đạo sĩ hơn kẻ thường tình là mỉm cười trước cái chết không oán hờn, than khóc, tiếc nuối, mê mờ. Trước mọi biến thiên của cuộc đời, tâm an tịnh là đạt Niết Bàn. Thần thông không phải là một phép huyền bí, đó là một năng lực vô biên sẳn có trong mỗi con người. Khi sáu giác quan của con người được tập luyện phát triển đến chỗ ưu việt, tức là có lục thông.
Xưa có một người khách bộ hành đi qua một khu rừng có nhiều cọp dữ, chiều hôm đó dù trời chưa tối hẳn nhưng cọp đã ra đường mòn. Thấy cọp, khiếp quá người lữ hành nhảy lên cành của một cây cổ thụ cao. Khi cọp đi rồi, người lữ khách không sao xuống được, vì thân cây quá lớn lại cao, cành cây cách mặt đất hơn cả chục thước. Mãi đến sáng hôm sau có người đi qua, người lữ khách mới nhờ khách bộ hành bắt sào cho anh ta tụt xuống. Khách bộ hành hỏi lý do tại sao cành cây cao thế mà anh lại nhảy lên được, người lữ khách bảo là không hiểu được, khi thấy cọp tôi nhảy lên, không ngờ lại lên được cành cây cao. Khi cọp đi rồi tôi hết sợ lại không nhảy xuống được. Ðó là một điều lạ không thể giải thích được, nếu với thời xưa người ta cho là thần linh phù hộ. Thât ra không phải thế, theo đạo Phật đó là khả năng vô biên tiềm ẩn trong mỗi con người, có điều với người tu luyện thì khả năng đó phát triển và luôn luôn sử dụng được. Còn người bình thường khả nămg đó chỉ bộc phát một lần thôi. Người có luyện tập võ nghệ họ nhảy từ mái nhà này sang mái nhà khác được, đó cũng là do họ có triển khai được một phần nào các khả năng tiềm ẩn vô biên đó. Còn người mộng du nhảy hoặc leo tường không cần thang, họ chỉ làm được trong lúc mộng du mà thôi. Từ thực tế đó cho thấy thần thông không có gì là huyền bí, nhưng Phật không cho các Tỳ kheo tu luyện, vì ngại Tỳ kheo chọn phương tiện làm cứu cánh. Hơn nữa người không có phẩm hạnh cao, sẽ sử dụng thần thông vào việc bất chính trở ngại cho con đường giải thoát sinh tử luân hồi.
Qua đạo nghiệp của Mục Kiền Liên, còn có vấn đề tại sao bà Thanh Ðề phải nhờ sức chú nguyện của chư Tăng mới siêu thoát? Ðây cũng không phải là vấn đề huyền bí, thần quyền trái luật nhân quả. Theo Phật giáo cốt lõi là trí tuệ giải thoát chứ không phải là đức tin thần bí, thần quyền. Tất cả mọi vấn đề đều tùy thuộc vào thuyết duyên sinh, luật nhân quả. Bàn về vấn đề này Hòa thượng Thích Thiện Siêu có viết:
·         Luật nhân quả nằm trong luật nhân duyên, đã là nhân duyên thì dù nhân dù quả đều luôn luôn thay đồi. Nếu một người đã tạo nhân xấu, nhưng may gặp được duyên tốt của Phật lực, pháp lực, tăng lực, thời các nhân xấu của họ cũng thay đổi, hoặc được siêu thoát hoặc bớt chịu khổ hơn, như cái cây đã héo gặp khí mát thổi tới mà được tươi trở lại. Trong Phật giáo sự tạo nghiệp và chuyển nghiệp luôn luôn đi liền với nhau.
Nhìn chung con người và đạo nghiệp của Mục Kiền Liên có hai điểm ưu việt, đó là dũng khí và hiếu hạnh. Chúng ta nên noi theo gương Ngài để trở thành con người biết đền đáp bốn ân, noi theo chí khí của Ngài để giữ vững niềm tin. Tin phật, tin Pháp, tin Tăng và tự tin để vượt khó khăn trên con đường thực hiện giới, định, huệ và phụng sự đạo pháp, làm lợi cho gia đình, xã hội và nhân loại.
Tôn Giả Ca Chiên Diên 
Katyayana – luận Nghị Ðệ Nhất
Ngày xưa để được gọi là một nhà nho đúng nghĩa, ngoài thông hiểu tứ thư, ngũ kinh, biết làm thơ phú, nhà nho còn phải biết thêm bốc, y, lý và số. Về Phật giáo để được toàn bích ngoài thông hiểu nội điển, một tăng sĩ cần phải biết thêm Thanh minh, Nhân minh, Công xảo minh và Y phương minh gọi chung là Ngũ Minh. Nếu không được như thế, tối đa cũng phải biết 4 hoặc 3, tối thiểu phải biết hai minh. Vì trong khi truyền đạo, dù thuộc kinh điển nhưng trình bày không mạch lạc, khúc chiết, lý luận không biện chứng, logic, thì khó mà thuyết phục được người nghe. Mặt khác, nếu thuộc kinh điển có lý luận, nhưng giữa diễn giả và thính chúng ngôn ngữ không đồng, phải nhờ đến thông dịch, diễn giả cũng không thể truyền đạt hết tư tưởng, quan điểm cho thính chúng. Bởi thế để trở thành một người thuyết pháp nhà nghề, ngoài am tường nội đIển, tối thiểu các tăng sĩ cần rèn luyện, biết thêm ngôn ngữ và có kiến thức phổ thông. Thời Phật còn tại thế, trong số 10 đại đệ tử, Ca Chiên Diên (Katyayana) không những chỉ thông hiểu những tư tưởng triết học đương thời, am tường giáo pháp của ức Phật, mà còn có tài luận nghị khiến ai vấn nạn cũng đều thán phục. Phật và Thánh chúng phong tặng cho Ngài là bậc Luận Nghị Ðệ Nhất.
Dòng Họ và Biện Tài của Ca Chiên Diên
Ở miền Nam Ấn Ðộ nước A Bà¹n Ðồ thôn Di Hầu thuộc dòng Bà La Môn, có một gia đình rất giàu sang và danh giá, được nhiều người kính nể, Ngài Ca Chiên Diên được sinh ra trong gia đình này. Ca Chiên Diên là con thứ, thân phụ là một quốc sư đương thời, Ca Chiên Diên là họ, tên Ngài là Na Da Là, về sau Ngài rất nổi tiếng nên mọi người dùng họ để gọi thay. Ca Chiên Diên cũng có một người anh cũng thông minh tài trí theo cha học đạo Bà La Môn. Ðể uyên bác hơn, Ca Ca đi nhiều nơi tham học đạo lý với các Bà La Môn danh tiếng. Sau khi đã học hết kinh điển của Bà La Môn, Ca Ca trở về cố hương với ý định lập đàn tràng thuyết giảng Kinh Vệ Ðà. Trong khi anh du học ở phương xa, ở nhà Ca Chiên Diên cũng theo cha dồi mài kinh sử, cùng lúc với anh Ca Chiên Diên cũng lập đàn tràng, đối diện với đàn của anh để thuyết giáo, xem đã đủ sức lý luận trước mặt mọi người chưa?
Trước hai đàn tràng, mọi người cho là Ca Chiên Diên hùng biện hơn Ca Ca, do đó hầu hết thính chúng đều hướng về Ca Chiên Diên. Thấy em làm mất mặt trước đám đông Ca Ca đến trước thân phụ thưa kiện và đòi trừng trị tội trịch thượng của Ca Chiên Diên một cách thích đáng. Ca Chiên Diên được triệu đến để tiện bề phân xử. Trước cha và anh Ca Chiên Diên quỳ lạy và bày tỏ:
·         Thưa cha! Xin cha hãy rộng lượng soi xét, trong lúc anh con đi phương xa học hỏi, ở nhà con cũng theo cha cố công dồi mài kinh sử. Con thiết lập đàn tràng để biết công lao học hỏi trong bao năm qua kết quả như thế nào? Chỉ có thế thôi con cũng không có ý đồ cạnh tranh hơn thua, trước thính chúng con không rắp tâm dụ dỗ ai, hai anh em của con sẽ phân trần với nhau, xin cha chớ bận tâm. Hướng về Ca Ca, Ca Chiên Diên cũng tỏ lời xin anh cảm thông và sẽ cùng nhau hòa giải, vì đây chẳng qua chỉ là sự hiểu lầm mà thôi.
Trước hai người con Quốc sư đều quý mến, không biết nên phân xử thế nào cho phải, chỉ hứa sẽ cho biết ý kiến sau. Sau khi bàn với phu nhân, ông quyết định để làm an lòng cho Ca Ca, vì ông này có nhiều háo thắng vả lại cũng để bảo tồn danh dự cho Ca Ca, Ca Chiên Diên được gởi qua núi Tần Ðà ở phương Nam để học đạo với Tiên A Tư Ðà. Tiên A Tư Ðà là trưởng huynh của thân mẫu Ca Chiên Diên, ông là vị tiên nhân bác học, chứng tứ thiền, ngũ thông được nhân dân Ấn Ðộ trọng nể lúc bấy giờ. Ca Chiên Diên rất được A Tư Ðà thương mến, vì tư chất thông thái chóng lãnh hội những điều được truyền đạt. Một hôm A Tư Ðà cho Ca Chiên Diên hay rằng:
·         Tuy ta thông hiểu thánh điển Vệ Ðà, nhưng sẽ không bằng Thái Tử Tất Ðạt Ða con Vua Tịnh Phạn, vì Thái tử sẽ xuất gia thành đạo vô thuợng và sẽ chuyển bánh xe chánh pháp tại vườn Lộc Uyển, xứ Ba La Nại. Sau này con hãy đến đó thọ giáo để triển khai tài năng luận nghị của con, riêng ta chẳng bao lâu nữa sẽ từ giã cuộc đời, không có vinh dự gặp Phật.
Rồi để chuẩn bị cho cháu, A Tư Ðà dẫn Ca Chiên Diên xuống núi đến lập tịnh thất tại Ba La Nại; đúng như lời dự đoán, ít lâu sau A Tư Ðà từ giã cõi đời. Nhớ lời khuyên, nên sau khi Ðức Phật đến Lộc Uyển chuyển pháp luân, Ca Chiên Diên đI tìm Phật cầu sư học đạo, chứng Thánh quả và trở thành bậc Luận Nghị Ðệ Nhất.
Ðạo Nghiệp Của Ca Chiên Diên
Biện Luận Pháp Bình Ðẳng
Trong hàng đệ tử của Phật, có hai nhân vật biện luận tài tình đó là Ngài Phú Lâu Na và Ngài Ca Chiên Diên, nhưng khi thuyết pháp Phú Lâu Na thiên về số đông còn Ca Chiên Diên lại thích lý luận với từng người một. Một hôm, Ngài đến phía Tây Ấn Ðộ, nước Ma Thâu (Mathian) truyền đạo, sau khi xem xét dân tình phong tục địa phương, lề lối sinh hoạt xã hội, Ngài đến yết kiến vua nước Ma Thâu. Thấy Ca Chiên Diên bỏ dòng Bà La Môn theo dòng Sát Ðế Lợi là một chuyện lạ, vua Ma Thâu hỏi Ca Chiên Diên:
·         Ở đời ta chưa thấy ai bỏ dòng họ cao quý sinh từ đầu Phạm Thiên, để đi theo dòng họ thấp hơn như Tôn giả. Tai sao lại như thế? Có ai ép buộc chăng?
·         Ðại vương! Tôi cảm nhận Ðức Phật là bậc đại Thánh, trước đây cậu tôi là Tiên A Tư Ðà khuyên tôi, tôi rất nghi ngờ, có thể là không xác thực, vì tôi cũng nghĩ như Ðại vương, trong đời ai có thể hơn dòng dõi Bà La Môn được. Nhưng khi gặp Phật, nghe Phật khai thị, tôi tự nghĩ trước đây mình vô cùng lầm lẫn. Với luật Ma nu xã hội được chia thành 4 đẵng cấp: – Bà La Môn, Sát Ðế Lợi, Phệ Xá và Thủ Ðà La. Luật này có ra, chẳng qua là do dòng Bà La Môn muốn củng cố uy thế mà đặt ra. Giữa con người với con người, ai cũng dòng máu đỏ, nước mắt mặn, ai cũng chào đời với tiếng khóc, chưa hề có dấu tinka ở trán, hay các vòng vàng ở cổ tay, cổ chân. Lớn lên nếu được học, ai cũng có thể thuộc Kinh Vệ Ðà, vào thương trường ai cũng có thể có thể biết buôn bán. Sống ở rẫy bái rộng đồng ai cũng có thể biết cày cấy, được chỉ nghề nghiệp ai cũng có thể sản xuất ra vật tiêu dùng, người không chịu học hỏi tất sẽ ngu dốt. Do đó, có dòng này dòng khác là do luật Manu và xã hội gán ép cho con người. Hơn nữa thiện ác hay cao quý, thấp hèn người dòng nào lại không có. Thế nhưng, trong nhà tù, kẻ làm tôi tớ đều là người thuộc dòng thứ dân. Còn trong dòng Bà La Môn, Sát Ðế Lợi không hiếm người phạm pháp, làm điều độc ác nhưng nhờ được che chở bởi dòng họ, người bất lương tội lỗi vẫn ăn trên ngồi trước, thật là bất công! Thái tử Tất Ðạt Ða, người đã thấy rõ thực trạng của tư tưởng tôn giáo, xã hội Ấn Ðộ, nên đã từ bỏ cuộc sống vương giả để đi tìm đạo và thành đạo. ở đời từ xưa đến nay, có mấy ai dám từ chối địa vị cao sang quyền quý và lắm lạc thú như Phật Thích Ca? Hiện nay Phật đang chủ xướng thuyết bình đẳng để xã hội không có cảnh người bóc lột người, người hà hiếp người, người quá dư thừa kẻ làm đầu tắt mặt tối mà vẫn đói khổ. Trong giáo đoàn của người mọi người đều bình đẳng, ai có phẩm hạnh cao tất được tôn trọng, dù đó là người thuộc dòng hạ tiện.
Với tài luận nghị Ngài đã thao thao thuyết phục vua Ma thâu, một cách biện chứng, lôgic, bởi thế nhà vua đã thể hội giáo pháp bình đẳng của Phật, qua lần gặp Ca Chiên Diên nhà vua cũng thừa nhận Ngài là bậc biện luận đại tài, và yêu cầu được giới thiệu để quy y Phật. Khi trở thành một phật tử, vua Ma Thâu áp dụng phép bình đẳng của Phật để điều hành việc nước. Tất cả tù nhân ở các trại giam đều được phóng thích, ai phạm pháp, có tội đều được đưa đi giáo dục, dù đó là người thuộc dòng Bà La Môn hay Sát Ðế Lợi. Nhờ thế cả nước mọi người đều vui mừng, dân tình an cư lạc nghiệp, nhân dân nước Ma Thâu cũng rất cảm kích giáo pháp từ bi, trí tuệ, bình đẳng của Phật Thích Ca.
Ca Chiên Diên đem giáo pháp bình đẳng của Phật truyền bá khắp nơi, khiến mức độ tôn kính Bà La Môn trong nhân dân ngày một giảm sút, bởi thế các Bà La Môn rất oán hận Ca Chiên Diên và luôn luôn tìm cơ hội để đả kích. Một hôm có một Bà La Môn khá giỏi biện luận, từ xứ Câu Thi Na xa xôi, tìm đén Ba La Nại kêu đích danh Ca Chiên Diên để hạch hỏi:
·         Này Ca chiên Diên! Ta nghe ngươi bỏ Bà La Môn giáo để theo ông Cù Ðàm phải không? người phản bội tín ngưỡng lỗi nhiều hay ít? Ông lại đem giáo pháp của Phật thuyết dụ các Bà La Môn, thật là vô lễ.
Nghe Bà La Môn kết đủ thứ tội một cách ầm ĩ, với đức tính điềm tĩnh nhưng lý luận sắc bén, Ca Chiên Diên chậm rãi trả lời:
·         Ông xem tấm áo cà sa trên thân tôi là biết tôi đã cải tôn giáo rồi, cần gì phải đặt vấn đề. Với tín ngưỡng có nhiều thần quyền, có luật lệ mất bình đẳng, người theo tín ngưỡng đó có đáng để tuân hành không? Người đã biết con đường chánh đạo có cần hướng dẫn cho gia đình bạn hữu, người theo tà giáo trở về nẻo chính hay không?
Chưa chịu thua vì mục đích đến để hạ bệ Ca Chiên Diên, lão Bà La Môn hỏi:
·         Này Ca Chiên Diên! Ngươi là Tỳ kheo, sao không biết giữ oai nghi tế hạnh, trước đây đã không cung kính một lão Bà La Môn trưởng thượng?
Ca Chiên Diên điềm tĩnh trả lời:
·         Giá trị con người không ở tuổi tác mà là ở phẩm hạnh, tôi đã quy y Phật, quy y pháp của Phật, cho nên đương nhiên tôi không thể chấp nhận tà thuyết vái lạy thầy tà bạn ác.
Nghe Ngài đối đáp sắc bén, lão Bà La môn khâm phục và xin được giới thiệu để ra mắt Ðức Phật.
Nguyên nhân tranh cãi
Một buổi sáng sớm trên đường đi khất thực, một Bà La Môn chận Ca Chiên Diên lại và hỏi:
·         Tôi nghe tiếng Tôn giả đã lâu nay mới gặp, thật là may mắn. Hiện giờ trong tư tưởng tôi có một thắc mắc mà không giải đáp được, xin Tôn giả chỉ giúp.
Âng cứ tự nhiên nói, Ngài đáp.
·         Thưa Tôn giả trên thế gian này tôi thấy Sát Ðế Lợi tranh cãi với Sát Ðế Lợi, Bà La Môn tranh cãi với Bà La Môn. Nguyên nhân gì mà họ lại tranh cãi như thế?
·         Ca Chiên Diên đáp: – Vì tham dục mê hoặc.
·         Thưa Tôn giả! còn Sa Môn với Sa môn tranh cãi vì lý do gì?
·         Vì ngã kiến và pháp chấp.
·         Thế trên cõi đời này ai là người không bị tham dục, mê hoặc và ngã kiến pháp chấp để nương theo?
Chẳng do dự Ngài đáp: – Ðức Phật!
Ðạo sĩ Bà La Môn yêu cầu Tôn giả cho được gặp Phật và quy y theo Ngài.
Bán nghèo
Taị nước A Bàn Ðề, trên đường đi du hóa, Ca Chiên Diên gặp một người đàn bà ôm một vò nước ngồi khóc nỉ non bên bờ sông. Thấy cảnh đáng thương Ngài dừng bước hỏi:
·         Tại sao lại khóc lóc thê thảm như thế? Hãy cho biết lý do thử xem tôi có giúp ích gì được cho bà chăng?
·         Chắc ông không giúp được gì đâu? Bà lão nói.
·         Nếu không giúp được vật chất tôi có thể giúp cho bà phương pháp giải quyết, Ngài đáp.
·         Ðời thật là bất công! Bà lão nói, người giàu thì càng giàu thêm, dư ăn dư xài, kho lẫm tràn đầy, ngược lại người nghèo ngày càng xơ xác, đổ mồ hôi mà vẫn không đủ ăn. Cái khó lại bó cái khôn! không có cách xoay xở. Tôi sinh ra trong một gia đình nô lệ khốn cùng, từ khi chào đời đến nay không lúc nào mà cái khổ không đeo đẳng. Vì thế đến nay tôi không còn sức chịu đựng, chỉ muốn đi tìm cái chết may ra mới hết khổ.
·         Thôi đừng khóc lóc nữa, trong cuộc đời này đâu phải chỉ có bà nghèo. Thiên hạ phần đông là người nghèo, bà thử xem tại nước này có bao nhiêu là nhà giàu. Với những thứ tiền của tràn đầy kho lẫm, chắc gì những người giàu đã là không khổ? Vì lòng tham ô không đáy có một họ lại muốn mười. Lòng tham dục hành hạ con người ghê gớm lắm! Bởi thế tuy nghèo, nhưng lòng không dơ bợn, biết vừa đủ là thấy thoải mái hơn. Ðức Phật đã nói: “Người giàu tuy ở thiên đường cũng không vừa ý, người nghèo biết vừa đủ tuy nằm dưới đất vẫn thấy an lạc.”
·         Ðó là lý thuyết thôi Ngài ơi! Thực tế khác hẳn. Người giàu khác với kẻ nghèo, vì muốn ăn là có ăn, muốn mặc là có mặc. Họ bỏ tiền ra là muốn gì cũng được. Còn nghèo như tôi suốt đời làm nô lệ, làm việc quần quật cả ngày mà đôi lúc còn bị roi vọt, chửi rủa, thức từ 4,5 giờ sáng đến quá 12 giờ đêm mà cơm không đủ no, quần áo rách tả tơi, cái nghèo đeo đẳng suốt đời, vì thế tôi muốn chết may ra mới hết thống khổ
·         Vậy bà hãy bán cái nghèo đi.
·         Cái nghèo đâu có bán được, ai lại dại dột mà đi mua cái nghèo.
·         Nếu bà chịu bán tôi sẵn sàng mua.
·         Thôi đừng đùa, tội quá Ngài ơi!
·         Tôi tu hành nên không có nói đùa đâu, tôi mua thật. Cái nghèo có thể bán lắm chứ? Có điều là người ta không biết cách bán, phương pháp bán nghèo là bố thí. Mọi sự kiện trên đời đều có nguyên nhân. Giàu là kết quả của sự tu phước bố thí, còn nghèo là vì đã quá keo kiệt. Vì thế thực hành bố thí là phương pháp bán nghèo.
·         Nhưng tôi nghèo quá biết lấy gì mà bố thí, cái vò trong tay tôi là của chủ Bà La Môn tôi đâu có đem bố thí được. Lỡ tay làm bể là đã bị ăn đòn, huống gì là đem bố thí cho người khác.
·         Tôi đang khát nước vậy bà hãy đem vò nước xuống sông múc nước bố thí cho tôi.
Nghe xong bà liền đi múc nước bố thí và tỉnh ngộ. Nhờ Ca Chiên Diên chỉ dẫn, bà thường làm việc bố thí, lòng được thoải mái và cuộc đời trở nên an lạc hơn trước. Nhờ tài luận nghị, suốt cuộc đời đi giáo hóa Ngài đã cảm hóa được nhiều người, dẫn dắt người nghèo về với Ðức Phật, khiến ai cũng cảm thấy an lạc ngay trên cõi đời này.
Nhận Thức và Kết Luận
Ðức Phật ra đời với mục đích chính yếu là khai hóa cho nhân loại chúng sinh biết con đường giác ngộ và giải thoát khỏi sinh tử luân hồi. Tuy nhiên không phải vì thế mà Phật bỏ quên vấn đề xây dựng con người, xây dựng xã hội, đó là mầm mống cho giải thoát sinh, già, bệnh, chết. Nếu mầm mống không xây thì lâu đài không có chỗ dựa vững chắc. Trong kinh Bách Dụ có câu chuyện:
·         Người mướn thợ xây nhà mà chỉ đòi xây lầu không cần xây nền móng, người đời gọi đó là xây nhà trên nền cát, việc làm đó chẳng bao giờ thực hiện được.
·         Trong kinh Phật dạy: Phật pháp bất ly thế gian giác, ly thế mích bồ đề do như cầu thế giác. Nghĩa là: Phật pháp không ngoài thế gian mà giác ngộ, xa lìa cuộc đời mà tin bồ đề, giống như tìm lông rùa sừng thỏ.
Một trong những nguyên nhân thúc đẩy Thái Tử Tất Ðạt Ða xuất gia chính là xã hội không bình đẳng, không an lạc của Ấn Ðộ lúc bấy giờ. Noi guơng Ðức Phật trên đường đi bố giáo Ca Chiên Diên đến gặp vua nước Ma Thâu, nhân cơ hội nhà vua kích bác vấn đề bỏ đẳng cấp cao theo đẳng cấp thấp của mình, Ngài đã đem thuyết bình đẳng diễn giảng. Sau cuộc hội kiến với Ca Chiên Diên, vua Ma Thâu áp dụng giáo pháp bình đẳng vào xã hội, nhờ đó nước Ma Thâu được an lạc, không còn cảnh người bóc lột người, kẻ nô lệ luôn luôn chịu cảnh nô lệ, người Bà La Môn cứ tiếp tục ăn trê ngồi trước dù phạm pháp, ác độc. Qua câu chuyện vua nước Ma Thâu, thực hành pháp bình đẳng trong công tác xây dựng xã hội cho thấy đạo Phật không tiêu cực, xa thực tế để đi tìm một thế giới trên chín tầng mây.
Ngoài truyền bá giáo lý bình đẳng Ngài còn đề cao giá trị con người qua phẩm giá đạo đức, để từ đó có tinh thần vị tha, bố thí giúp cho con người hết đói nghèo và đặc biệt là loại trừ tính tham dục, mê hoặc, ngã kiến, ngã chấp, để sống hòa hợp không tranh cãi. Với những tinh thần đạo lý, qua các cuộc hùng biện của Ca Chiên Diên, ngày nay con người cần được phổ biến học hỏi. Bởi vì cuộc sống của con người quá chênh lệch, giữa kẻ giàu và người nghèo, kẻ sang người hèn, cần có một nhịp cầu thông cảm để nương tựa và giúp đỡ lẫn nhau hầu xây dựng cho nhân loại một cuộc sống thanh bình và an lạc
Tôn giả CA CHIÊN DIÊN
(Katyayana – Kaccayana, Kaccana)
(Vị luận sư lỗi lạc nhất)
1.- THI ĐUA DIỄN THUYẾT VỚI ANH:
Tại thôn Nhĩ Hầu (có thể cũng tức là kinh thành Ưu Thiền Ni, Ujayana – Ujjeni – chú thích của người dịch) của vương quốc A Bàn Đề (Avanti) ở miền Nam Ấn Độ, có một gia đình hào phú thuộc chủng tộc Bà la môn, rất được mọi người kính trọng. Đó là gia đình của tôn giả Ca Chiên Diên. Thân phụ của tôn giả được phong chức quốc sư của quốc vương đương thời. Gia đình ấy có ruộng đất rộng lớn, nuôi hàng trăm nô bộc, có quyền thế lớn, có gia sản lớn, có thể nói, đó là gia đình danh giá bậc nhất của vương quốc.
Thật ra, tên của tôn giả là Na La Đà (Nalaka), còn Ca Chiên Diên là họ. Bởi vì sau này tiếng tăm của tôn giả trở nên lừng lẫy, cho nên mọi người đã lấy họ làm tên để gọi tôn giả, rồi thành quen.
Tôn giả là người con thứ hai trong gia đình. Anh của tôn giả là một người tư chất thông minh, tướng mạo anh tuấn, tính tình hào sảng. Sau khi theo cha xuất gia, và trở thành một vị sa môn của Bà la môn giáo, ông một mình đi chu du cầu học. Ông đã đi rất nhiều nơi, học với rất nhiều vị minh sư, cho nên được thông hiểu nhiều về học thuật, lại có được nhiều kĩ năng. Khi tự thấy rằng mình đã công thành danh toại, ông trở về cố hương. Một ngày nọ, ông triệu tập đông đảo dân chúng lại để giảng kinh Vệ Đà, và công nhiên tự cho mình là người thông tuệ nhất về triết học Vệ Đà.
Ca Chiên Diên từ trước đến giờ chưa hề bước chân ra khỏi cửa, nay thấy người anh trở về dựng đài giảng kinh Vệ Đà, bèn cũng dựng đài đối diện với anh, cũng thông báo mời dân chúng để để nghe mình giảng luận về triết lí Vệ Đà. Nhờ có biện tài vô ngại, nhờ nêu lên được những điểm quan yếu, sâu xa, Ca Chiên Diên dần dần đã thu hút hết số thính giả của người anh, Thính giả bình luận với nhau rằng: “Ông em xem ra giỏi hơn ông anh rất nhiều!”.
Nghe lòi bình phẩm này, người anh, vốn bản tính hiếu thắng, đã tỏ ra rất hậm hực, và ghen tức với Ca Chiên Diên, nhưng cả hai anh em đều không ai chịu nhường ai, lời qua tiếng lại, cuối cùng đem nhau đến trước thân phụ để nhờ phân xử. Vói thái độ rất bực tức, người anh nói trước:
- Thưa cha! Xin cha hãy dạy bảo thằng em ương ngạnh của con đi! Nó đã làm mất mặt con quá rồi. Con đã từng đi chu du tham học lâu năm, chẳng lẽ lại không bằng nó! Trong khi con thuyết giảng, nó lại muốn đương đầu với con, cũng dựng đài thuyết giảng, dẫn dụ hết thính chúng của con về cho nó …
Cậu thiếu niên Ca Chiên Diên không tỏ vẻ gì sợ hãi, giải thích:
- Xin cha xét cho! Học vấn là một việc công khai, ai cũng có quyền học hỏi, nghiên cứu và diễn thuyết. Anh con thích đi các nơi để học hỏi, còn con thì chỉ thích ở nhà để tự nghiên cứu lấy. Con không hề muốn phải giỏi hơn anh con, mà chỉ muốn biết rằng trong bao năm nằm nhà cố gắng tự học lấy, con có thu nhập được chút ít kết quả nào không. Rõ ràng là, kết quả của bao năm chu du cầu học, anh con đã mang về nặng trĩu cái tâm hơn thua; còn con nằm nhà chỉ thật lòng học tập mà thôi. Con không muốn phiền cha phải lo lắng dạy bảo, chúng con có thể tự biết lo cho mình, hi vọng anh con cũng biết nghĩ như vậy.
Cha làm quốc sư, đối với hai con đều thương yêu rất mực, đứng trước cảnh này cũng chẳng biết xử trí ra sao. Cuối cùng ông đem câu chuyện bàn với vợ, gởi Ca Chiên Diên về ở với sa môn A Tư Đà (Asita) để học tập, như vậy sẽ tránh được chuyện anh em xích mích.
2.- SỰ DẠY DỖ CỦA ÔNG CẬU:
Đạo sĩ A Tư Đà ở miền Nam của vương quốc, là cậu ruột của Ca Chiên Diên. Ông vừa học rộng, vừa có thần thông, cho nên rất nổi tiếng ở khắp Ấn Độ thời đó. Khi thái tử Tất Tạt Đa (Siddhartha – Siddhatta) ở thành Ca Tì La Vệ (Kapilavastu – Kapilavatthu), ở vương quốc Thích Ca (Sakya) vừa đản sinh, ông liền được vua Tịnh Phạn (Suddhodana) triệu kiến để xem tướng cho thái tử. Ông tâu vua rằng: “Vị thái tử hiền minh này về sau sẽ xuất gia học đạo và sẽ đạt được quả vị giác ngộ vẹn toàn. Rất tiếc thần nay tuổi đã già, sợ không sống được cho đến ngày Ngài thành đạo. Thần tuy không được diễm phúc học tập giáo pháp của Ngài, nhưng thần nhất định dạy bảo đám hậu bối của thần sẽ phải học tập giáo pháp đó”. Nói xong, vì quá tủi thân, ông đã không cầm được nước mắt.
Từ ngày được cha mẹ gửi gấm về đây. Ca Chiên Diên rất được đạo sĩ A Tư Đà cưng quí. Ông đã đem tất cả cái gia sản tinh thần của ông truyền dạy lại hết cho đứa cháu thông tuệ của mình. Để đáp lại, Ca Chiên Diên cũng hết sức siêng năng chăm chỉ để không phụ tấm lòng hoài vọng của ông cậu. Chẳng bao lâu, cả tứ thiền, ngũ thông, Ca Chiên Diên đều hoàn toàn chứng đắc. Từ đó, Ca Chiên Diên không còn nghĩ tưởng gì đến gia đình nữa. Thứ nhất, chàng không muốn dựa vào uy tín và quyền thế của thân phụ để được người đời kính trọng; thứ nhì, nghĩ đến người anh hiếu thắng của mình, chàng biết là không thể nào cùng ở chung được. Do đó, chàng quyết chí tự lập để xây dựng một tương lai cho chính mình. Thỉnh thoảng song thân có cho người xuống gọi chàng về thăm nhà nhưng chàng đã khéo léo từ tạ, không về.
Đạo sĩ thấy cháu mình không còn bị ràng buộc bởi sợi dây gia đình nữa, một hôm ông bảo chàng:
- Cháu ạ! Cứ như chí nguyện của cháu hiện giờ thì trong tương lai cháu nhất định sẽ trở thành một nhân vật lỗi lạc, nhưng chầu cần phải gặp minh sư chỉ dạy mới được. Cái kiến thức hạn hẹp của cậu, nay không còn đủ để đáp ứng cho cái sở học và sở cầu của cháu nữa. Hiện giờ cậu biết có một đấng Đại Giác đã ra đời. Đợi đến khi Người thành Đạo rồi thì cháu hãy mau tìm đến xin tu học với Người.
Ca Chiên Diên nghe cậu nói, lòng nửa tin nửa ngờ, đối với câu bảo rằng, tương lai chàng sẽ trở thành một nhân vật lỗi lạc, thì chàng tin tưởng hoàn toàn mà không có chút gì hoài nghi cả.
Một ngày nọ, đạo sĩ dẫn Ca Chiên Diên đi về hướng kinh thành Ba La Nại (Varasai – Baranasi), vương quốc Ca Thi (Kasi). Khi đến vùng phụ cận của vườn Nai (Mrgadava – Migadaya) thì ông dừng lại, dựng một căn nhà nhỏ để hai cậu cháu cùng ở. Sau khi chỗ ở đã ổn định, đạo sĩ bảo Ca Chiên Diên mỗi ngày phải cầu nguyện ba lần rằng: “Cầu nguyện cho đấng Đại Giác sớm thành đạo”. Rồi một hôm khác nữa, đạo sĩ lại bảo chàng:
- Cháu ạ! Theo cậu dự đoán thì đấng Đại Giác ấy sẽ thành đạo trong một ngày rất gần đây. Sau khi thành đạo, nhất định Người sẽ đến vườn Nai quay bánh xe pháp trước tiên. Cậu chỉ biết đến thế thôi, còn Người sẽ giác ngộ chân lí gì, nói pháp gì, sợ rằng cậu không có đủ phước đức để nghe được. Cháu hãy ghi nhớ lấy, sau khi đấng Đại Giác ấy chứng đạo rồi thì cháu hãy mau mau theo Người mà xin tu học.
Sau khi dặn dò Ca Chiên Diên mọi điều cẩn thận, đạo sĩ A Tư Đà tạ thế. Từ đó, dù không còn được minh sư dắt dẫn nữa, nhưng với kiến thức và tài năng của mình, Ca Chiên Diên vẫn có một chỗ đứng vinh quang trong xã hội. Dù ông không có ý dựa vào cái uy thế quốc sư của thân phụ, cũng như cái danh tiếng lẫy lừng của ông cậu sa môn A Tư Đà, nhưng xã hội quần chúng vẫn trông vào những thứ hào quang ấy mà kính trọng và cúng dường ông; để rồi, thật là đáng tiếc, vì ngày một đắm chìm vào cái vũng danh vọng và lợi dưỡng ấy, Ca Chiên Diên đã quên mất “đấng Đại Giác” mà ông cậu đã từng ân cần dặn dò phải tìm đến để xin tu học.
3.- BÀI KỆ THẦN BÍ:
Ca Chiên Diên tự cho mình là bậc đắc đạo, đương nhiên là phải nhận được cung kính cúng dường của người đời, hà tất phải trông mong ở một “đấng Đại Giác” nào nữa! Bởi vậy, không bao lâu sau ngày đạo sĩ A Tư Đà tạ thế, ông không còn hàng ngày cầu nguyện để sớm gặp “đấng Đại Giác” nữa.
Một thời gian khá lâu sau đó, tại một nơi đồng trống ở vùng phụ cận thành Ba La Nại, người ta bỗng đào được nhiều di tích của một thành phố xưa. Trong số các cổ vật đó, có một tấm bia khắc một thứ cổ tự gì đó trông giống như một bài kệ, mà không ai đọc được cả. Truyền thuyết trong dân chúng nói rằng, giả sử có người đọc được văn bia ấy đi nữa thì về ý nghĩa đích thực của nó cũng chỉ có “đấng Đại Giác” mới hiểu được mà thôi.
Một hôm, quốc vương của thành Ba La Nại tuyên bố trước các triều thần:
- Nước ta vừa phát hiện được một số cổ vật quí báu của thời xưa, trong đó có một bài văn bia. Vậy các khanh hãy cố gắng đọc cho được văn bia ấy để các nước láng giềng khỏi chê cười nước ta không có người tài giỏi. Trong vòng bảy ngày, nếu không ai đọc được thì trẫm sẽ tước bỏ hết quan chức của các khanh.
Dù vua đã có lệnh gắt gao, nhưng các vị triều thần vẫn lấy mắt nhìn nhau, vì từ trước đến giờ đã có ai từng trông thấy thứ chữ ấy bao giờ đâu! Rõ ràng là không ai có biện pháp nào cả. Cuối cùng họ chỉ biết cùng nhau lập kiến nghị trình lên quốc vương, yết bảng tuyên cáo cho nhân dân toàn quốc, nếu ai có thể đọc được bài kệ khắc trên tấm bia ấy thì sẽ được tưởng thưởng gái đẹp, vàng bạc cùng các báu vật khác.
Bảng tuyên cáo của triều đình đã được yết lên, và tin tức ấy được loan truyền tới ta Ca Chiên Diên. Ông hồi tưởng, đạo sĩ A Tư Đà trước kia không những đã dạy cho ông tất cả các loại văn tự hiện lưu hành trong dân gian, mà còn dạy rất nhiều loại văn tự của các cõi trời nữa. Bởi vậy, chàng rất tự tin là mình sẽ đọc được thứ văn tự khắc trên tấm bia cổ kia.
Quả nhiên, Ca Chiên Diên đã đọc được bài văn bia ấy. Đó là một bài kệ được viết bằng thứ văn tự Phạm Thiên mà chỉ có những người đã chứng thần thông mới hiểu thấu được. Ông đến trước đức vua phiên dịch bài kệ ấy như sau:
            Vua của các vị vua là ai?
            Thánh của các bậc thánh là ai?
            Thế nào là người ngu?
            Thế nào là người trí?
            Làm sao xa lìa được dơ bẩn?
            Làm sao chứng đạt được niết bàn?
            Ai chìm đắm trong biển sinh tử?
            Ai tiêu dao tự tại trong cõi giải thoát?
Lâu nay không ai đọc được bài kệ thần bí đó cả, bây giờ có nhà bác học Ca Chiên Diên là người đầu tiên đọc được. Chẳng bao lâu, bài kệ ấy đã được truyền tụng ra khắp nước. Nhưng người ta chỉ đọc lên bài kệ thôi, còn ý nghĩa của nó thì không ai hiểu được, mà ngay cả Ca Chiên Diên cũng không giải thích nổi. Mỗi câu kệ là cả một vấn đề to lớn. Người ta cố dùng những học thuyết đương thời để giải đáp, nhưng vì không có giải đáp nào rốt ráo, trọn vẹn, cho nên nghi vấn này lại sinh ra nghi vấn khác, rốt cuộc họ vẫn ở trong cái vòng lẩn quẩn.
Ca Chiên Diên dù được nhà vua công nhận là người học rộng tài cao quán chúng, nhưng vì không thông hiểu được ý nghĩa của bài kệ cho nên vẫn bị nhà vua quở trách. Vua lại hạ lệnh tăng giá thêm cho giải thưởng để cầu cho được bậc cao nhân giải đáp ý nghĩa bài kệ.
Ca Chiên Diên vẫn không chịu thua, bèn hứa với quốc vương, nội trong bảy ngày nhất định ông sẽ giải đáp được.
4.- RỐT CUỘC RỒI CŨNG TÌM ĐẾN ĐẤNG ĐẠI GIÁC:
Ông trở về nhà, để hết tâm tư suy nghĩ. Nhưng những vấn đề được nêu ra trong bài kệ đâu có thể dùng tâm trí suy nghĩ mà làm cho sáng tỏ được! Những vấn đề đó nhất định phải có một bậc Đại Giác mới mong giải đáp được. Khi đã nghĩ như thế, và không đã hoàn toàn không còn trông cậy vào tài trí của mình nữa, Ca Chiên Diên bèn đi các nơi để cố tìm những bậc cao minh giúp đỡ. Ông lần lượt đi thỉnh giáo các vị học giả uyên bác, tiếng tăm lừng lẫy lúc bấy giờ như Phú Lan Na Ca Diếp (Puranakasyapa – Puranakassapa) trong nhóm Lục Sư chẳng hạn, nhưng kiến giải của họ bất quá cũng chỉ như ông là cùng. Rốt cuộc, chân ý của bài kệ vẫn không ai làm sáng tỏ được. Đến lúc Ca Chiên Diên cảm thấy là mình đã “đụng tường” rồi, bấy giờ ông mới sực nhớ là có “đấng Đại Giác” đã ra đời! Nhớ thì có nhớ đấy, nhưng ông vẫn không chịu đi tìm Ngài để thỉnh giáo. Ông  nghĩ rằng, bài kệ kia là văn tự Phạm Thiên, đến như những đạo sĩ Bà la môn lão thành, có đầy đủ tư cách và quyền uy mà cũng không hiểu được thì đạo sĩ Cồ Đàm trẻ tuổi kia làm sao hiểu nổi!
Rồi ông lại suy nghĩ, trước giờ lâm chung, cậu mình đã dặn dò cẩn thận, đã lập đi lặp lại đến mấy lượt rằng, sau khi đấng Đại Giác đã thành đạo rồi thì mình phải tìm đến để cầu xin tu học, nhưng đạo sĩ Cồ Đàm trẻ tuổi như vậy, làm sao có thể là một đức Phật, một bậc đại giác với công hạnh viên mãn được!
Nhưng cuối cùng ông lại tự bảo, sự ngộ đạo đâu có thể dựa vào tuổi tác già trẻ mà xác quyết! Do vậy, ông đã quyết định lên đường tìm về vườn Nai.
Sau khi được bái kiến đức, Phật, Ca Chiên Diên mới biết rằng lời dạy của cậu mình lúc trước quả thật không sai. Ông chưa biết được trí tuệ của Phật rộng lớn đến thế nào, nhưng mới nhìn thấy dung quang uy nghi của Ngài thì ông đã sinh niềm cung kính vô bờ bến. Ông liền chắp tay, đọc lên nguyên văn bài bệ và cầu xin Phật chỉ dạy. Ngài cũng dùng kệ để giải đáp:
            Vua của các vua là vị thiên vương cung trời thứ sáu.
            Thánh của các bậc thánh là đức đại giác Phật Đà.
            Để cho vô minh làm ô nhiễm là người ngu.
            Có khả năng tiêu diệt mọi phiền não là người trí.
            Dứt bỏ được tham sân si thì lìa được dơ bẩn.
            Hoàn thành được giới định tuệ thì chứng niết bàn.
            Còn vướng mắc vào ngã và pháp là còn chìm đắm trong biển sinh tử.
            Thấy rõ được pháp tánh duyên khởi thì tiêu dao tự tại trong cõi giải thoát.
Mỗi lời giải đáp của đức Phật đều như thấm sâu vào tim phổi của Ca Chiên Diên, khiến cho những bóng mờ vẫn ẩn núp trong tâm trí ông từ bấy lâu nay đều bị ánh sáng trí tuệ quét sạch. Ông vui mừng đến nỗi, đã trải qua một lúc khá lâu mà không thốt lên được tiếng nào! Lời khai thị của đức Phật đã như một động lực mạnh mẽ, làm cho ông tỏ ngộ và bắt đầu đặt chân vào thế giới của chân lí. Cuối cùng, ông đọc lại nguyên văn bài kệ của Phật dạy, rồi đảnh lễ và lui ra …
Ca Chiên Diên trở vào hoàng cung bệ kiến quốc vương, đọc bài kệ của Phật cho nhà vua và toàn thể triều thần nghe. Sau đó, ông tuyên bố cho  tất cả mọi người biết là ông sẽ trở lại vườn Nai ngay để xin qui y làm đệ tử Phật …
5.- KHUYÊN NIỆM TAM BẢO:
Rốt cuộc rồi Ca Chiên Diên cũng được ánh sáng trí tuệ của bậc Đại Giác chiếu rọi và đã trở thành một trong những vị đệ tử ưu tú, đứng hàng đầu trong giáo đoàn. Ca Chiên Diên hoan hỉ vô cùng, vì không những tự mình đã được cứu độ, mà còn làm tròn được tâm nguyện của đạo sĩ A Tư Đà. Tôn giả vốn dĩ đã là một nhân vật phi phàm, nay lại được theo Phật xuất gia và chứng quả A La Hán, thì tài trí ấy lại càng siêu việt. Tôn giả đã thông hiểu rất nhiều kinh luận ngoại đạo, cho nên điều phát nguyện đầu tiên của tôn giả là phải đưa những người bạn kia ra khỏi con đường mê lầm để quay về tiếp nhận chân lí và nương tựa nơi Tam Bảo.
Vì có tâm nguyện như vậy, cho nên tôn giả, lúc sống trong tu viện thì đem hết tâm lực để tu học, còn lúc ra bên ngoài thì cũng đem hết tâm lực để hoằng truyền chánh pháp. Giáo pháp cứu đời do đức Phật khám phá, giờ đây nhờ có sự hoằng hóa tích cực của Ca Chiên Diên mà được phổ cập dễ dàng trong nhân quần xã hội. Tôn giả cho rằng, được làm sứ giả của đức Như Lai là một vinh hạnh tột cùng của đời mình; và cũng vì lòng nhiệt thành ấy mà tiếng tăm của tôn giả trở nên lừng lẫy, như mùi thơm của hoa bay tỏa khắp nơi, ai nghe đến tên cũng đều tỏ lòng kính nể.
Một lần nọ, đức Phật trở về quê hương Ca Tì La Vệ để giáo hóa. Trong số tăng chúng đi theo Phật có tôn giả Ca Chiên Diên. Phật và đại chúng tạm trú tại thôn Hạ Lị. Trong thời gian lưu trú tại đây, một hôm, trong thôn có một vị trưởng giả lâm trọng bệnh. Ca Chiên Diên muốn đích thân đến dùng Phật pháp để tiêu trừ bệnh khổ cho ông ta.
Tôn giả đến trong lúc vị trưởng giả đang nằm trên giường bệnh. Tôn giả hỏi thăm:
- Thưa trưởng giả! Đức Thế Tôn nghe nói trưởng giả không được khỏe nên sai tôi đến thăm. Chẳng hay trưởng giả đã cho mời thầy thuốc đến chữa trị chưa?
Vị trưởng rất cảm động trả lời:
- Con xin cám ơn đức Thế Tôn và đại đức. Bịnh của con đã đến lúc quá nặng rồi, không còn hi vọng gì chữa được. Rất nhiều thầy thuốc đều đã bảo như vậy.
- Vậy xin trưởng giả hãy chuyên tâm quán niệm Tam Bảo, mong nhờ uy đức lớn lao của Tam Bảo mà tâm ý của trưởng giả được thanh tịnh, rồi bịnh sẽ thuyên giảm.
- Thưa đại đức! Con qui y Tam Bảo với hi vọng được hộ trì Tam Bảo để đam lại lợi lạc cho nhân gian. Con nên hiến cúng cho Tam Bảo những gì mình có chứ đâu dám yêu cầu này nọ nơi Tam Bảo!
- Trưởng giả nói rất đúng! Cõi thế gian là vô thường, chúng ta không thể nào yêu cầu Tam Bảo làm cho ta được thường trú mãi mãi. Thân thể phải bị bịnh tật, chúng ta không thể nào yêu cầu Tam Bảo làm cho ta khỏe mạnh suốt đời. Người có đức tin vào Tam Bảo lúc nào cũng hi sinh cá nhân để xây dựng cuộc sống chung cùng. Bịnh hoạn, đau khổ của cá nhân, chúng ta hãy biết tự lo lấy chứ đâu có dám làm phiền đến Phật Pháp Tăng, nhưng thưa trưởng giả, sức người thi có giới hạn mà ánh từ quang của Tam Bảo thì trải khắp mọi nơi, nếu chúng ta thành tâm cần cầu thì ánh từ quang ấy sẽ rọi chiếu đến.
Nghe lời khuyên của Ca Chiên Diên, vị trưởng giả hàng ngày chuyên niệm Tam Bảo. Ông cảm thấy thân tâm dần dần trở nên an lạc và bệnh tình cũng ngày càng thuyên giảm.
6.- TUYÊN DƯƠNG GIÁO PHÁP BÌNH ĐẲNG:
Cũng như các vị đệ tử lớn khác của đức Phật, tôn giả Ca Chiên Diên có khi thì ở bên cạnh Phật để tu học, có khi thì đi vân du các nơi để giáo hóa độ sinh. Phương pháp giáo hóa giữa tôn giả và tôn giả Phú Lâu Na (Purna – Punna) có chỗ không giống nhau. Trong lúc Phú Lâu Na thường hay thuyết pháp trước một cử tọa đông đảo có hàng ngàn người thì tôn giả chỉ thích giáo hoá cho từng người một; vì theo tôn giả, khi một người đối mặt với một người thì không khí nói chuyện có vẻ thân mật hơn, do đó mà lời nói dễ được người đối diện chú ý và ghi nhớ sâu đậm hơn. Điều đó quả thật không sai, vì bất luận là ai, hễ được nghe lời chỉ dạy của tôn giả thì đều hết lòng tin tưởng và có ấn tượng tốt đối với tôn giả.
Một lần nọ, khi đức Phật ngự tại tu viện Kì Viên (Jetavana), Ca Chiên Diên đã một mình vượt rừng rậm đi về hướng Tây, đến du hóa ở vương quốc Ma Du La. Khi đến nơi, trước hết tôn giả tìm hiểu dân tình và học hỏi phong tục, tập quán cùng cách thức sinh hoạt của dân địa phương. Sau đó tôn giả mới tìm vào kinh thành để yết kiến quốc vương. Trông thấy tôn giả, quốc vương hỏi:
- Đại đức! Trẫm nghe nói đại đức vốn thuộc dòng giống Bà la môn cao quí, nhưng lại đi qui y làm đồ đệ của sa môn Cồ Đàm vốn thuộc dòng giống Sát Đế Lị; như vậy chẳng hóa ra là đại đức đã tự hạ thấp mình quá sao?
- Thưa đại vương! Làm đệ tử Phật, chẳng những tôi không cảm thấy tự hạ thấp mình, trái lại đó là điều vinh quang cùng tột của đời tôi.
- Lạ lùng thật! Bỏ đi cái chủng tộc thanh tịnh sinh ra từ miệng Phạm Thiên của mình để làm đệ tử của ông Phật dòng Sát Đế Lị thì có ai mà hiểu nổi!
Dù vị quốc vương tỏ rõ thái độ kinh rẻ như vậy, nhưng tôn giả không lấy thế làm khó chịu, vẫn từ hòa đáp lại:
- Thưa đại vương! Trước đây, khi còn là một đạo sĩ Bà la môn, tôi cũng đã từng có cái nhìn giống hệt như đại vương vậy, nhưng từ khi nghe được những lời chỉ dạy của đức Phật, tôi mới biết là mình đã có những nhận thức đầy sai lầm. Xã hội phân ra có bốn giai cấp khác nhau chẳng qua là vì có các chứng nghiệp khác nhau, đại khái như tôn giáo, chính trị, thương nghiệp, công nông v.v… Đó chỉ là vấn đề phân công làm việc, tự chúng không có cao thấp, sang hèn. Nếu y cứ vào đó để lập thành các giai cấp cao thấp, phân chia chủng tộc sang hèn thì hoàn toàn là những lợi dụng vô lí và phi pháp. Bất cứ ở giới nào cũng có người tốt kẻ xấu. Ngày nay, ngay trong dòng Bà la môn cũng đầy dẫy những phần tử làm nhiều việc xấu xa như tà dâm, giết người, và hầu hết đều là những người bảo thủ, tà kiến. Vậy có thể bảo đó là những người tôn quí bậc nhất hay sao. Bởi thế, sự tôn quí hay thấp hèn của con người không phải do chủng tộc hay giai cấp cao thấp sinh ra. Bất luận là ở chủng tộc nào, hễ ai biết làm việc tốt, có công phu tu học, có giác ngộ và chứng quả thì đều là người trong sạch, cao thượng, đáng tôn quí.
Quốc vương nghe xong mấy lời này thì bừng tỉnh ngộ, tự nói với mình: “Đúng rồi, ta thật quá sai lầm! Bao nhiêu nhà tù trong nước từ trước đến giờ chỉ dành để giam cầm hạng Thủ đà la, còn hạng Bà la môn phạm tội thì không hề hấn gì cả. Thật chẳng lấy làm lạ, tiếng oán than dẫy đầy trong dân chúng!”
Lòng hối cải đã lộ rõ trên nét mặt quốc vương. Thấy thế, tôn giả thuyết phục thêm:
- Thưa đại vương! Vì vậy mà đại vương nên tin phụng và thực hành chánh pháp. Phật là bậc đại giác ngộ, là bậc chí tôn trong đời. Chúng ta qui y làm đệ tử của Người để tìm thấy con đường tự do giải thoát. Đó là hạnh phúc và vinh quang tột của đời chúng ta.
Quốc vương nước Ma Du La đã tin tưởng và tiếp nhận giáo pháp bình đẳng của Phật. Ông nhờ tôn giả Ca Chiên Diên giới thiệu ông đến xin qui y làm đệ tử Phật. Sau đó ông hạ lệnh đại xá thiên hạ, trả tự do cho tất cả tù nhân oan ức, quyết tâm chỉnh đốn lại nền chính trị, không hùa theo kẻ mạnh để chèn ép người yếu, hủy bỏ những luật lệ bất bình đẳng đã có từ trước, quốc pháp được áp dụng đồng đều cho tất cả người dân, không phân biệt và kì thị giai cấp. Từ đó toàn dân trong vương quốc được sống trong hân hoan, an bình và thịnh vượng. Mọi người đều cảm ơn đức giáo hóa của tôn giả Ca Chiên Diên và đều thấm nhuần đức từ bi, bình đẳng của Phật pháp.
7.- LUẬN VỀ TƯ CÁCH TRƯỞNG GIẢ:
Từ khi biết được tôn giả Ca Chiên Diên tuyên dương giáo pháp bình đẳng của đức Phật thì hầu hết giới Bà la môn đều phẫn nộ. Họ quyết tìm cơ hội đánh bại tôn giả, nếu không thì họ sẽ không thể nào ngóc đầu lên được, nhưng rồi họ đã không làm gì được. Các đạo sĩ Bà la môn, dù ở cấp bậc nào, chỉ cần nghe vài câu đối đáp giản dị của tôn giả là liền bị khuất phục.
Một hôm, tại thành Ba La Nại, khi tôn giả đang cùng với mấy vị tì kheo khác thọ trai trên một bờ hồ thì một cụ già dòng Bà la môn tìm đến gây hấn. Thoạt tiên cụ chống gậy đứng im lặng bên cạnh tôn giả. Cụ  nghĩ rằng, nếu tôn giả trông thấy cụ thì nhất định phải đứng dậy nhường chỗ cho cụ. Nhưng, thật là ngoài ý muốn của cụ, tôn giả vẫn an nhiên, làm như không hề biết có cụ đang đứng bên cạnh. Tức giận đến không thể nào chịu được nữa. cụ bèn lớn tiếng quát tháo:
- Các ông làm gì vậy? Thấy một vị trưởng giả già cả như ta đây mà không đứng dậy nhường chỗ hay sao?
Quí vị tì kheo nghe thế hoảng kinh, tức khắc đứng dậy mời cụ ngồi, nhưng riêng Ca Chiên Diên thì vẫn ngồi thản nhiên, nhìn cụ nói:
- Cụ là ai, Có gì mà cụ nóng giận quá vậy? Chúng tôi đang thực hành giáo pháp cung  kính, nhưng hiện chỗ này đâu có vị nào là bậc trưởng giả tiền bối của chúng tôi!
Cụ lại nộ khí xung thiên, liền đưa cây gậy lên, chỉ vào chòm râu bạc của mình, nói như thét:
- Ta tuổi lớn chừng này, râu đã bạc mà không đáng là trưởng giả hay sao? Các ngươi có chịu kính trọng ta không
Vẫn với giọng rắn rỏi, tôn giả nói:
- Cụ ư? Không! Cụ không đáng xưng là trưởng giả, và cũng không đáng nhận được sự kính trọng của chúng tôi.
Cụ già nhảy dựng người lên, dùng gậy chỉ ngay vào mặt tôn giả, la lớn:
- Ngươi coi ta không ra gì phải không?
Ca Chiên Diên vẫn bình tĩnh:
- Chính cái giọng nói và cử chỉ thô lỗ, dữ dằn của cụ đã chứng tỏ cụ không xứng đáng là bậc trưởng giả, không xứng đáng để chúng tôi kính trọng. Dù cho là người trong dòng Bà la môn, tuổi tác có cao đến tám chín mươi, tóc bạc răng long, mà người ấy không có đức độ và tác phong đứng đắn, đam mê ngũ dục, không chế ngự được các tính xấu tham, sân, ganh, tị, thì cũng không khác gì  một đứa trẻ không được dạy dỗ. Trong khi đó, nếu một thanh niên trẻ tuổi mà có cuộc sống giải thoát, không bị trói buộc bởi ái dục, không có tâm mong cầu gì đối với thế gian, một niệm bất bình cũng không nảy sinh, thì thật xứng đáng là bậc trưởng giả, và sẽ được chúng tôi hết lòng kính trọng.
Ông cụ nghe Ca Chiên Diên giảng giải, không còn biết phải trả lời ra làm sao, bèn im lặng bỏ đi một mạch.
8.- ĐẠO ĐỨC KHÔNG PHẢI CHỈ CÓ Ở NGƯỜI TUỔI CAO:
Khuất phục được ông lão dòng Bà la môn, nhưng đâu phảì như thế là được yên! Thanh danh của tôn giả càng lớn thì sự căm ghét của tín đồ Bà la môn đối với tôn giả lại càng dâng cao. Một người Bà la môn khác, rất giỏi biện luận, nghe nói Ca Chiên Diên đã không tỏ ra cung kính đối với bậc trưởng bối của mình, lại còn chê bai biện bác đến nỗi vị ấy phải cứng miệng, không đối đáp được lời nào thì tức giận vô cùng. Dù đang ở một nơi rất xa, ông ta cũng cố tìm đến Ba La Nại để cật vấn Ca Chiên Diên. Khi vừa thấy mặt nhau, không cần chào hỏi lôi thôi, ông đã tra vấn ngay:
- Này Ca Chiên Diên! Ta nghe nói ngươi vốn thuộc dòng giống Bà la môn nhưng lại đổi đạo để làm đệ tử Cồ Đàm, có đúng như thế không?
Tôn giả trả lời thật đanh thép:
- Bỏ đi một thứ tà kiến để đi theo con đường sáng suốt, chân chính thì không có gì là lầm lỗi cả.
- Nhưng ngươi đâu phải là một tên vô danh tiểu tốt! Ngươi đã từng là một con người tinh thông uyên bác, tài danh tột bực trong hàng ngũ Bà la môn chúng ta, nay lại đổi đạo để theo Cồ Đàm, chỉ một điều đó cũng không thể tha thứ được. Đã thế, ngươi còn ráo riết tuyên dương Phật pháp để khuyến dụ bao nhiêu tín đồ Bà la môn khác theo gương ngươi đổi đạo, hành vi đó của ngươi hết sức vô lễ!
- Người sáng suốt có bổn phận vạch rõ cho bạn bè mình biết con đường sai lầm thuở trước, đó là lời chỉ dạy phát xuất tâm từ bi rộng lớn của đức Phật.
Muốn gì thì muốn, ông ta vẫn không bẻ gãy được cái ý chí sắt đá của tôn giả. Tuy vậy, ông vẫn không chịu thua. Sực nhới lại mục đích ban đầu khi đi đến đây, ông đổi giọng:
- Ca Chiên Diên! Tôi lại xin hỏi ông điều này. Tôi nghe nói, sau khi theo Phật làm tì kheo, ông đã không còn kính trọng các vị trưởng lão Bà la môn. Thấy họ, ông đã không đứng dậy nghinh tiếp, cũng không ngồi chung, có quả như vậy không? Nếu đó là sự thật thì tôi  nghĩ rằng, dù có là tì kheo đi nữa thì ông cũng không nên cư xử như vậy.
Giọng tôn giả cũng trầm hẳn xuống, nhưng vẫn thẳng thắn:
- Câu hỏi của ông vừa rồi là hoàn toàn đúng sự thật. Sau khi tôi quay về nương tựa nơi đức Phật để tu học thì không còn cung kính và phụng sự các trưởng lão Bà la môn nữa, và việc đó cũng rất đúng với chánh pháp. Tôi hiện thời đã chứng được quả thánh. Cho nên việc tu chứng không thể đem tuổi tác cao thấp mà so sánh được, nghi thức và chánh pháp cũng không thể làm cho xáo trộn được …
Như bị thu hút, người cứ im lặng lắng nghe Ca Chiên Diên giảng giải, càng suy nghĩ càng thấy hổ thẹn cho mình, nghẹn lời không nói gì thêm được. Cuối cùng thì ông ta tỉnh ngộ, cởi bỏ tà kiến, xin theo tôn giả làm đệ tử Phật.
Cứ như thế, tôn giả đã dùng lời lẽ sắc bén của mình để giáo hóa cho không biết bao nhiêu người ngoại đạo “cải tà qui chánh”, quay về và nương tựa nơi Tam Bảo.
9.- NGUYÊN NHÂN TRANH GIÀNH:
Một hôm, Ca Chiên Diên đang đi khất thực trên đường phố, một đạo sĩ Bà la môn đến đứng trước mặt khẩn khoản:
- Đại đức! Thật tôi có duyên lành cho nên hôm nay mới gặp được đại đức. Tôi có điều thắc mắc muốn thỉnh giáo, xin đại được giải đáp cho!
- Xin đừng khách sáo làm gì! Ông có gì thắc mắc xin cứ trình bày.
- Tôi thấy trên đời này, Sát đế lị thì tranh giành với Sát đế lị, Bà la môn thì tranh giành với Bà la môn. Họ cứ tranh giành như vậy là tại vì nguyên nhân gì?
- Tại vì họ bị tham dục mê hoặc.
- Bà la môn tranh giành nhau, Sát đế lị tranh giành nhau đều là vị bị tham dục mê hoặc, vậy thì trong tăng đoàn của đại đức, tì kheo tranh giành vớí tì kheo là tại vì nguyên nhân gì?
- Tại vì họ còn chấp ngã và chấp pháp.
Đạo sĩ Bà la môn bèn nhắm mắt, vò đầu, tỏ vẻ như đang suy nghĩ về những điều Ca Chiên Diên vừa nói. Cái cử chỉ nhắm mắt, vò đầu ấy, ông cố tình làm thật hết sức quái dị để cho mọi người hai bên đường phải chú ý. Sự việc một đạo sĩ và một tì kheo chất vấn nhau ở ngiữa phố đã làm cho người ta ngạc nhiên rồi, huống chi vị đạo sĩ kia lại còn cố ý làm ra bộ tịch hết sức quái dị! Cho nên kẻ hiếu kì cứ ùn ùn kéo đến vây kín chung quanh hai vị như thể đi xem một vở hài kịch.
Đạo sĩ Bà la môn “diễn xuất” như thế một hồi lâu, bỗng ông mở mắt ra, đắc chí nói:
- Lời của tôn giả thật là công minh, chính trực và hợp lí, và như thế, theo tôi nghĩ, trên đời này không có một người nào là không có tham dục, chấp ngã và chấp pháp!
Tôn giả đáp không chút do dự:
- Có chứ! Thầy tôi là đức Phật, hiện thời đang giáo hoá tại thành Xá Vệ, là bậc đại giác ngộ, không còn bị tham dục mê hoặc, không còn chấp ngã và chấp pháp. Người là bậc đạo sư của ba cõi, là bậc mô phạm cho cả loài trời và loài người.
Đến đây, bỗng nhiên người ta thấy thái độ của đạo sĩ Bà la môn đã hoàn toàn thay đổi, cử chỉ cao ngạo đã biến mất, nét mặt tự mãn đã đổi ra thành khẩn, có vẻ như trong lòng đang trải qua một cơn chuyển biến cực mạnh .. Thế rồi ông ta xin tôn giả Ca Chiên Diên giới thiệu để được qui y làm đệ tử Phật.
16. RĂN DẠY THIẾU NIÊN VÔ LỄ:
Sở dĩ các giáo sĩ Bà la môn đã gây nhiều cuộc tranh chấp với tôn giả Ca Chiên Diên là vì tôn giả chẳng những đã xuất thân từ chủng tộc Bà la môn, mà vốn còn là một vị chức sắc cao cấp, có danh vọng lớn, rất được kính trọng trong đạo Bà la môn; và lẽ đương nhiên, sự đổi đạo của tôn giả phải là một biến chuyển vô cùng trọng đại, đã gây chấn động mãnh liệt trong giới tôn giáo thần quyền đó. Những kẻ luôn luôn tìm cách gây hấn với tôn giả dĩ nhiên là rất nhiều, nhưng dù sao cũng có một số người vẫn giữ được tình bạn tốt đẹp với tôn giả.
Một dạo nọ, tôn giả về cố hương là thôn Nhĩ Hầu (thuộc vương quốc A Bàn Đề) để hành hóa. Trong thôn có một đạo sĩ Bà la môn tên Lỗ Ê Giá, dù biết Ca Chiên Diên đã qui y theo Phật, ông vẫn giữ lòng cung kính đối với tôn giả như xưa.
Một hôm, một số đệ tử trẻ tuổi của Lỗ Ê Giá lên núi đốn củi. Đám thiếu niêu này, khi đi đến trước một hang đá thì trông thấy Ca Chiên Diên đang thiền tọa trong đó. Chúng chỉ trỏ cười cợt:
- Tụi bây ơi! Có ông sa môn đầu trọc đây nè!
- Coi nè, tụi bay ơi! Ông sa môn đầu trọc có cái gì ngộ lắm!
Mỗi đứa một câu, đám trẻ cứ thế làm huyên náo cả lên. Nhưng trong bọn cũng có đứa biết điều, cố ngăn mấy đứa kia lại:
- Này, tụi bây! Không nên vô lễ đối với vị sa môn này. Ông ấy là người vẫn được thầy chúng ta hết sức kính trọng đó!
Mạc dù đã có người khuyên bảo, nhưng bọn trẻ lì lợm kia vẫn lớn tiếng trêu ghẹo; thậm chí có đứa còn ném đá vào hang nữa! Ca Chiên Diên bây giờ bèn đứng dậy, bước ra khỏi hang, bèn lớn tiếng bảo bọn trẻ:
- Này các cháu! Từ trước người Bà la môn vẫn tu hành chân chính, không hề phạm đến ngũ dục; và bây giờ thì họ lại cưới vợ, sinh con, không khác gì người thế tục. Còn những hành vi của các cháu ngày hôm nay thì cũng không khác giới bọn trẻ con lêu lỏng vô học. Sao các cháu có thầy mà không nghe lời thầy dạy?
Tiếng nói của tôn giả uy nghiêm như tiếng gầm của sư tử, khiến cho bọn trẻ khiếp vía không dám mở miệng trả lời, nhưng trong lòng thì tức lắm. Chúng bèn chạy vội trở về mách hơn mách kém với thầy là Lỗ Ê Giá. Nghe vậy, ông tức giận vô cùng, bảo bọn trẻ:
- Ta xưa nay đối với hắn vẫn một lòng kính trọng, sao hôm nay hắn lại vô cớ mắng nhiếc thầy trò chúng ta! Ta nhất định phải đến gặp hắn để biết phải quấy một phen.
Nói xong, với vẻ mặt hầm hầm, Lỗ Ê Giá nhắm hướng hang đá đi thẳng, lòng những tưởng phen này không thể nào để cho Ca Chiên Diên “phách lối” được nữa. Nhưng ông đâu có ngờ, khi đến nơi và thấy được tướng mạo trang nghiêm của Ca Chiên Diên, rồi nghe rõ được lời trình bày thẳng thắn của tôn giả về sự việc của bọn trẻ vừa xảy ra, cơn tức giận của ông bỗng tan đi, và lòng khởi lên một niềm hối hận vô bờ. Không biết nói gì hơn, ông chỉ cúi đầu im lặng .. Biết là cơ hội hóa độ đã đến, tôn giả bèn khai thị:
- Này người bạn hiền, xin hãy nghe lời tôi nói! Tín ngưỡng và sự tu hành của chúng ta là nhằm mục đích giải thoát khỏi vòng sinh tử, để cho cuộc sống đạt được an lạc, tự tại. Chúng ta đừng xem đó là một thứ nghề nghiệp để sinh sống. Hiện nay, những tu sĩ Bà la môn lìa bỏ gia đình để sống theo nếp sống phạm hạnh của người tu hành chân chính phỏng có là bao! Mà phần đông họ đều chỉ có cái hình tướng trá ngụy ở bề ngoài, cúng lễ tế tự cho người giống như việc kinh doanh để sinh nhai, lấy tôn giáo làm cái chiêu bài để tranh dành đoạt lợi, cốt thỏa mãn cái tư dục của mình; thật là đáng buồn! Tu sĩ Bà la môn ngày nay đều lo tìm những thứ gì ở ngoài tâm, cũng chẳng phải mong cầu phước báo ở cõi Trời hay cõi Người, mà chỉ toàn nói hươu nói vượn về những hiện tượng này nọ của vũ trụ, nào có mấy người biết chính mình là ai! Thầy của tôi là đức Phật. Người chính là đấng cứu tinh của nền tôn giáo lẩn quẩn, bế tắc hiện nay. Nếu ông vẫn còn coi tôi là bạn tốt thì xin ông hãy dứt bỏ những tà kiến cũ, dứt bỏ hết vọng chấp, đem cái tâm hồn trong sạch theo tôi về qui y với đức Thế Tôn để tu học.
Lỗ Ê Giá thành khẩn:
- Đại đức nói rất phải. Bây giờ mọi việc tôi đều xin nhờ đại đức chỉ bảo cho …
11.- LÍ VÔ THƯỜNG:
Có một lúc đức Phật hành hóa tại vương quốc A Bàn Đề. Một hôm, trước đông đảo thính chúng gồm chư vị tì kheo, tì kheo ni, cận sự nam và cận sự nữ, đức Phật bảo tôn giả Ca Chiên Diên thay thế Ngài đối trước đại chúng giảng nói về giáo lí “Vô thường”. Tôn giả vâng mạng đảnh lễ Phật, rồi nói với đại chúng:
- Kính thưa toàn thể chư vị thiện tri thức! Tất cả mọi người mọi vật, đã có hợp thì sẽ phải có tan, có sinh thì ắt có tử, có thành thì có hoại. Tất cả các pháp hữu vì trên thế gian như núi sông đất đá cỏ cây, mọi hiện tượng thiên hình vạn trạng trong vũ trụ, đều không thể thoát ra ngoài nguyên lí vô thường này. Khi mùa Xuân đến thì trăm hoa đua nở, nhưng lúc gió Thu thổi về thì lá vàng lả tả lìa cành. Con người ta lúc tuổi trẻ thì má hồng xinh đẹp nhưng vừa trải qua mấy mùa nóng lạnh thì liền trở thành tóc hạc da gà. Làm người, nếu không giải thoát ra khỏi cái kiếp vô thường thì cái sinh mạng ngắn ngủi và tạm bợ kia, thật quả là đau buồn và cô độc. Xem như hạt sương mai đọng trên cánh hoa kia, bất quá là nó chỉ tồn tại cho đến khi mặt trời mọc là cùng. Rồi chính mặt trời đó nữa, nó đem vô lượng tia sáng chiếu soi cùng khắp thiên hạ là thế, nhưng rồi nó cũng phải chìm mất trong đêm đen tăm tối. Vợ chồng ái ân nồng thắm là thế, nhưng khi cái già rồi cái chết đến với một người thì người kia dù muốn cũng không thay già thế chết cho nhau được. Con cháu dù có hiếu thuận đến mức nào đi nữa, khi ta chết, bất quá thì chúng nó cũng chỉ biết ngồi vây quanh mà khóc than thương tiếc, chứ làm sao mà đảo ngược cơn vô thường để kéo ta sống lại! Chúng ta cũng không thể nào trông cậy vào vàng bạc, của cải, danh vị và quyền thế, vì tất cả những thứ đó đều không chắc thật. Nếu không thấy rõ đạo lí vô thường thì chúng ta sẽ bị những màu sắc rực rỡ của thế gian mê hoặc. Non xanh nước biếc của thiên nhiên là thế, con người kiện khang mạnh khỏe là thế, xã hội đèn sáng rượu nồng là thế …, tất cả, mới nhìn cứ tưởng toàn là những thú vui cùng cực, nhưng sự thật thì chỉ là những nơi hầm hố hại người, bởi vì ở những nơi đó đều luôn luôn sẵn có cơn vô thường mai phục! Nếu chúng ta quán chiếu kĩ càng thì sẽ thấy những gì trên thế gian cũng đều là hư ngụy lọc lừa, chỗ nào cũng có quỉ quái hại người; chỉ có nhân quả và nghiệp lực là không bao giờ lừa lọc. Nghiệp lực theo ta như bóng theo hình; dù sống, dù chết, lúc noà nó cũng theo ta bén gót. Cho nên, thưa chư vị thiện tri thức, những người đang theo con đường tu học như chúng ta, cần phải tinh tấn phấn đấu với con ma vô thường, bằng cách tuân theo giáo huấn của đức Đạo Sư, cần mẫn tu tập, đạp nát cõi vô thường, phá tung lưới sinh tử, và đạt được cái kiếp sống vĩnh cữu, không sinh không diệt …
12.- LÀM CÁCH NÀO ĐỂ BÁN NGHÈO MUA GIÀU?
Một hôm, sau khi hành hóa ở A Bàn Đề, Ca Chiên Diên lên đường trở về tu viện Kì Viên ở thành Xá Vệ. Giữa đường, tôn giả trông thấy một thiếu phụ ôm một vò nước, ngồi khóc lóc thảm thiết bên bờ sông, tình cảnh có vẻ rất thương tâm. Sợ người thiếu phụ vì quá thất ý mà có thể nhảy xuống sông tự tử, tôn giả vội vàng đến hỏi thăm:
- Thưa bà! Có chuyện gì làm bà đau khổ đến nổi khóc lóc thảm não như vậy?
Nghe có người hỏi, thiếu phụ càng khóc to thêm:
- Thôi ông hỏi han làm gì, dù có nói cũng vô ích thôi!
- Thưa bà! Xin bà cứ nói! Tôi là đệ tử của đức Phật. Tôi có thể giúp bà giải quyết được bất cứ vấn đề khó khăn nào.
- Ông không có cách nào giúp tôi đâu! Ông thấy không? Trên thế gian đầy dẫy những hoàn cảnh không bình đẳng, người giàu kẻ nghèo cách biệt một trời một vực! Tôi là một kẻ nghèo mạt rệp, suốt đời chịu khổ, và cũng vì cái nghèo đã đem đến cho tôi quá nhiều đau khổ nên hiện giờ tôi không còn muốn sống làm gì trên cõi đời này nữa!
Nói xong mấy lời ấy thì thiếu phụ vật vã lăn lộn như có ý muốn liều mình. Tôn giả hoảng hốt, vội nhanh chân đứng chận trước mặt thiếu phụ, rồi thương xót an ủi:
- Thưa bà! Xin bà đừng quá thất vọng như vậy! Bà hãy bình tâm nhìn lại thử xem, trên đời này người nghèo nhiều lắm chứ đâu phải chỉ có một mình bà! Lại nữa, người nghèo không hẳn là bất hạnh, mà người giàu cũng không hẳn là có hạnh phúc. Bà thấy không! Có những người giàu có, nhà cao cửa rộng, ruộng đất thênh thang, kẻ ăn người ở đầy nhà, nhưng họ hàng ngày cứ bị các tính xấu như tham lam, sân hận, ganh ghét giày vò, đó mới là đau khổ, đó mới là bất hạnh. Cho nên làm người, chỉ cần có được cuộc sống bình an là tốt nhất, còn cái nghèo đâu đáng để cho ta đau buồn!
- Bởi vì ông là một vị sa môn nên c dửng dưng với sự thế, chứ kẻ tục như tôi thì đâu được như vậy. Ông biết không? Tôi nguyên là kẻ nô lệ của một nhà đại phú hào ở vùng này. Quanh năm suốt tháng tôi chỉ biết làm nô dịch cho người, không có một chút thì giờ rảnh rỗi nào, thế mà cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, lại còn bị người chủ tham tàn bạo ác, hở một chút là mắng chửi đánh đập, khiến cho bọn tôi tớ chúng tôi, muốn sống cũng không được mà muốn chết cũng không xong! Tôi nghĩ, sở dĩ tôi bị hành hạ như vậy là chỉ vì cái nghèo mà ra, sao ông lại bảo cái nghèo không đáng để làm cho người ta đau khổ?
- Thôi thì cứ cho là bà có lí, nhưng dù sao thì tôi cũng khuyên bà đừng đau buồn nữa. Tôi sẽ chỉ cho bà cách thức chẳng những thoát được cái nghèo mà còn phát tài nữa.
Thiếu phụ lật đật lau nước mắt, hỏi dồn:
- Cách gì, thưa đại đức?
- Giản dị lắm! Bà đã bị cái nghèo làm cho đau khổ, sao bà không đem cái nghèo ấy bán cho người khác đi?
- Đại đức nói đùa sao chứ! Cái nghèo mà bán được thì hóa ra trên đời này chẳng còn ai nghèo cả? Vả lại, có ai mà lại chịu mua cái nghèo!
- Tôi chịu mua, bà hãy bán cho tôi đi!
- Cái nghèo lại có thể bán được, và cũng có người như đại đức chịu mua, nhưng rất tiếc là tôi không biết bán nghèo bằng cách nào!
- Bằng cách bố thí, thưa bà! Bà nên biết rằng, sự giàu nghèo của mọi người đều có nguyên nhân. Sở dĩ người ta nghèo là vì kiếp trước người ta tham lam keo kiệt, không biết bố thí và tu phước. Sở dĩ người ta giàu có là vì kiếp trước người ta biết bố thí và tu phước. Cho nên, bố thí và tu phước là cách tốt nhất để bán nghèo mua giàu.
Nghe mấy lời khai thị của tôn giả, thiếu phụ bỗng cảm thấy như tâm trí mình vừa được khai sáng, dù vậy, bà vẫn còn có điều thắc mắc:
- Thưa đại đức! Bây giờ thì con thấy tâm trí con đã được sáng tỏ. Con hiểu được lời dạy của đại đức rồi, nhưng con vốn dĩ rất nghèo, không có bất cứ vật gì gọi là của riêng; ngay cả cái vò nước này cũng là của người chủ tham lam độc ác ấy, con đâu biết lấy gì để cúng dường cho đại đức!
Ca Chiên Diên đưa cái bình bát của mình ra trước mặt thiếu phụ:
- Không nhất thiết phải có tiền bạc hay của cải mới bố thí được. Mỗi khi thấy người khác bố thí mà mình khởi niệm hoan hỷ, đó cũng là bố thí rồi. Hiện giờ bà có thể trút nước trong cái vò bà đang có sang bình bát này cho tôi. Thế tức là bà bố thí cho tôi đó!
Tới đây thì thiếu phụ hoàn toàn tỉnh ngộ. Từ đó bà nguyện luôn luôn y theo lời dạy của tôn giả mà thực hành, và không còn thấy bị đau khổ vì cảnh nghèo nữa.
13.- BIẾN ÁI TÌNH THÀNH TÌNH THƯƠNG RỘNG LỚN:
Một lần khác tôn giả đến giáo hóa ở một tiểu quốc thật xa xôi, và cư trú trong khu rừng tre của một vị trưởng giả nọ. Bấy giờ, quốc vương của nước ấy đang gặp chuyện đau buồn. Đó là, bà hoàng hậu rất được nhà vua sủng ái vừa mới qua đời. Nhà vua vô cùng đau xót nhớ thương, suốt ngày chỉ ngồi than thở khóc lóc, đến nỗi không thiết gì ăn uống, luôn cả việc triều chính cũng không màng tới! Nhà vua không làm sao quên được cái thời gian ái ân mặn nồng xưa, cho nên đã truyền lệnh cho các vị đại thần phải đem thi thể của hoàng hậu ngâm trong dầu mè để khỏi bị rửa nát, rồi hàng ngày ông cứ đến đứng trước thi thể ấy nói: “Cái miệng này sao bây giờ không nói với ta một lời nào! Sao hai cánh tay này bây giờ không còn ôm ta nữa! Ái khanh ơi! Sao không nhìn ta một cái đi? …”
Nhà vua bi ai quá độ, và không biết tình trạng này đến bao giờ mới dứt được! Các vị đại thần lo lắng lắm. Họ nhiều lần khuyên nhà vua đừng quá đau buồn như thế nhưng ông không tự chủ được. Ông nói, nếu muốn ông hết đau buồn, cách tốt nhất là hãy làm cho hoàng  hậu sống lại! Nhưng trên đời này có ai đủ khả năng làm được việc đó? Quyền thế và cao sang tột phẩm như nhà vua mà vẫn phải bó tay!
Trong cơn bối rối ấy, các vị đại thần bỗng nhớ ra là hiện ở trong nước mình có đại đức Ca Chiên Diên đang hành hóa. Họ nghĩ, một người có oai đức lớn, có cách nói năng khéo léo như thế thì nhất định sẽ có cách làm cho nhà vua dứt được đau khổ, chẳng những thế, có khi còn làm cho thần trí nhà vua sáng suốt, dõng mãnh hơn lên để lo việc triều chính cũng chưa biết chừng! Họ bèn dâng kiến nghị:
- Tâu đại vương! Hiện giờ có đại đức Ca Chiên Diên là một vị đệ tử lớn của đức Phật, đang du hóa tại nước ta. Vị đại đức ấy có thần thông lớn, có oai đức lớn, trí thức uyên bác, không có gì là không biết, luôn cả văn bia xưa khắc bằng chữ Phạm Thiên mà ông ta cũng đọc thông suốt! Tâu đại vương! Chúng thần xin đại vương đi tìm để yết kiến vị đại đức ấy, may ra ông ta có thể giúp ích được cho đại vương.
Nghe vậy, nhà vua hỏi dồn dập:
- Ông ấy có thần thông ư? Ổng có thể làm cho hoàng hậu sống lại được không?
Câu hỏi của nhà vua làm cho các vị đại thần lúng túng. Họ không biết trả lời làm sao cho phải. May thay, trong số các vị đại thần này, có một vị đã từng được nghe tôn giả Ca Chiên Diên thuyết pháp. Ông ta nhanh trí tâu:
- Tâu đại vương! Vị đại đức ấy có thể làm cho hoàng hậu sống lại được hay không thì chúng thần không dám nói chắc. Theo ý thần, trong trường hợp này, chỉ có việc đi thỉnh đại đức tới đây thì mới có thể biết chắc được.
Nhà vua chấp thuận lời đề nghị ấy, và lập tức mang lễ vật lên đường. Đến khu rừng tre, vừa trông thấy tôn giả là nhà vua đề cập ngay đến chuyện làm sao cho hoàng hậu sống lại. Tôn giả bèn bẽ ngay một nhánh cây gần đấy trao cho nhà vua, nói:
- Xin đại vương mang cây này về để ngay trong nội cung và bảo nó phải xanh tươi mãi mãi, không được héo úa. Đại vương làm được chăng?
- Việc này không thể được! Nó đã bị tách ra khỏi thân cây rồi thì làm sao sống mãi được?
- Thưa đại vương! Nay hoàng hậu của đại vương cũng vậy, nghiệp báo đã dứt, mạng sống đã hết, bây giờ bảo bà sống lại thì làm sao được!
Đến đó thì nhà vua sực tỉnh ngộ, và biết rõ rằng, đã chết thì không thể nào sống lại được. Thấy rõ được sự chuyển biến trong tâm trí nhà vua, tôn giả khai thị thêm:
- Thưa đại vương! Đại vương đang là vua của một nước, và như thế, đại vương là của chung toàn thể nhân dân trong nước chứ không phải chỉ là của riêng hoàng hậu. Xin đại vương hãy đem cái tình yêu dành cho hoàng hậu mà trải rộng nó ra thành tình yêu bao la ban phát đến toàn thể nhân dân. Nếu được như vậy thì chắc chắn là vương quốc của đại vương sẽ phú cường và nhân dân sẽ hạnh phúc, an lạc. Nhân dân đã được an cư lạc nghiệp thì họ sẽ kính trọng đại vương chính thực là vua của họ. Họ sẽ trung thành với đại vương và ra sức xây dựng đất nước.
Nhà vua nghe mấy lời khích lệ của tôn giả thì tâm trí bừng sáng, bỏ ngay sự đau buồn, cung kính đảnh lễ tôn giả, trở về hoàng cung làm lễ an táng hoàng hậu. Xong rồi, nhà vua đích thân chỉnh đốn mọi viẹc triều chính, thương dân như trước đây đã thương hoàng hậu, khiến cho nhân dân ai cũng thấm nhuần ơn vua, người người hân hoan trong đòi sống thanh bình, hạnh phúc, an lạc, và dần dần mọi người đều biết rằng, sở dĩ quốc vương của họ trở thành hiền minh như vậy là đã nhờ công đức giáo hóa của tôn giả Ca Chiên Diên. Điều đó đã làm cho họ càng vững tin vào Phật pháp.
TÔN GIẢ A NA LUẬT 
ANIRUDHA THIÊN NHÃN ÐỆ NHẤT
Sau khi thành đạo Ðức Phật xuống núi, đi giáo hóa khắp nơi, Ðức Phật cũng không quên trở về thành Ca Tỳ La Vệ thuyết pháp cho hàng vương tôn công tử, và đã khuyến hóa được nhiều thân thuộc xuất gia. Trong số 7 vương tử đi xuất gia có A Na Luật là bậc Thiên Nhãn Ðệ Nhất.
Dòng Họ A Na Luật.
A Na Luật (Anirudha), là em ruột của Ma Ha Nam (Ma Ha Bạt Ðề), con thứ của Cam Lộ Phạn Vương dòng Sát Ðế Lợi. Ma Ha Nam đã được Phật Thích Ca đưa lên ngôi vua nước Ca Tỳ La Vệ, sau ngày vua Tịnh Phạn băng hà. Cam Lộ Vương là em thứ hai của Tịnh Phạn Vương, do đó A Na Luật là đường đệ của Phật Thích Ca. Lúc tuổi thơ, A Na Luật là một cậu bé được nhiều người thương mến. Ngài rất thông minh, hoạt bát, có tài âm nhạc hay ca hát, làm điệu bộ trước đám đông khiến ai cũng yêu quý. A Na Luật dược nuông chiều nuôi dưỡng trong hoàng cung, và bạn cùng chơi với Bạt Ðề và Kiếp Tân Na một cách ngây thơ, hồn nhiên. Khi đến tuổi trưởng thành A Na Luật có vóc dáng anh dũng, diện mạo khôi ngô tuấn tú, nên được nhiều thiếu nữ mơ tưởng đeo đuổi, nhưng với bản tính đoan chính, A Na Luật chẳng hề bị sắc dục làm xao động. Lúc Ðức Phật về Ca Tỳ La Vệ thuyết pháp, thấm nhuần mưa pháp xem nhẹ lạc thú trần gian, A Na Luật cùng với anh là Ma Ha Bạt Ðề và A Nan, Ðề Bà, Kiếp Tân Na, Bà Sa Nam Ðề và La Hầu La quyết tâm theo Phật xuất gia học đạo. Cả 7 vương tử kéo theo Ưu Ba Ly, một thợ cạo râu tóc thuộc giai cấp Thủ Ðà La đi theo. Ðược Phật chấp nhận, Ưu Ba Ly cạo bỏ râu tóc cho 7 vương tử. Khi về đến Tinh Xá, để thử xem các vương tử đã thật sự loại được tâm đắm say lạc thú hay chưa, Ðức Phật bảo cả 7 vị vào tịnh thất tĩnh tọa 1 tuần lễ rồi mới cho nhập giáo đoàn.
Ðạo Nghiệp của A Na Luật
Cự tuyệt thiếu nữ cầu hôn
Sau khi xuất gia và đã thông hiểu đạo lý giải thoát, A Na Luật được Phật phân công du hóa phương xa. Một hôm trên đường đến núi Kiều Tát La thuyết pháp, giữa đường gặp trời mưa, đêm tối, nhưng không có một cảnh già lam nào dành cho các Tỳ kheo tạm trú, A Na Luật đành đến nhà thường dân gõ cửa xin tạm tá túc một đêm. Ra mở cửa, thấy A Na Luật có hình tướng khôi ngô tuấn tú, trẻ đẹp, thiếu nữ rất vui mừng niềm nở mời vào. Trong nhà không có ai cả chỉ một mình thiếu nữ giữ nhà. Tấn thối lưỡng nan, cửa ngoài đã đóng kỹ, thế chẳng đặng đừng A Na Luật đành ở lại. Nhưng để giữ phẩm hạnh A Na Luật không nằm nghỉ mà ngồi kiết già nhất tâm tĩnh tọa. Ðến nửa đêm, dưới ánh sáng mông lung của ngọn đèn, thiếu nữ đến gạ gẫm chuyện với lời lẽ cợt nhã. A Na Luật một mực nín lặng không dám hé môi, mở mắt. Thiếu nữ kể lễ có nhiều trưởng giả đến cầu hôn nhưng nàng từ chối. Theo thiếu nữ, chuyện duyên nợ ba sinh nay mới đến thời điểm, nàng hết lời ca ngợi A Na Luật, nào là diện mạo khôi ngô tuấn tú, nào là da dẻ hồng hào, thân hình cân đối… So với nàng thật là xứng đôi vừa lứa mong được kết tóc xe tơ. Thiếu nữ yêu cầu A Na Luật ở luôn tại nhà này, cha mẹ nàng sẽ mừng rỡ vô cùng, thiếu nữ càng van xin khẩn khoản, A Na Luật càng nhắm kỹ đôi mắt, cố giữ tâm bất động. Thấy A Na Luật một mực kiên trì không lay động, thiếu nữ choàng tay qua thân Ngài. Thấy tình thế nguy ngập đến nơi A Na Luật mở mắt nhìn thẳng vào thiếu nữ và nói lời phản đối dữ dội. Thiếu nữ vô cùng thẹn thùng, xấu hổ và thất vọng, nằm vật xuống đất khóc than, gần như một người mắc bệnh tâm thần. Biết thiếu nữ có thể đã rối loạn thần kinh, A Na Luật đổi giọng ngọt ngào khuyên bảo và giảng giải cho thiếu nữ biết tham ái là gốc của sanh tử, người tu hành cần đem lưỡi gươm trí tuệ chặt đứt ái dục, thoát khỏi vòng luẩn quẩn sinh tử luân hồi. Nghe Ngài giảng giải thiếu nữ từ từ tỉnh ngộ, và vô cùng cảm mến đạo hạnh của Ngài. Trước khi trời sáng A Na Luật sửa soạn hành trình, thiếu nữ quỳ lạy sám hối và xin được quy y làm đệ tử.
Chứng Thiên Nhãn
Nhờ nghiêm trì phạm hạnh không bị nữ sắc cám dỗ, A Na Luật rất được mọi giới kính ngưỡng, nhưng A Na Luật chưa loại trừ được ma mê ngủ. Mỗi khi vào giảng đường nghe Phật thuyết pháp dù đã hết sức cố gắng, A Na Luật vẫn thường ngủ gục. Vài ba lần A Na Luật đã bị Phật quở trách. Một hôm Phật gọi A Na Luật đến bảo rằng:
·         Này A Na Luật! Ông xuất gia học đạo vì sợ phép nước hay sợ trộm cướp.
·         Bạch Thế Tôn! Không phải như vậy.
·         Thế vì lý do gì mà ông xuất gia?
·         Bạch Thế Tôn vì con chán cảnh sinh, lão, bệnh, tử và muốn giác ngộ, giải thoát hết các khổ não.
·         Này A Na Luật! Ông là con người đoan chính, phạm hạnh không sa ngã bở nữ sắc, cho nên được giáo đoàn kính trọng. Tính háo sắc, người đời khó trừ được còn ông là người không mù quáng, thế tại sao tính ham ngủ ông lại không dẹp bỏ được? Trong lúc nghe pháp mà ngủ thì bao giờ mới chứng đạo giải thoát?
Nghe Phật quở, A Na Luật quỳ lạy sám hối và phát lời thề rằng:
·         Bạch Thế Tôn con xin sám hối tội hay ngủ gục trong lúc nghe phá, cúi xin Ðức Thế Tôn lượng thứ. Từ nay về sau con sẵn sàng chịu mọi cực hình miễn sao diệt trừ được tật xấu ngủ gục.
Từ đó Tôn giả quyết tâm không ngủ. Lúc nào cũng mở to đôi mắt nhìn vào khoảng không, từ đầu hôm đến sáng, từ sáng đến chiều không chớp mắt. Sức người có hạn, sau những giờ làm việc mệt nhọc, con người cần có giấc ngủ để lấy lại sức lực. Sự vận hành của thiên nhiên giữ cho con người đuợc thăng bằng. Mặt trời xuất hiện soi sáng mọi vật, giúp con người hoạt động. Mặt trời đi ngủ khiến không khí mát mẻ, bóng đêm tràn ngập, giúp con người ngủ nghĩ để tâm hồn bình thản, trái với thiên nhiên, con người mất hết sức lực. Mất ngủ là một bệnh, cơ thể dã dượi, hai mắt sưng húp. A Na Luật đã cải thiên nhiên, ngồi chong mắt hết ngày nọ đến ngày kia, khiến hai mắt sưng vù.
Từ trên pháp tòa, nhìn thấy A Na Luật đã sưng vù hai mắt, Phật rất lo lắng gọi đến và dạy rằng:
·         Này A Na Luật! Người tu hành hãy tránh hai thái cực: Bất cập hoặc thái quá đều chẳng đạt đạo. Dây đàn căng quá hoặc chùng quá khiến đàn không kêu, dây đàn vừa phải, tiếng đàn mới thánh thót. Sự tu hành phải đi theo con đường trung đạo. Ông không nên hành đạo theo con đường thề độc của ông, nguy hiểm lắm đạo chưa đạt mà mắt đã mù, sẽ chịu thiệt hại nhiều thứ.
·         Bạch Thế Tôn! Con không thể trái nguyện, xin Thế Tôn cho con được giữ tròn.
·         Này A Na Luật! Sống trong đời con mắt rất cần yếu, mắt bị mù sẽ không thấy biết gì hết. Con người sống được nhờ ăn, có ngủ nghĩ con mắt mới tinh sáng. Giấc ngủ là thức ăn của con mắt, ông không ngủ tức là bắt mắt nhịn đói, đói ngủ nó sẽ mù sức khỏe của ông cũng sẽ kiệt, sức kiệt thì làm thế nào tiến đến Niết Bàn, ông nên biết Niết Bàn cũng cần thức ăn.
·         Bạch Thế Tôn! Thế thức ăn của Niết Bàn là gì?
·         Thức ăn của Niết Bàn là không buông lung (bất phóng dật), người không buông lung mới đạt Niết Bàn.
Mặc dù Phật từ mẫn khuyên bảo, Tôn giả vẫn không nghe cứ tiếp tục cố mở mắt, một thời gian ngắn, đôi mắt bị mù. Một hôm Tôn giả mặc một tấm áo, biết có chỗ rách bèn ngồi vá áo, nhưng không biết mượn ai xâu chỉ vào kim, Phật đến trước A Na Luật và nói:
·         Ðể ta xâu giúp cho.
Tình thương của Phật thật bao la, A Na Luật rất cảm động. Xâu chỉ xong, Phật trao kim lại nhưng A Na Luật cũng chẳng thấy để may, tay cứ mân mê cái áo. Thấy thế Ðức Phật lại bảo:
·         Ðể ta giúp cho.
Suốt ngày Phật nắm tay A Na Luật hướng dẫn để mũi kim lên xuống đều đặn, mãi đến chiều ba y đã vá xong. Ðể giúp cho A Na Luật không cần mắt thịt vẫn thấy xuyên suốt ba ngàn thế giới, Phật dạy A Na Luật phương pháp nhập định, luyện phép thiên nhiên. Bản chất vốn hay cương quyết, lại tuyệt đối tin Phật, A Na Luật chứng được Thiên Nhãn Thông. Ðược giáo đoàn suy tôn là bậc Thiên Nhãn Ðệ Nhất trong hàng Thánh chúng.
Tám Ðiều Giác Ngộ Của Bậc Ðại Nhân
Sau khi chứng Thiên nhãn thông Tôn giả đến trước Phật tỏ lòng biết ơn rồi thưa rằng:
·         Bạch Thế Tôn! Bước đầu của người xuất gia là loại trừ tham sân, ngã mạn, tật đố, để bản thân có phẩm hạnh vô ngã, vị tha, và đem lại cho mọi người được nhiều phước lạc. Nhưng để tiến xa hơn đến chân trời giác ngộ, giải thoát và niết bàn, người xuất gia còn phải thực hành những gì xin Thế Tôn chỉ giáo.
·         Ðức Phật hoan hỷ dạy rằng:
·         Hay thay! Hay thay! Người xuất gia cần phải hạ hóa thượng cầu. Ngoài việc làm lợi ích cho con người, cho xã hội, để giải thoát hàng Tỳ kheo cần phải thực hành “Tám điều giác ngộ của bậc đại nhân”. Ðó là:
·         Thứ nhất: Giác ngộ thế gian vô thường, đất nước nguy khốn, bốn đại khổ không, năm ấm không ngã, thảy đều sinh diệt, hư dối không thật, tâm là gốc tội, thân thể biến hoại. Quán sát như vậy dần lìa sinh tử.
·         Thứ hai: Giác ngộ tham dục gốc khổ dẫn vào sanh tử, thiểu dục vô vi thân tâm tự tại.
·         Thứ ba: Giác ngộ lòng tham không đáy, càng có càng cầu, càng thêm tội ác. Bồ tát ngược lại, ít muốn biết đủ, vui đạo quên nghèo, bồi đắp trí tuệ.
·         Thứ tư: Giác ngộ, lười biếng trụy lạc điều đáng tủi hổ, luôn luôn tinh tấn phá trừ phiền não, hàng phục tứ ma chống khỏi địa ngục giam hãm.
·         Thứ năm: Giác ngộ, ngu si là đầu mối của sanh tử, Bồ tát chăm lo học rộng nghe nhiều, tăng trưởng trí huệ sớm đuợc biện tài, giáo hóa chúng sinh là niềm vui lớn.
·         Thứ sáu:Giác ngộ, nghèo khổ sinh hận tạo thêm duyên dữ, Bồ tát không oán không ghét người ác, oán thân bình đẳng.
·         Thứ bảy: Giác ngộ, dục là nguồn họa, còn ở thế gian, tâm không đắm dục, tâm chí hướng về chí hạnh xuất gia giữ hạnh thanh bạch, cầu hạnh thanh tịnh thương khắp mọi loài.
·         Thứ tám: Giác ngộ, lửa sinh lửa tử, ngày đêm thiêu đốt, biển khổ không bờ, phát tâm độ sinh, thay hết chúng sinh, chịu vô lượng khổ khiến đều an vui.
Này A Na Luật! Chư Phật thường khai thị tám điều trên đây. Muốn được giác ngộ cần vận dụng tâm từ bi rộng lớn làm nền tảng cho vấn đề tu phướcvà huệ. Người đuợc như thế tất sẽ thành đạt cứu cánh Niết Bàn, thường lạc ngã tịnh.
Nhận Thức và Kết Luận
Trong nhân loại, giữa nam và nữ, nam mang tính lý trí và năng động, còn nữ thiên về tình cảm nên nặng tính thụ động và đặc biệt là tôn giáo tính. Bởi thế trong các cuộc lễ tôn giáo phái nữ chiếm nhiều hơn, ngưòi đi tu cũng chiếm đa số. Còn nếu xét về giai cấp thì từ xưa đến nay chỉ có Phật Thích Ca là vị xuất thân từ dòng dõi vua chúa, trong số đệ tử của Phật đa phần là giai cấp thấp hoặc từ đạo sĩ Bà La Môn chuyển hướng. Còn giai cấp Sát Ðế Lợi ngoài Ðức Phật chỉ có 8 vương tôn công tử,trong đó có A Na Luật người dám bỏ lạc thú trần gian để theo Phật xuất gia. Việt Nam có vua Trần Nhân Tông. A Na Luật là con người đoan chính lại rất ý chí, nên đã không bị nữ sắc lung lạc, lại giữ ý chí đến như cực đoan, trong vấn đề ma ngủ đến mù cả hai mắt. Lại cũng nhờ quyết chí A Na Luật đã chứng thánh, đạt được thiên nhãn thông. Ðược thế nhưng không dừng lại ở đó, Tôn giả lại thỉnh vấn Phật phương pháp giác ngộ và giải thoát cao hơn. Do đó Ðức Phật đã vì A Na Luật mà nói kinh Tám Ðiều Giác Ngộ của Bậc Ðại Nhân. Với kinh nàykhông chỉ là phương pháp giúp sự tu hành cho A Na Luật xưa kia mà ngày nay chúng ta cũng cần học để tiến tu. Sinh vào thời điểm mạt pháp, đạo nghiệp chúng ta rất yếu, trong lòng còn nhiềư tham ái, tật đố, ngu si, lười biếng, ích kỷ… Chúng ta nên noi gương Tôn giả A Na Luật, tâm niệm tư tưởng 8 điều giác ngộ, giữ tâm đoan chính, lập chí vững chắc để đừng bị tình đời lôi cuốn, hầu nâng cao phẩm hạnh đạo đức giúp ích cho đạo, lợi lạc cho đời và làm tư lương cho con đường tiến lên chân trời giác ngộ và giải thoát.
Tôn Giả La Hầu La 
Rahula – Mật Hạnh Ðệ Nhất
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Con vua thì được làm vua, con sãi giữ chùa thì quét lá đa”. Câu tục ngữ con vua quan bao giờ cũng được che chở và tiếp tục chức tước, còn dân thì cha truyền con nối cày sâu cuốc bẩm, còn mang ý nghĩa nói lên tính huyết thống, di truyền mà ít ai nghĩ đến từ ý nghĩa đó, tục ngữ Việt Nam còn có thêm một câu tương tự: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Tục ngữ Pháp gọi là: “Cha như thế nào con như thế ấy” (Tel père, tel fils). Bởi thế với xã hội chúng ta có thể thiết lập công bằng trên bình diện quyền lợi vật chất, còn huyết thống di truyền thì chúng ta khó có thể san bằng được, nếu con người không chịu cấy giống, tạo được khí hậu đồng đều giữa các miền. Dù không có pháp chế chính thức, người Nhật đã âm thầm lai giống cho nên ngày nay dân Nhật có tầm vóc cao, hết gọi là Nhật lùn, ngoài vấn đề Nhật có một đời sống vật chất cao, đầy đủ chất dinh dưỡng. Từ đó thực tế cho thấy vấn đề huyết thống di truyền rất là quan trọng đối với con người. Ngày xưa ở Ấn Ðộ Thái Tử Tất Ðạt Ða vốn sanh từ dòng Sát Ðế Lợi, được thừa hưởng huyết thống thông minh tài trí, lại nhờ bối cảnh xã hội thúc đẩy, Thái Tử Tất Ðạt Ða vượt trội lên để trở thành Phật Thích Ca đấng Pháp Vương Vô Thượng. Về sau La Hầu La dù có nghịch ngợm hay đùa cợt, nhưng đã nhờ sức tiếp huyết thống của Phật Thích Ca nên đã thẳng bước tiến trên đường đạo nghiệp, trở thành một đại đệ tử Ðệ Nhất Mật Hạnh.
La Hầu La Thời Niên Thiếu
Là cháu đích tôn của vua Tịnh Phạn và là cháu ngoại của vua Thiện Giác, La Hầu La (Rahula)rất được cưng chiều sống hạnh phúc trong thời thơ ấu. Thái Tử Tất Ðạt Ða không những chỉ bỏ lạc thú mà còn khước từ luôn cả ngôi báu, bởi thế trong tương lai người kế vị vua Tịnh Phạn chắc chắn là La Hầu La. Ðó cũng là lý do La Hầu La được trìu mến trong hoàng cung. Vả lại La Hầu La là niềm vui duy nhất của Da Du Ðà La, nên bà rất mực yêu thương và nuông chiều.
Sau ba năm thành đạo, Ðức Phật mới trở về thành Ca Tỳ La Vệ thăm Phụ vương, Di mẫu, Da Du Ðà La và La Hầu La. Toàn dân nô nức đón chào ngày trở về của Thái Tử Tất Ðạt Ða nay đã trở thành Phật Thích Ca, Vua Tịnh phạn cũng đích thân đi đón. Da Du Ðà La và La Hầu La không đi, chỉ lên lầu ngó trông. La Hầu La lúc nào cũng bên mẹ, nên mãi chưa được thấy phụ thân. Khi Ðức Phật cùng Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đến cung của Da Du Ðà La, La Hầu La mới biết phụ thân. Nhưng với trí thông minh sẳn có dù chỉ 10 tuổi, La Hầu La liền nghĩ Phật chẳng còn là phụ thân riêng của La Hầu La mà là một bậc đại từ phụ của tất cả chúng sanh, với tính thơ ngây La Hầu La thường đòi được ở chung với Phật. Mỗi khi gặp Phật, La Hầu La lại đòi Phật cho gia tài. Một hôm sau khi từ rừng Ni Câu Ðà vào đến hoàng cung , Ðức Phật nói với Xá Lợi Phất:
·         Chú bé La Hầu La cứ đòi xin ta gia tài, ta không cho thứ tài sản mong manh của cuộc đời, ta không muốn La Hầu La thừa kế ngôi báu, chỉ muốn cậu bé xuất gia cầu đạo giải thoát. Do đó ta muốn Xá Lợi Phất hướng dẫn La Hầu La xuất gia. Với huyết thống Phật chủng sẳn có, vâng lời Tôn giả Xá Lợi Phất, La Hầu La xuất gia làm vị Sa di đầu tiên trong giáo đoàn, tháp tùng các vương tôn theo Phật về Tinh Xá Trúc Lâm, tiến tu đạo nghiệp nối tiếp dòng thánh, trở thành vị Mật Hạnh Ðệ Nhất.
Ðạo Nghiệp La Hầu La
Sa Di nghịch ngợm
Dù đã thọ giới Sa di nhưng còn trẻ tuổi, La Hầu La chưa ý thức rõ hết tầm quan trọng của con đường mới và cũng chưa đủ kiến thức để lãnh hội chánh pháp. Trong tăng đoàn La Hầu La giống như một cái máy, các bậc trưởng thượng bảo sao nghe vậy, chẳng biết trách nhiệm của một sa di phải làm những gì? Khi Xá Lợi Phất nhận thêm chú bé Quân Ðầu vào làm Sa di, La Hầu La bắt đầu có bạn và thường bày các trò chơi nghịch ngợm, dối gạt người khác. Lúc ở rừng Ôn Tuyền, ngoài thành Vương Xá, có nhiều quan quyền, trưởng giả, cư sĩ đến hỏi nơi Ðức Phật đang thuyết giáo để viếng thăm, La Hầu La thường trêu chọc bằng cách chỉ không trúng chỗ. Nếu Phật ở Tinh Xá Trúc Lâm, La Hầu La bảo ở Kỳ Xà Quật, ngược lại nếu Phật ở Kỳ Xà Quật, La Hầu La chỉ ở Trúc Lâm, hai nơi này cách nhau đến những 5 dặm. Nhiều người không bằng lòng cách trêu chọc của La Hầu La, nhưng La Hầu La vừa là Sa di, vừa là con Phật lại thuộc dòng họ quyền quý, nên không ai dám chỉ trích hoặc trách cứ. Chuyện nghịch ngợm dối gạt để mua vui lâu ngày cũng đến tai Phật. Phật không vui chút nào, vì đã là một Sa di mà tập khí vương giả, tính ý lại chưa tẩy trừ được, Ðức Phật đích thân đến vườn Ôn tuyền khiển trách La Hầu La.
Phật Răn Dạy La Hầu La
Khi nghe tin Phật đến, La Hầu La vội vàng ra nghinh đón. Thấy Ðức Phật rất oai nghiêm từ xa mới đến, La Hầu La đem nước đến để Phật rửa chân. Rửa xong, Phật chỉ nước trong chậu hỏi La Hầu La:
·         Này La Hầu La! Nước này có thể uống được không?
·         Bạch Thế Tôn! Không thể uống.
·         Tại sao?
·         Vì nước đã ô uế.
·         Này La Hầu La! Ông cũng giống như thứ nước đó. Thời gian xuất gia làm Sa di khá dài, gần 10 năm nhưng với lề thói xấu xa, ông chưa dứt được.Nước ô uế không uống được, thân tâm những người còn ô uế các tập khí có khác gì đâu? Hình thức xuất gia mà thân, khẩu, ý còn trần tục tất không thể thăng hoa. Người rời bỏ thế tục phải giữ lòng thanh tịnh, hành vi cử chỉ nhẹ nhàng, nói năng ngọt ngào, lựa lời mà nói. Xuất gia mà không trừ bỏ ba độc uế, chẳng khác gì nước dơ, nước không sạch người ta sẽ đem đổ, con người mang nhiều tật xấu ắt sẽ sa đọa tương lai đen tối.
Nói xong, Ðức Phật bảo La Hầu La mang chậu đi đổ nước dơ rồi mang chậu về, khi trở lại Phật hỏi:
·         Này La Hầu La! Chậu này có đựng thức ăn được không?
·         Thưa không.
·         Tại sao?
·         Vì vết dơ bám đầy chậu.
·         Này La Hầu La! Chậu dơ không đựng thức ăn được, thân dơ cũng thế thôi. Ông chỉ là một hình đồng Sa di mà thân, khẩu, ý không đồng, không tu tập giới, định, huệ, tâm không trong sạch, lời nói bông đùa nghịch ngợm, thân dính đầy cấu uế, mất hết oai nghi, như thế khác gì nước uế, chậu dơ. Chậu dùng không được thì giữ lại làm gì?
·         Nói vừa dứt lời, Phật lấy chân đá nhẹ vào chậu khiến chậu vỡ đôi, Người lại hỏi tiếp:
·         Này La Hầu La! Ngươi có tiếc cái chậu không?
·         Thưa không.
·         Tại sao?
·         Vì chậu dơ, có gì phải tiếc!
·         Này La Hầu La! Vì chậu dơ ngươi không tiếc khi nó vỡ. Giống như mọi người không thương kính ngươi, vì ngươi còn nhiều lầm lỗi, kể cả việc nói để mà chơi. Mang danh xuất gia, ăn nói không được thật thà, oai nghi thiếu chững chạc, phỉnh gạt người khác, ai mà thương mến ngươi được?
Nói xong Phật còn đem chuyện xưa để răn dạy thêm. Xưa kia có một ông vua chuẩn bị đầy đủ cho con voi lâm trận, mình mặc áo giáp, ngà nối tên nhọn,túi giắt kiếm báu… Khi lâm trận voi sử dụng đủ các bộ phận của cơ thể, như hai chân trước, hai chân sau, đầu, tai, ngà, đuôi, nhưng không dùng cái vòi, luôn luôn co lại dấu kín. Nếu không bảo vệ cái vòi thì bị tên bắn, liền bị toi mạng. Ðức Phật khuyên La Hầu La cần cẩn thận lời nói, giống như con voi bảo vệ cái vòi, mở miệng nói dối dù nói chơi huệ mạng của người sẽ mất. Con voi ra trận mà không biết bảo vệ cái vòi thì chẳng còn biết sợ gì hết. Con người không cẩn thận, cân nhắc lời nói để cứ nói lừa, nói dối sẽ không có tàm quý và không có một việc xấu xa nào mà không làm. Bởi thế con người hãy ráng giữ miệng giữ mồm. Nghe Ðức Phật răn dạy, La Hầu La tỉnh ngộ phát nguyện sửa đổi oai nghi, bỏ lời dối gạt, âm thầm vắng vẻ tu luyện mật hạnh.
Tu hạnh nhẫn nhục
Tuy La Hầu La đã phát nguyện giữ gìn giới luật, cẩn thận lời nói tiến tu mật hạnh, Ðức Phật vẫn bảo Tôn giả Xá Lợi Phất luôn luôn kềm chế La Hầu La bằng những công tác hằng ngày. Theo lời Phật, Xá Lợi Phất giao việc quét dọn sân vườn cho La Hầu La. Một hôm sau khi thực hiện xong công tác hằng ngày, La Hầu La vào giảng đường nghe Phật thuyết pháp mãi đến tối mới trở về phòng. La Hầu La thấy một khách tăng đã dọn y bát của La Hầu La ra ngoài để lấy phòng nằm ngủ, theo sự hướng dẫn của vị quản lý. Vì đã nguyện kín tiếng lặng hơi theo pháp mật hạnh, La Hầu La đành ôm y bát ra sân ngồi. Thình lình trời đổ mưa xối xả, La Hầu La lại ôm y bát vào nhà xí. Cũng vì trời mưa nước ngập hang, một con rắn tìm nơi lánh nạn, bò vào nhà xí. Vì trời tối La Hầu La ngồi bất động không thấy rắn, trong cơn nước ngập rắn bò kiếm chỗ khôn ráo nên cũng không biết có người trong nhà xí. Ngay tối hôm đó có người báo cho Phật hay La Hầu La bị một khách tăng chiếm phòng và có thể La Hầu La ẩn mưa trong nhà xí, Phật liền đi tìm La Hầu La. Khi rọi đèn vào nhà xí, Phật thấy La Hầu La ngồi bó gối ở một góc, con rắn khoanh tròn ở một góc. Vì có ánh sáng rắn nằm bất động, còn La Hầu La được Phật gọi ra và dẫn vào Tinh Xá. Sáng hôm sau, Phật tập họp tăng đoàn ban hành quy chế, Sa di có thể ở chung phòng với Tỳ kheo. Từ đó La Hầu La được ở chung phòng với Xá Lợi Phất, hai thầy trò sát cánh nhau. Một hôm hai thầy trò đi khất thực, vì kính Tỳ kheo hơn Sa di, các đàn việt đem vật ngon cúng cho Tỳ kheo, còn Sa di La Hầu La nhận những vật thực ít chất dinh dưỡng như xác mè, rau đậu… Tuy đã phát nguyện nhẫn nhịn, tịnh hóa thân tâm, các tập khí bị dồn nén lâu ngày, giờ có thời cơ trỗi dậy. Với ý nghĩ tuổi đang lớn, cần được dinh dưỡng khi khất thực về vẻ mặt La Hầu La lộ nét u buồn, Phật hỏi lý do La Hầu La trình lại sự cố. Phật dạy La Hầu La nên kính lão, vả lại đi tu đâu có cần miếng ăn, ăn để sống chứ đâu phải sống để ăn. Ðức Phật khuyên La Hầu La nên chú trọng đến hạnh tu, không nên quá quan tam đến ăn uống, thức ăn chỉ là thuốc trị bệnh đói.Tuy nhiên, Phật cũng bảo Ngài Xá Lợi Phất nên chăm sóc đến sức khỏe của tuổi trẻ bằng cách lưu tâm đến sự ăn uống cho đủ chất dinh dưỡng. Một hôm khác hai thầy trò vào thành Vương Xá khất thực, trên đường đi chẳng may hai thầy trò gặp một chàng du đãng. Hắn ta chận đường, chửi bới lấy cát bỏ vào bình bát của Xá Lợi Phất, rồi vác gậy đánh La Hầu la túi bụi rồi bỏ đi. Vì sức yếu không chống trả nổi, đầu bị chảy máu. Lại cũng do tập khí bị dồn nén chưa dứt sạch, mặt La Hầu La tức giận bừng bừng và ôm dầu khóc thê thảm. Xá Lợi Phất từ tốn khuyến giáo:
·         Này La Hầu La! Tuổi đã 18,19 sắp được thọ cụ túc giới, ngươi hãy quyết tâm nhổ sạch tập khí 3 độc, bằng mật hạnh nhẫn nhục, kẻ hành giả không nên oán cừu thù hận, hãy đem đức tính từ bi thương yêu tất cả chúng sanh, ở đời khen, chê, vinh, nhục là điều không đáng cho người tu hành lưu tâm. Ðiều đáng cho hành giả ghi nhớ là ở thế gian, sức mạnh nhẫn nhục có thể thắng tất cả sức mạnh khác, dù lớn lao đến đâu.
Vừa khuyên giải, Tôn giả vừa băng bó vết thương cho La Hầu La. Khi về đến Tinh Xá, Tôn giả trình lên Ðức Phật sự tình vừa mới xảy ra trên đường hai thầy trò đi khất thực. Phật dạy La Hầu La:
·         Này La Hầu La! Nhẫn nhục là hạnh vô cùng cao quý, muốn thấy Phật, thuận pháp, gần tăng ông hãy tu hạnh nhẫn nhục. Người biết nhẫn nhục tâm hồn sẽ thư thái, an ổn, diệt trừ được các tai họa, trí tuệ phát sinh, trí tuệ là kiếm báu chặt đứt gốc rễ vô minh, tham ái, ngã chấp. Người có trí tuệ dù có chung đụng với thế lực vẫn không bị ô nhiễm. Nhẫn nhục là điều kiện làm tăng thượng duyên, tuyên dương chánh pháp, là tư lương để giải thoát khỏi sinh tử luân hồi. Ðể khai thị thêm, giúp La Hầu La có đủ điều kiện tiến tu và chứng thánh, Phật lại khuyến hóa tiếp:
·         Này La Hầu La! Ðể nối tiếp dòng thánh không phụ các ân ngươi hãy nhìn thẳng vào thực tại của muôn vật, ngươi có thấy vật nào đứng yên không? Tất cả năng động trong sinh diệt, diệt sinh, ngươi cần đem trí tuệ soi suốt tính vô thường, vô ngã của vạn vật kể cả thân tâm của ông, có suốt rõ như thế tâm mới không dính mắc vào bất cứ một thứ gì để tu niệm, giữ 8 vạn oai nghi và ba ngàn tế hạnh, hầu sớm được giải thoát. Ngươi không thể trì trệ trên con đường triển khai Phật chủng. Nghe Ðức Phật cảnh tỉnh, La Hầu La liền tỉnh ngộ, dành mọi thời gian, chuyên tâm tu luyện oai nghi tế hạnh. Cuối cùng La Hầu La trở thành bậc đệ nhất về mật hạnh, được Phật khen ngợi và khuyên trang trải tâm tư đồng thể khắp mọi loài đưa chúng sanh qua bờ giải thoát.
Tiếp nhận Tinh Xá
Tuổi còn trẻ ít tham gia sinh hoạt của tăng đoàn, chỉ vâng lời Phật chuyên tu oai nghi tế hạnh, lúc 20 tuổi La Hầu La chứng Thánh và được nhiều người kính trọng, vì thế La Hầu La được tín chúng cúng dường nhiều nhất. Một hôm Ðức Phật ở Ca Tỳ La Vệ thuyết pháp, có một trưởng giả đến xin quy y Phật nhưng lại rất hưũ duyên với La Hầu La. Sau ngày quy y vì cùng một quê hương Ca Tỳ La Vệ, Ông truởng giả cúng dường cho La Hầu La đủ các thứ cần dùng. Sẳn có tài sản trưởng giả xây cất một tinh xá, dâng cúng cho La Hầu La. Tinh Xá khang trang rộng rãi nên La Hầu La dọn về thường trú ở đó. Trên đường đi thuyết pháp các Tỳ kheo cũng thường ghé lại Tinh xá của La Hầu La. Vì thế Tinh Xá lúc nào cũng đông khách ra vào. Vì nghĩ Tinh xá do mình cúng nên mình có trách nhiệm quản lý, Trưởng giả rất siêng năng lui tới Tinh xá bàn bạc với La Hầu La việc này, việc nọ, đôi lúc ông còn lấn cả quyền hạn của trụ trì La Hầu La. Là một người tu hạnh nhẫn nhục luôn im lặng truớc mọi hành động của vị trưởng giả, và cũng vì chưa nghe Phật chế giới tiếp nhận và quản lý Tinh xá như thế nào nên trong dịp trở về Trúc Lâm, La Hầu La thỉnh Phật ý kiến. Ðức Phật dạy rằng:
·         Trong giáo pháp của ta việc của tăng đoàn, hàng tín chúng không được can dự vào, phòng ốc, tinh xá của tăng đoàn cư sĩ Phật tử không có quyền quản lý. Dù bất cứ vật gì kể cả Tinh xá, sau khi đã dâng cúng quyền sở hữu thuộc về chư tăng.
Nghe Phật giải thích rõ ràng, La Hầu La về trình bày với ông trưởng giả. Ðã không thông hiểu Phật pháp lại ỷ đã bỏ tài sản ra xây dựng, đương nhiên ông có quyền quản lý. Do đó trước kính trọng cúng dường cho La Hầu La bao nhiêu, bây giờ trưởng giả lại oán thù La Hầu La bấy nhiêu, xem La Hầu La là người chiếm đoạt tài sản. Một hôm La Hầu La có việc phải vào thành Xá Vệ, đúng lúc trưởng giả viếng thăm Tinh xá, vì tâm bất bằng có sẵn lại thấy Tinh xá vắng vẻ, trưởng giả vội vàng đem Tinh xá cúng dường cho một vị Tỳ kheo khác. Khi xong việc trở về, thấy tinh xá có người đến ở, với tâm không vụ lợi tranh chấp, xả bỏ tất cả, La Hầu La ôm y bát trở về Tinh xá Kỳ Hoàn. Thấy lạ Ðức Phật hỏi lý do, La Hầu La trình bày với Phật, Tinh xá đã bị trưởng giả thu hồi và đem cúng dường cho một vị Tỳ kheo khác. Ðức Phật nghĩ, người không hiểu Phật pháp mà đi làm phật sự thật là một điều khó, sau đó Phật triệu tập tăng đoàn và dạy:
·         Những vật đã đem bố thí cho người, tín thí đem tặng lại cho các ông, các ông không được tiếp nhận. Nói thế không phải ta thiên vị, bênh vực quyền lợi cho La Hầu La, phép tắc trong giáo đoàn phải được quy định rõ để tránh các rắc rối về sau.
La Hầu La Nhập Niết Bàn
Về sự đản sinh và niết bàn của La Hầu La có hai truyền thuyết: Một thuyết cho rằng La Hầu La ra đời năm Thái tử Tất Ðạt Ða 19 tuổi, thuyết khác cho rằng La Hầu La chào đời năm Thái Tử Tất Ðạt Ða 25 tuổi. Về năm Niết Bàn của La Hầu La cũng có hai truyền thuyết. Một thuyết nói La Hầu La Niết bàn trước Phật vài năm, thuyết khác ghi khi Phật Niết Bàn La Hầu La còn quỳ bên Phật. Theo truyền ký Da Du Ðà La cùng tuổi với Phật, nhưng niết bàn năm 78 tuổi như thế là trước Phật 2 năm. Còn La Hầu La niết bàn không quá 50 tuổi trước cả Phật và Da Du Ðà La.
Nhận Thức và Kết Luận
Trong hàng Thánh chúng, La Hầu La là vị tu chứng trẻ nhất, lúc mới 20 tuổi. Ðúng là mê nhất kiếp ngộ nhất thời, vừa vâng lời Phật bỏ tính ham chơi của tuổi trẻ, tu chẳng bao lâu La Hầu La liền chứng thánh vị. Lúc còn là chú tiểu và cả lúc đã thọ sa di, La Hầu La biểu thị tính hồn nhiên, thơ ngây, nghịch ngợm của tuổi trẻ ngày xưa. Nếu đem so với thế hệ tuổi trẻ ngày nay, chúng không còn ngây thơ hồn nhiên như thế hệ tuổi trẻ của cha anh. Chúng ta không nên méo mó, phải thẳng thắn thừa nhận rằng, trong hiện tại con em chúng ta đang thiếu hướng dẫn, nạn phá phách, xì ke, ma túy nghiện ngập đang lan tràn trong giới trẻ. Gia đình, học đường cần tìm biện pháp chấn chỉnh, đưa tuổi trẻ vào nề nếp. Chúng ta không thể ham lo đời sống kinh tế rồi bỏ quên tuổi trẻ, thế hệ mai sau của tổ quốc. Do đó chúng ta hãy noi gương Ðức Phật và Tôn giả Xá Lợi Phất đi sâu sát rèn luyện tuổi trẻ sớm nên người tốt trong xã hội.
Trên đây là nói về mặt chung của xã hội, còn mặt riêng trong giới tăng ni trẻ, chúng ta phải noi gương La Hầu La về mặt giới đức tu trì. Trong tuổi trẻ La Hầu La có đùa nghịch nhưng là đứa trẻ nghịch hồn nhiên, trong trắng, không bê tha ô nhiễm… Bởi thế sau khi nghe giáo huấn của Phật và Tôn Giả Xá Lợi Phất, La Hầu La đã dễ dàng loại trừ những trò chơi trêu chọc nghịch ngợm và gia công trau dồi oai nghi tế hạnh, để chứng thánh quả. Các tăng ni trẻ nên khép mình trong khuôn khổ nhà chùa, tam thường bất túc, tu trì giới, định, tuệ để trở thành một tăng sĩ thật tài, có đức hữu ích cho giáo hội, cho dân tộc. Có học có tu, có thực tài, có đức hạnh, vị thể của chúng ta trong giáo đoàn và ngoài xã hội mới vững, mới lâu dài. Người xưa có nói: “Hữu hoạn bất tài, hà hoạn vô vị” (chỉ sợ không tài, lo gì không có địa vị). Ðối với cuộc đời, người có tài đức nếu vì một lý do nào đó không thành công thì cũng thành nhân”. Riêng tu sĩ vấn đề tiến tu đạo nghiệp là chính. Tôn giả La Hầu La nhờ âm thầm bỏ công rèn luyện oai nghi tế hạnh nên đã trở thành vị Mật Hạnh Ðệ Nhất ngay lúc tuổi còn trẻ. Trong công tác của giáo đoàn, dù không có những hoạt động sôi nổi như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Phú Lâu Na, Ca Chiên Diên… nhưng đã chứng Thánh quả A La Hán, Mật Hạnh đệ nhất, La Hầu La đã có vị thế lâu dài trong hàng Thánh chúng Thập đại đệ tử của Ðức Phật.
Tôn giả ƯU BA LI 
(Upali) 
(Vị luật sư mô phạm và uy tín nhất)
1.- XUẤT THÂN TỪ GIAI CẤP NÔ LỆ:
Theo luật lệ khắc nghiệt về giai cấp của xã hội Ấn Độ thời Phật tại thế, việc tôn giả Ưu Ba Li được liệt vào một trong mười vị đệ tử thượng thủ của Phật không phải là một việc bình thường!
Ưu Ba Li nguyên xuất thân từ chủng tộc Thủ đà la, tức giai cấp nô lệ, hạ tiện. Từ lúc mới sinh ra, những người thuộc giai cấp này đã bị xã hội kì thị, coi như phân rác, không thèm ngó tới. Trên đường đi, nếu gặp những người của hai giai cấp Bà la môn và Sát đế lị thì họ phải quì nép bên lề, nhường đường cho người kia đi qua; nếu lén nhìn trộm những người kia thì họ liền bị móc mắt; nếu biện bạch tự bào chữa thì liền bị cắt lưỡi. Suốt đời họ chỉ được làm nô lệ cho các giai cấp trên. Thân phận của Ưu Ba Li buồn thảm, đáng thương là vậy! Chàng chỉ có một nguồn an ủi duy nhất, đó là tình yêu thương vô bờ của cha mẹ!
Từ nhỏ, Ưu Ba Li đã không được học hành. Theo luật Ma Nỗ của đạo Bà la môn, chủng tộc Thủ đà la không có quyền học tập. Cho nên, dù có tâm chí đi nữa, việc học hành đối với Ưu Ba Li cũng chỉ là mộng tưởng mà thôi! Khi chàng đã khôn lớn, cha mẹ chỉ biết mong cho con mình học được một nghề gì đó để nuôi thân. Vào thời đó, những nghề như công chức chính phủ, thương gia, địa chủ, v.v… những người thuộc giai cấp Thủ đà là không được phép làm. Họ chỉ được làm những công việc dành riêng cho giới nô lệ như nông dân, thợ thuyền, tôi tớ v.v… mà thôi. Ưu Ba Li là người rất gầy yếu, vì thế mà cha mẹ không muốn cho chàng phải làm những nghề nặng nhọc, vất vả quá sức như làm ruộng, đánh xe, giữ ngựa v.v… mà chỉ muốn chàng được làm tôi tớ cho một người chủ giàu lòng nhân ái nào đó. Muốn tìm được một người chủ tốt thì trước hết phải tạo cho mình có một khả năng chuyên môn nào đó để được người chú ý đến. Suy đi tính lại, cha mẹ chàng bèn quyết định cho chàng đi học nghề hớt tớc. Tâm tánh Ưu Ba Li vốn trong sáng và thuần phác, cho nên chàng học nghề không mấy khó khăn; chẳng mấy chốc, tất cả các kiểu tóc cũng như các cách thức cắt uốn, chàng đều rành rẽ. Có nghề rồi, cha mẹ chàng lại nhờ người giới thiệu, và may mắn thay, chàng được tuyển vào làm thợ hớt tóc trong hoàng cung Ca Tì La Vệ!
Tuy chỉ là một anh nô lệ làm nghề hớt tóc, nhưng vốn tâm địa thuần lương, trung thật, cho nên chẳng bao lâu Ưu Ba Li được cả hoàng cung tín nhiệm, thương mến, được giao cho mỗi một công việc nhẹ nhàng là hớt tóc cho các vương tử mà thôi. Chàng hớt tóc vừa cẩn thận, vừa nhanh, vừa đẹp, lại không đau, nên các vương tử như Bạt Đề, A Na Luật v.v… thích lắm!
2.- CẠO TÓC CHO PHẬT:
Vào năm thứ ba sau ngày thành đạo, Phật trở về Ca Tì La Vệ để thăm lại hoàng tộc. Bấy giờ Ưu Ba Li khoảng hai mươi tuổi. Nhân Phật cần người cạo tóc, chàng được giới thiệu lên Phật. Đó là một sự ưu ái rất lớn, nhưng đã làm cho chàng hoảng hồn! Chàng nghe nói, Phật là bậc đại giác, có đến 32 tướng quí; và nếu thế thì đầu tóc Phật nhất định phải rất khác với người thường! Vậy làm sao chàng dám đụng đến đầu Phật, vạn nhất có điều gì sơ suất thì sao! Vốn đã có mặc cảm thấp hèn rất sâu nặng từ thuở nhỏ, chàng chỉ thấy Phật hiện là một vị thái tử đi tu đắc đạo, lấy mắt nhìn còn không dám, lại dám đụng đến đầu Ngài sao! Chẳng biết tính sao, chàng bèn chạy một mạch về nhà thưa chuyện với mẹ để xin ý kiến. Bà mẹ liền trấn an chàng. Bà khuyên chàng đừng sợ sệt Phật, rằng Ngài là người giàu tình thương, đã từng tiếp xúc và giáo hóa những kẻ khốn cùng; rằng không bao giờ Ngài dùng cặp mắt của kẻ quyền thế để nhìn người, cho nên nhất định Ngài cũng không bao giờ khinh ghét chủng tộc Thủ đà la … Nhưng dù bà có trấn an thế nào, Ưu Ba Li vẫn không hết sợ sệt. Không biết làm cách nào, bà liền quyết định sẽ đích thân dắt chàng đi cạo tóc cho Phật.
Sáng hôm sau, bà dẫn Ưu Ba Li vào cung, trước hết xin được bái kiến Phật, sau đó mới bảo Ưu Ba Li cạo tóc cho Phật. Chàg vâng lời, bèn tập trung tâm ý, cạo tóc cho Phật một cách hết sức chậm rãi, cẩn trọng. Bà đứng một bên chăm chú nhìn từng động tác của con mình. Được một lúc, bà quì xuống thưa hỏi Phật:
- Bạch Thế Tôn! Ngài thấy Ưu Ba Li cạo tóc thế nào?
- Anh ấy cong người nhiều quá!
Câu trả lời của Phật nghe có vẻ như lạ, vì Ưu Ba Li tỏ vẻ cung kính đối với Phật nên đứng khom lưng, không dám đứng thẳng; nhưng theo truyền thuyết, qua câu nói ấy Phật có ý bảo cho biết, trong giờ phút đó, khi đang hết sức tập trung tâm ý, Ưu Ba Li đã nhập Sơ thiền.
Một lúc sau, bà lại hỏi:
- Bạch Thế Tôn! Bây giờ thì Ngài thấy Ưu Ba Li cạo tóc thế nào?
- Bây giờ thì người anh ấy rất thẳng!
Nghe Phật bảo thế, Ưu Ba Li càng chú mục tâm ý hơn nữa, và cũng theo truyền thuyết, lúc bấy giờ chàng đang ở bậc Nhị thiền.
Chẳng bao lâu, mẹ chàng lại thưa:
- Bạch Thế Tôn! Bây giờ thì Ngài thấy Ưu Ba Li cạo tóc thế nào?
- Hơi thở vào còn nặng nề lắm!
Ưu Ba Li nghe thế bèn để hết tâm ý vào hơi thở vô ra. Theo truyền thuyết, lúc đó chàng đang nhập Tam thiền.
Cuối cùng, mẹ chàng lại thưa:
- Bạch Thế Tôn! Bây giờ thì Ưu Ba Li cạo tóc thế nào?
- Hơi thở ra còn nặng nề lắm!
Lúc đó, bỗng nhiên tâm ý Ưu Ba Li hoàn toàn vắng lặng, không còn một niệm nào móng khởi, cả con dạo cạo trong tay cũng quên luôn … Theo truyền thuyết, vào lúc đó chàng đã chứng nhập Tứ thiền! Ngay lúc ấy, Phật quay sang bảo quí vị tì kheo đang đứng bên cạnh:
Một thầy hãy đến lấy xon dao cạo trong tay Ưu Ba Li ra! Anh ấy đang trụ trong trạng thái Tứ thiền, quí thầy hãy đỡ anh ấy, đừng để bị ngã xuống đất!
Qua câu chuyện, chúng ta thấy Ưu Ba Li là người cẩn trọng đối với hành vi cử chỉ của mình biết chừng nào! Mỗi khi nghe người ta nói đến một khuyết điểm nào của mình, tôn giả liền nhận thức ngay và sửa đổi tức khắc. Vì bản tính quá cẩn trọng và luôn luôn nghiêm túc như vậy cho nên tôn giả ít khi để cho mọi người chung quanh phải có một lời bình phẩm không tốt nào về mình, và đó cũng là lí do sau này tôn giả được đại chúng tôn xưng là vị gìn giữ giới luật nghiêm túc số một trong tăng đoàn.
3.- AI XUẤT GIA TRƯỚC LÀ SƯ HUYNH:
Trong chuyến hồi hương lần đầu tiên đó của Phật, cả hoàng cung và khắp kinh thành Ca Tì La Vệ đã được thấm nhuần mưa pháp. Cũng như hạt giống đã được gieo xuống đất rồi đâm rễ nẩy mầm, các vị vương tử trong dòng họ Thích Ca, sau khi nghe Phật nói pháp, đều muốn theo Phật xuất gia. Bấy giờ có bảy vị vương tử (trong đó có Bạt Đề, A Nan và A Na Luật), người thì được cha mẹ chấp thuận, người thì không, cùng rủ nhau đến vườn Ni Câu Đà (Nyagroda – Nigrodha) tìm Phật. (Theo Đường Xưa Mây Trắng của thiền sư Nhất Hạnh, bảy vị vương tử đó là Nan Đà, A Na Luật, Bạt Đề, Đề Bà Đạt Đa, A Nan, Kìm Tì La và Bà Cữu. Riêng Nan Đà thì theo Phật tới vườn Ni Câu Đà xuất gia trước; sáu vị còn lại, sau đó một tháng, mới tìm tới chỗ Phật đang hành hóa ở phía Bắc vương quốc Mạt La, sát biên giới phía Nam của vương quốc Thích Ca, chứ không phải ở vườn Ni Câu Đà; vì Ni Câu Đà thuộc kinh thành Ca Tì La Vệ của vương quốc Thích Ca. – Chú thích của người dịch). Muốn xuất gia thì phải cạo tóc, bởi vậy họ đã phải lén dắt Ưu Ba Li đi theo.
Dưới một bóng cây, lúc đang cạo tóc cho vương tử Bạt Đề, thì nước mắt của Ưu Ba Li bỗng nhiên chảy ràn rụa. A Na Luật thấy thế thì vặn hỏi:
- Ngươi thấy anh em ta đi xuất gia thì vui mừng mới phải, tại sao ngươi lại khóc?
Ưu Ba Li khép nép thưa:
- Thưa vương tử, xin tha thức cho con tội vô lễ! Bởi vì vương tử Bạt Đề đã từng đối xử với con rất tốt. Nay quí vương tử đều đi xuất gia rồi sau này quí vương tử sẽ vân du bốn phương, lúc đó con biết tìm quí vương tử ở đâu! Cứ nghĩ đến điều này là con muốn khóc, xin vương tử thương mà đừng trách mắng con.
A Na Luật an ủi:
- Ngươi đừng buồn nữa, anh em ta sẽ giúp đỡ cho ngươi có được cuộc sống khá giả.
A Na Luật quay lại nói với các vị vương tử khác:
- Này chư huynh đệ! Ưu Ba Li hầu hạ anh em chúng ta đã lâu, rất siêng năng và trung thành. Nay anh em chúng ta đều đi xuất gia thì trước hãy giúp đỡ cho anh ấy có một cuộc sống khá giả về sau. Tôi xin đề nghị: Sau khi xuất gia rồi thì chúng ta đâu có dùng tới đồ trang sức nữa nữa. Vậy tôi trải tấm giạ ra đây, xin quí huynh hãy cởi tất cả đồ trang sức bỏ xuống đây để tặng cho anh ấy làm vốn sinh nhai!
Các vị vương tử vui vẻ tán thành lời đề nghị của A Na Luật. Họ cởi tất cả hoàng bào cùng vòng ngọc châu báu đang đeo trên người, đem biếu hết cho Ưu Ba Li, và bảo chàng hãy trở về lại thành Ca Tì La Vệ sinh sống, rồi cùng nhau nhắm nơi cư trú của Phật mà bước đi …
Ưu Ba Li vừa muốn quay về lại kinh thành thì bỗng chuyển niệm. Chàng nghĩ: “Bây giờ nếu mình mang hoàng bào cùng châu ngọc này trở về thì chắc chắn là phải bị vua cùng các vương công đại thần trong hoàng tộc trị tội. Vả lại, các vị vương tử tôn quí là thế, mà dám từ bỏ tất cả vinh hoa phú quí của thế gian để đi xuất gia, huống nữa là một kẻ hạ tiện như mình, không có gì cả trên thế gian này thì lấy gì để lưu luyến! Vậy thì mình cũng nên đi tìm Phật để xin xuất gia! …”
Suy nghĩ như vậy rồi, không còn chút do dự, Ưu Ba Li quyết định thi hành ý định. Chàng liền đem đống hoàng bào và các thứ châu ngọc treo lên cành cây, rồi bước theo con đường các vương tử đã đi khi nãy …
Đi một chặng đưòng, bỗng nhiên nhớ lại thân phận mình, chàng lại tủi thân, buồn khổ. Không cầm được nước mắt, chàng liền ngồi xuống bên đường vừa khóc vừa than: “Mình làm sao có đủ tư cách để xuất gia! Các vị kia đều là vương tử, còn mình thì chỉ là kẻ nô bộc, làm sao dám sánh ngang với họ!” Rồi chàng oán than nào là thế gian không bình đẳng, nào là phần số bất hạnh của chính bản thân mình … Bỗng đâu có tiếng người hỏi bên tai:
- Anh làm sao mà khóc than não nuột như thế?
Chàng quay đầu nhìn lại thì hóa ra là tôn giả Xá Lợi Phất. Chàng vội vàng lau nước mắt, quì trước tôn giả trần tình:
- Bạch đại đức! Đại đức là vị đệ tử lớn của Phật. Con biết đại được từ khi đại đức theo Phật về hoàng cung. Nay con có một chuyện xin thỉnh ý đại đức. Một người thuộc chủng tộc Thủ đà la như con, nếu muốn theo Phật xuất gia có được không, hay đó chỉ là vọng tưởng xa vời?
- Tên anh là gì?
- Thưa con tên là Ưu Ba Li.
Tôn giả Xá Lợi Phất liền nhớ lại thời gian vừa qua ở hoàng cung, có một thanh niên đứng cạo tóc cho Phật mà nhập đến Tứ thiền, chắc hẳn là người này đây; bèn khai thị:
- Giáo pháp của Phật là giáo pháp tự do, bình đẳng và từ bi. Bất luận là ai, dù có trí tuệ hay không, dù nghề nghiệp và địa vị cao hay thấp, chỉ cần giữ gìn giới luật thanh tịnh là đều có thể trở thành đệ tử của Phật, đều có thể xuất gia và đều có thể chứng quả vô thượng chánh giác. Anh hãy đi theo tôi đến bái kiến Phật. Nhất định Ngài sẽ hoan hỉ chấp nhận cho anh xuất gia làm đệ tử của Ngài.
Ưu Ba Li sung sướng, tức khắc theo tôn giả Xá Lợi Phất đi bái kiến Phật. Phật cũng rất hoan hỉ, đích thân xuống tóc và thọ giới cho chàng. Sau đó Ngài dạy:
- Này Ưu Ba Li! Thầy đã có rất nhiều căn lành, trong tương lai nhất định thầy sẽ có đầy đủ khả năng tuyên dương Phật pháp. Khi thầy chưa đến đây thì nhóm các vương tử Bạt Đề đã đến trước rồi, cũng để xin xuất gia; tuy nhiên, Như Lai chỉ mới mới chấp thuận trên nguyên tắc. Họ còn phải tĩnh cư tu tập trong bảy ngày để hoàn toàn quên đi cái thân phận vương tử của họ, sau đó mới được chính thức xuất gia và được cùng thầy tương kiến.
Ưu Ba Li cảm kích cùng cực. Lúc trước đã từng cạo tóc cho Phật, nhưng tôn giả đâu có tưởng tượng nổi là Phật từ bi đến độ ấy! Cho nên tôn giả thầm nguyện là phải hết lòng theo Phật tu tập, làm sao để trở thành là một người đệ tử thật xứng đáng của Người.
Bảy ngày tĩnh cư của nhóm vương tử Bạt Đề đã mãn, Phật gọi ra để cùng đại chúng diện kiến. Đứng trước đại chúng, họ bỗng ngỡ ngàng trông thấy tì kheo Ưu Ba Li! Họ cảm thấy thật là lúng túng, không biết nên xưng hô thế nào với Ưu Ba Li cho phải đây! Phật hiểu được tâm ý họ, liền uy nghiêm bảo:
- Các ông còn trù trừ gì nữ? Phàm xuất gia học đạo thì trước hết là phải diệt trừ cái tâm kiêu mạn. Ưu Ba Li nay đã xuất gia, đã thọ giới và trở thành một vị tì kheo rồi, thì các ông nên đảnh lễ cho đúng pháp.
Bảy vị vương tử nghe Phật dạy thế, liền đem tâm chân thành hướng về tôn giả Ưu Ba Li đảnh lễ; và sự kiện này lại làm cho lòng tin của họ nơi Phật pháp càng thêm vững chắc; trong khi đó thì Ưu Ba Li lại cảm thấy áy náy không yên. Phật thấy rõ được tâm trạng ấy, bèn dạy:
- Từ nay, thầy hãy lấy tư cách của một vị sư huynh mà đối xử với họ!
Sự kiện Ưu Ba Li xuất gia đã khiến cho pháp chế của Phật trở thành hiện thực. Pháp chế ấy được đặt trên tinh thần “Nước trăm sông đều chảy về biển; người ở bốn giai cấp đều được xuất gia và cùng chung một họ Thích Ca”. Ở xã hội thì sự phân biệt giai cấp vô cùng khắc nghiệt, nhưng trong giáo đoàn của Phật thì sự phân biệt ấy đã bị đánh tan; và đó cũng là sự việc xảy ra lần đầu tiên trong lịch sử Ấn Độ.
4.- TRONG MỘT KIẾP TRƯỚC:
Ngay trong mùa an cư năm ấy, vì rất tinh tấn trong công phu tu học, tôn giả đã đạt được quả vị giác ngộ, nghiễm nhiên trở thành một vị thượng thủ trong giáo đoàn, được cả hai giới xuất gia cũng như tại gia đều tôn kính. Sự việc đó đã làm cho mọi người kinh ngạc. Một người vốn thuộc chủng tộc Thủ đà la hạ tiện, mà căn cơ lại mẫn tuệ đến thế! Tôn giả không những đã chứng tỏ được cái khả năng phi phàm của chủng tộc Thủ đà la mà còn làm nổi bật ánh sáng bình đẳng của đạo Phật nữa. Nhân đây, Phật đã thuật lại một tiền kiếp của tôn giả như sau:
“Thuở trước có hai người nghèo khổ, cùng kết bạn với nhau. Tuy là nhà nghèo, nhưng cả hai cùng có tâm nguyện chuyên bố thí và làm việc từ thiện giúp người. Do công đức ấy mà trong kiếp sau đó, một người được sinh làm quốc vương, tên là Phạm Đức; còn người kia, sinh vào trong một gia đình Bà la môn tiếng tăm lừng lẫy, được mọi người sùng kính, tên là Ưu Bà Già. Lớn lên, Ưu Bà Già lập gia đình với một cô gái rất xinh đẹp. Chàng yêu vợ rất nhiều. Một ngày kia, vì trông thấy chàng tỏ thái độ thân mật với một cô gái khác, người vợ liền nổi cơn ghen. Liên tiếp mấy ngày đầu nàng còn than khóc, nhưng sau đó thì suốt ngày không thèm nói chuyện với chàng nữa. Người có tâm nghi kị và ghen tương nặng nề kia lại chính là người vợ mà chàng yêu thưong rất mực, bởi vậy mà Ưu Bà Già không biết phải xử trí ra sao, đành một mình âm thầm buồn khổ! Tình cảnh ấy kéo dài đến nửa năm, từ đầu xuân cho đến cuối hạ. Bỗng một hôm, vợ chàng ôn tồn lên tiếng:
- Hôm nay xin chàng xuống chợ mua ít hoa tươi về trang trí cho phòng ngủ của chúng ta!
Thốt nhiên nghe vợ mở lời, người chồng nặng tình kia cảm thấy vui mừng khôn tả. Chàng chạy ngay xuống chợ mua hoa. Trên đường về nhà, gặp lúc trời nắng như thiêu đốt, nhưng vì lòng đang tràn trề niềm sung sướng được vợ yêu thương, không ngăn được cao hứng, chàng cất tiếng hát vang theo nhịp chân bước. Đúng vào lúc ấy, vua Phạm Đức đang đứng trên lầu hoàng cung nhìn xem phong cảnh bốn phương. Ưu Bà Già đang đi qua dưới chân hoàng thành, và tiếng hát của chàng đã đập vào tai nhà vua. Vua rất lấy làm lạ, nghĩ rằng xem cách ăn mặc thì hắn đúng là một người Bà la môn, nhưng giữa lúc trời nắng gắt thế này mà vừa đi vừa ca hát hớn hở như thế kia thì chắc hẳn là hắn đang có niềm vui gì lớn lao lắm! Nghĩ vậy, nhà vua liền cho gọi Ưu Bà Già bệ kiến, Khi đã biết rõ được tâm trạng chàng, nhà vua cũng vui lắm, phong cho chàng một chức quan rất cao, và rất sủng ái chàng.
Ưu Bà Già được vua hết sức tín nhiệm, cho nên quyền uy của chàng một ngày một lớn; đến nỗi về sau, nhân dân chỉ biết có chàng mà không còn biết đến vua nữa, nhưng Ưu Bà Già vẫn chưa cho thế là đủ, còn có ý giết vua để tiếm ngôi. Trong khi đang chờ cơ hội thuận tiện để thực hiện ý đồ, thì một hôm chàng bỗng giật mình tỉnh ngộ; vì cảm thấy một cách rất sâu sắc rằng, danh vị và quyền lực thật là đáng sợ! Chàng liền đem hết ý đồ xấu xa của chàng tâu thật cho nhà vua Phạm Đức nghe. Nhà vua lại càng quí mến sự trung thực của chàng; muốn gia ân cho, nhưng chàng đã quyết từ bỏ mọi quyền bính, sám hối tội lỗi, xuất gia tu hành, và chỉ một thời gian ngắn sau đó, Ưu Bà Già đã chứng được thần thông.
Lúc bấy giờ, trong hoàng cung có một người thợ cạo tên là Hằng Già Ba La. Khi nghe vua Phạm Đức khen ngợi về sự xuất gia của Ưu Bà Già, ông cũng thấy vui mừng, bèn phát tâm xuất gia, xin làm đệ tử của Ưu Bà Già, vì quyết tâm tu hành, sau ông cũng chứng quả và được thần thông như thầy mình là Ưu Bà Già.
Một ngày nọ, vua Phạm Đức lên núi cúng dường Ưu Bà Già. Sau khi đảnh lễ cúng dường, nhà vua quán niệm rằng, đối với người đã chứng quả thánh rồi thì ta không nên để tâm đến chỗ xuất thân ngày xưa của họ. Quán niệm như vậy xong nhà vua liền tự mình đến đảnh lễ Hằng Già Ba La; và sau đó lại khuyến khích các quan viên tùy tùng cùng đến đảnh lễ Hằng Già Ba La”.
Và Phật kết luận: “Người được gọi là Ưu Bà Gì trong câu chuyện chính là tiền thân của Như Lai; còn người thợ cạo Hằng Già Ba La kia chính là Ưu Ba Li ngày nay”.
Hằng Già Ba La tuy xuất thân ở làng hạ tiện, nhưng do uy lực của Phật pháp mà ông được quốc vương tôn kính, lễ bái. Câu chuyện trên tuy là một câu chuyện cổ của thời quá khứ xa xưa, nhưng nó cho chúng ta thấy rằng, bản chất của Phật pháp quả là không thời nào thay đổi. Trong Phật pháp, nơi xuất thân của mọi người không được đặt thành vấn đề; bất cứ ai đạt được quả vị giác ngộ thì đều được mọi người tôn kính. Không có sự phân biệt giai cấp nào trong đạo quả giác ngộ. Câu chuyện trên còn cho chúng ta hấy rõ hai sự việc quan trọng: Thứ nhất, người ham mê quyền lực thì rất dễ sinh tâm giết hại người khác – ngay như Phật, trong những tiền kiếp tu nhân, vẫn không tránh khỏi lỗi lầm đó; thứ nhì, tôn giả Ưu Ba Li vốn xuất thân từ hàng tiện dân, nhưng đã tu tập và chứng quả, trở thành một trong những vị thượng thủ của giáo đoàn, việc đó không phải là lần đầu tiên xảy ra, nhưng trong những tiền kiếp tu nhân, tôn giả cũng đã từng như thế. Cho nên, khi Phật kể câu chuyện ấy xong thì những mối nghi hoặc trong đại chúng về Ưu Ba Li đều được giải tỏa.
5.- NHỮNG CẢNH NGỘ OÁI ĂM TRÊN ĐƯỜNG HÀNH HÓA:
Sau khi chứng ngộ, với cá tính cẩn trọng cố hữu, Ưu Ba Li càng giữ gìn nghiêm mật tất cả những giới điều Phật đã chế ra, mọi cử chỉ hành vi trong các sinh hoạt đi đứng nằm ngồi hằng ngày đều theo đúng oai nghi tế hạnh. Bởi vậy, chẳng bao lâu tôn giả đã được đại chúng tôn xưng là vị thượng thủ giữ gìn giới luật bậc nhất của giáo đoàn. Những ai có tâm tu hành chân chính đều tỏ lòng hoan hỉ và cung kính đối với tôn giả. Tuy nhiên, trong giáo đoàn vẫn có những vị sống buông thả, không theo qui củ, không giữ gìn giới hạnh, cho nên không thích gần những người chuyên tâm giữ giới như tôn giả. Đó cũng là lẽ đương nhiên. Những người này đã không có thiện cảm với tôn giả, lại đôi khi còn nói những điều không tốt cho tôn giả!
Một vị tì kheo có giới hạnh, khi lưu trú tại tu viện thì được những người ngưỡng mộ đến tận cửa cúng dường; nhưng khi vị ấy đi du phương hành hóa thì không chắc chắn là sẽ được mọi giới tăng cũng như tục hoan nghênh. Một lần nọ, tôn giả và một nhóm quí vị tì kheo có giới hạnh khác cùng lên đường đi các nơi hằng hóa. Để phát huy tinh thần tuân thủ giới luật, họ thường cử hành đúng đắn các phép yết ma sám hối như yết ma quở trách, yết ma tẩn xuất, yết ma y chỉ v.v… Nhưng có một số vị tì kheo nghe tin Ưu Ba Li sắp đến thì trong lòng không thích. Họ cùng nhau bàn bạc. Một vị nói:
- Khi lão tì kheo Ưu Ba Li đến đây thì chỉ có việc là bắt chúng ta phải làm như thế này, không được làm như thế kia, sẽ làm chúng ta bực mình lắm. Chi bằng hãy tìm cách ngăn chận, không để cho lão ta đến thì hơn.
Một vị khác đề nghị:
- Khi nào lão ấy đến, chúng ta hãy đóng chặt cửa ngõ lại, lấy ngọa cụ treo ngoài cửa, đừng ngó ngàng gì tới lão.
- Hay là, khi nào lão ấy tới thì chúng ta bỏ đi nơi khác quách!
Tôn giả đã vài lần gặp phải hoàn cảnh như vậy, cho nên cũng có lúc nghĩ lại, không muốn đi du phương bố giáo nữa; nhưng Phật thì vẫn khuyến khích tôn giả hoài.
Rồi một lần, một vị tì kheo tên là Du Lan Nan Đà, bỗng nhiên đến mắng ngay mặt tôn giả:
- Ông không phải là người chân tu! Sao ông cứ hay gây sóng gió quá vậy! Lúc nào cũng theo bên Phật để bày vẽ nhiều chuyện nọ kia, khi thì “đây là hai bộ tăng phải giữ gìn, kia là một bộ tăng phải giữ gìn”; lúc thì “điều này nên làm, điều kia không nên làm”, làm cho cuộc sống của chúng tôi càng thêm phiền phức, khó khăn!
Gặp những trường hợp như vậy, tôn giả chỉ biết nhẫn nhục mà không hề đối đáp lại. Những người có lòng tin chân chính và có tâm thành giữ giới thì luôn luôn tôn kính tôn giả; trái lại, những người tu hành không chân thật thì không ưa tôn giả. Bởi vậy, Phật lúc nào cũng rất quan tâm đến tôn giả. Có lần Phật hỏi thăm một vị tì kheo vừa đi hoằng hóa ở phương xa mới về:
- Thầy có trông thấy Ưu Ba Li không?
- Bạch Thế Tôn! Con có thấy sư huynh Ưu Ba Li đang đi các nơi để hoằng hóa.
- Tại các nơi ấy, Ưu Ba Li có được mọi người cung kính cúng dường không?
- Bạch Thế Tôn! Con thấy ở một vài nơi người đối với sư huynh con không được nhiệt tình lắm. Các tín đồ tại gia thì chưa từng biết sư huynh con là người giữ gìn giới hạnh nghiêm túc, còn chư vị xuất gia thì không muốn thấy mặt sư huynh con; thậm chí một số vị trong hàng ni chúng còn oán hận và mắng mỏ sư huynh con.
Phật lo ngại hỏi:
- Vì sao thế nhỉ?
Vị tì kheo cứ tình thực trả lời:
- Tại vì khọ cảm thấy, sinh hoạt chung với một vị giữ giới quá nghiêm túc thì không thoải mái tí nào!
Phật nghe thấy thế thì không vui, liền cho triệu tập đại chúng để giảng giải về sự tôn quí của giới luật. Phật dạy, người nghiêm trì giới luật giống như ngọn đèn sáng tỏ; ai có phẩm hạnh đoan trang, thân tâm thanh tịnh thì đều thích ở chỗ sáng sủa, còn ai có điều gì ám muội thì rất sợ ánh sáng mà chỉ thích nơi tối tăm.
Phật cũng cho mời quí vị tì kheo và tì kheo ni đã từng đối xử không tốt với Ưu Ba Li đến, và hỏi họ:
- Quí vị đã từng không chịu đón tiếp, muốn lánh mặt, thậm chí còn oán hận mắng mỏ đại đức Ưu Ba Li phải không?
Trước mặt Phật, họ không dám chối cãi, đành phải thú thật:
- Bạch Thế Tôn! Thật có như vậy. Chúng con đã từng cư xử vô lễ như thế đối với sư huynh của chúng con.
Phật nghiêm khắc quở trách:
- Quí vị như thế là thiếu hiểu biết. Nếu không kính trọng những vị tì kheo giữ giới thì kính trọng ai! Giới luật chính là bậc thầy cao cả của quí vị. Giới luật còn được tôn trọng thì Phật pháp còn trụ thế. Nếu quí vị không tôn kính những vị giữ giới, thì điều đó chỉ chứng tỏ rằng quí vị đang ấp ủ những ý tưởng sai traí đối với giáo pháp mà thôi.
Để bảo vệ một vị tì kheo giữ giới như Ưu Ba Li mà Phật phải khiển trách quí vị tì kheo và tì kheo ni kia một cách nặng nề như vậy, thì chúng ta thất đối với Phật, Ưu Ba Li có địa vị trọng yếu biết chừng nào!
6.- SỨ MẠNG HÒA GIẢI:
Trong tăng đoàn, người tu hành chứng quả cũng đông, mà kẻ buông lung phạm giới cũng không phải là ít. Những vị tì kheo như Ca Lưu Đà Di, Đề Bà, v.v… và những vị tì kheo ni như Tu Ma, Bà Phả, Du Lan Nan Đà v.v… đều rất thường phạm giới, Những hành vi và tai tiếng không tốt của họ đã gây cho Phật nhiều ưu phiền. Bởi vậy, Phật hay nhắc nhở đại chúng hãy lấy cái hạnh giữ giới của tôn giả Ưu Ba Li làm mẫu mực hành trì.
Tăng đoàn vốn thanh tịnh và hòa hợp. Nhưng cũng có một số vị tính tình xấu xa khó mà sửa đổi, hay tranh chấp phải trái, không nhường nhịn nhau, vừa ảnh hưởng không tốt đến sự tu hành của đại chúng, vừa làm mất danh dự của tăng đoàn. Mỗi khi có sự tranh chấp giữa các vị tì kheo ở tại một địa phương nào. Phật đều phái một vị thượng thủ đến để hòa giải. Vị được phái đi, không những là bậc đạo cao đức trọng, mà còn có khả năng xét đoán phải trái để cho sự dàn xếp lúc nào cũng được công minh. Và hầu hết các công việc hòa giải này, Phật đều giao cho Ưu Ba Li đảm trách – điển hình là những vụ tranh cãi ở các xứ Câu Diễm Di, Sa Kì v.v… Tôn giả đã trở thành một sứ giả của hòa giải, giống như nắng ấm mùa xuân, ánh sáng chiếu đến đâu thì băng tuyết tiêu tan đến đấy.
Tôn giả luôn theo hầu bên Phật, nên rất thường ở tại Xá Vệ. Tăng chúng ở thành Xá Vệ rất hòa hợp, tại vì họ thường được kề cận bên Phật, một thầy một đạo, như nước hòa với sữa, ít khi có sự gì không vui xảy ra.
Tôn giả lại rất hiểu tâm ý của Phật. Mỗi khi vâng mệnh Phật đi giải quyết những tranh chấp, tôn giả đều thi hành theo một nguyên tắc: “Tranh chấp ở đâu thì chấm dứt ngay ở đó”. Theo nguyên tắc này, tôn giả không bao giờ đem người và sự việc tranh chấp ở chỗ này đi nói ở chỗ khác. Chuyện thị phi xảy ra ở đâu thì giải quyết ngay ở đó. Tôn giả cũng không bao giờ để cho các cuộc tranh chấp trở nên ồn ào, lớn rộng; khi những tranh chấp đã được chấm dứt thì các vết tích cũng nhất định không còn.
Nhưng có một lần nọ, đang trong mùa an cư, Phật sai tôn giả sang xứ Sa Kì để giúp giải quyết một vụ tranh chấp. Tôn giả đã từ thác không đi. Phật hỏi:
- Vì sao thầy không đi?
Tôn giả cảm thấy rằng, việc tranh chấp lần này, nếu Phật không thân hành đi giải quyết thì không thể chấm dứt được; nhưng tôn giả cũng không tiện thưa thẳng với Phật điều đó, đành cứ quanh co thoái thác:
- Bạch Thế Tôn! Chiếc y của con quá nặng, nếu giữa đường bị mưa ướt thì khó mà khô được; còn nếu mang theo thêm một chiếc nữa để phòng hờ thì lại không hợp với giới pháp, vì đang trong mùa an cư. Xin Thế Tôn từ bi, miễn cho con khỏi đi lần này!
Nghe vậy, Phật chỉ muốn tôn giả đi điều tra sự việc trước mà thôi, nên hỏi:
- Thầy chỉ đi vài ngày rồi trở về được không?
- Bạch Thế Tôn! Nếu quả thực con không đi không được, vì từ thành Xá Vệ đến Sa Kì phải mất hai ngày, ở lại đó hai ngày, và trở về hai ngày nữa, cả thảy phải mất sáu ngày con mới về đến đây.
Phật gật đầu bảo:
- Từ nay về sau, trong mùa an cư, tăng chúng được phép giữ trong người hai chiếc y trong thời gian sáu ngày, không phạm luật.
Vì muốn nhờ Ưu Ba Li đi điều tra việc tranh chấp mà Phật cho phép sửa đổi một giới điều đã ban hành. Đó chẳng phải là đem giới pháp chiều người, nhưng vì tôn giả là người vô cùng trọng yếu về mặt giới pháp. Phật phái tôn giả đi điều tra cuộc tranh chấp, lại còn thi hành phép yết ma sám hối đối với những vị tì kheo hay gây ra các cuộc tranh chấp. Trước khi làm phép yết ma, tôn giả trịnh trọng tuyên bố:
- Thưa chư vị đại đức! Vâng từ mệnh của đức Thế Tôn, tôi đến đây để làm các phép yết ma, trục xuất quí vị hay gây ra các cuộc tranh cãi trong đại chúng. Đến lúc đó, xin quí vị đừng buồn phiền và cũng không nên oán hận tôi.
Một số quí vị tì kheo khi nghe giọng nói đầy quyền uy của tôn giả thì không dám ở lại đó nữa. Thà đi nơi khác chứ không dám ở đó cãi nhau, cũng không dám để cho vị chấp pháp uy nghiêm như núi kia làm phép yết ma. Nhân đó, cả một cuộc tranh cãi gay go, lớn lao trước đó, giờ liền tan biến, không còn gì nữa. Tôn giả đúng là một sứ giả của hòa bình, thật khéo léo trong việc chấm dứt các cuộc tranh chấp.
7.- HỎI GIỚI PHÁP NƠI PHẬT:
Tôn giả Ưu Ba Li có địa vị trọng yếu trong tăng đoàn, lại được tôn xưng là người giữ gìn giới luật bậc nhất, là vì đối với những sự việc có liên quan đến giới luật, tôn giả thường hay trực tiếp gặp Phật để thỉnh ý và bàn thảo. Điều đó chúng ta có thể thấy ở phần “Luật Bộ” trong Kinh Tạng. Nhưng vì những sự kiện này đã được ghi lại một cách rải rác, hoặc giả chúng chỉ là những giới điều khô khan, khó có thể dùng thể truyện để diễn tả, nên ở đây chúng tôi chỉ xin nhặt ra một hai sự việc để thuật lại, để từ đó có thể suy những sự việc khác.
Luật pháp của vương tộc Thích Ca ở thành Ca Tì La Vệ có qui định rằng, con gái của dòng họ Thích Ca không được lấy chồng người ngoại tộc; nếu ai phạm luật này, sẽ bị trị tội rất nặng. Lúc bấy giờ, có một phụ nữ thuộc dòng họ Thích Ca, tên là Hắc Li Xa, vô cùng xinh đẹp, đang lúc tuổi còn son trẻ mà chẳng may chồng lại chết sớm, vì không chịu nổi cảnh cô đơn, nên gặp lúc có chàng thanh niên ngoại tộc, đến tỏ tình thì nàng đáp ứng ngay. Nhưng oái ăm thay cùng lúc ấy ông em chồng của ngàng cũng muốn lấy nàng làm vợ, nên ra mặt cản trở. Phần thì ông em chồng phẩm hạnh không tốt, phần thì nàng đang có niềm vui mới, nên nàng nhất định cự tuyệt ông em chồng. Ông này căm tức vô cùng, bèn thề rằng: “Người đã tư tình thì nhất định ta phải giết chết ngươi!” Ông ta bèn bỏ thuốc mê vào rượu, nàng uống rồi thì hôn mê bất tỉnh. Ông đánh đập nàng thương tích khắp mình, rồi lên quan tố cáo:
- Cô này là vợ tôi, và nàng đã tư thông với thanh niên ngoại tộc.
Khi Hắc Li Xa tỉnh dậy biết rõ sự việc thì nghĩ rằng, dù mình có miệng cũng khó biện bạch, với tội danh này thì nhất định phải bị xử tử! Thừa lúc mọi người không phòng bị, nàng liền bỏ trốn, chạy một mạch thẳng đến thành Xá Vệ tìm vào ni viện xin xuất gia. Triều đình Ca Tì La Vệ cho người đi khắp nơi truy nã Hắc Li Xa nhưng không thấy nàng đâu cả. Mãi về sau mơí có tin thám tử báo về rằng, Hắc Li Xa đã trốn thoát sang thành Xá Vệ. Được tin này, triều đình Ca Tì La Vệ gửi công hàm cho vua Ba Tư Nặc nói rằng:
- Tệ quốc có nữ tội nhân tên là Hắc Li Xa. Y thị phạm quốc pháp rồi chạy trốn ra khỏi nước. Tệ quốc vừa được tin cho biết, hiện y thị đang lẫn trốn tại quí quốc. Vậy xin quí quốc giao nữ tội phạm Hắc Li Xa lại cho tệ quốc. Sau này, nếu quí quốc có tội phạm chạy trốn sang tệ quốc thì tệ quốc cũng sẽ xin bắt tội phạm ấy giao nạp lại cho quí quốc để xử trị.
Vua Ba Tư Nặc đọc xong công hàm, xoay sang hỏi tả hữu:
- Có thật Hắc Li Xa đã đào thoát sang nước ta sao?
- Bẩm đại vưong! Quả thật Hắc Li Xa có đào thoát sang nước ta, nhưng hiện thời đã vào ni viện xin xuất gia. Trước đây đại vương đã ra lệnh, nếu ai xúc phạm đến quí vị tăng ni thì sẽ bị trọng tội. Hiện giờ bà ấy đã xuất gia thì dù là ai cũng đâu dám xúc phạm. Vậy xin đại vương cho chỉ thị, chúng thần phải làm thế nào?
Sau khi suy nghĩ cặn kẽ, vua Ba Tư Nặc gửi công hàm sang Ca Ti La Vệ phúc đáp:
- Hắc Li Xa quả thật có đào thoát sang tệ quốc, nhưng bà ấy đã vào ni viện xuất gia, nên hiện tại tệ quốc không thể truy tội, còn tất cả những trường hợp khác thì tệ quốc sẽ xin thực hành đúng như lời của quí quốc.
Triều đình Ca Tì La Vệ tiếp được công hàm thì rất lấy làm bất bình. Họ cho rằng, một người đàn bà phạm phép nước như thế mà chẳng có cách nào để chế tài; vậy thì về sau luật pháp còn dùng vào đâu được nữa!
Vì một nữ tội phạm đi xuất gia mà khiến cho hai vương quốc hiềm khích nhau. Ưu Ba Li biết được sự việc, liền đến thỉnh ý Phật:
- Bạch Thế Tôn! Người đã phạm quốc pháp, tăng đoàn có nên thâu nhận họ xuất gia không?
Phật dạy:
- Này Ưu Ba Li! Quốc pháp hợp lí hay không hợp lí là việc của triều đình và nhân dân của nước đó, nhưng một người đã phạm quốc pháp, nếu tòa án chưa phán quyết là vô tội, thì tăng đoàn không được thâu nhận cho họ xuất gia!
Sau đó Phật đã quở trách vị ni sư đã thâu nhận Hắc Li Xa xuất gia. Điều đó không có nghĩa là Phật thiếu từ bi, không cứu giúp người có tội; nhưng bởi vì, tăng đoàn vốn là nơi thanh tịnh, người phạm giới luật còn phải bị tẩn xuất; huống chi người phạm quốc pháp thì phải chịu quốc pháp chế tài. Phật pháp không thể bao che cho người phạm pháp. Vì để kiện toàn tăng đoàn, và cũng vì để cho khỏi có sự chống chọi nhau giữa giới pháp và quốc pháp mà tôn giả Ưu Ba Li và Phật có cuộc hội đàm như trên.
Một lần khác, tôn giả đã trình lên Phật một vấn đề thú vị như sau:
- Bạch Thế Tôn! Tì kheo và tì kheo ni có thể vì xã hội mà đứng ra làm mai mối cho trai gái lập gia đình không?
Phật dạy:
- Này Ưu Ba Li! Nếu tì kheo hoặc tì kheo ni đem ý tứ của đàng trai sang nói cho bên đàng gái, đem ý tứ của đàng gái sang nói cho bên đàng trai, cho đến giới thiệu hai bên gặp nhau một lần, đều là phạm giới, nhất định phải sám hối.
- Vậy thì, bạch Thế Tôn! đối với hôn lễ của các tín đồ tại gia, tăng đoàn nên có thái độ như thế nào mới đúng cách?
- Không nên lo toan thái quá! Nếu hôn sự là hợp pháp thì cần tổ chức hôn lễ ở trước Tam Bảo đề cầu Phật Pháp Tăng chứng minh cho là đủ.
Ý nghĩa đích thực của GIỚI là phòng ngừa việc quấy và ngăn chận việc xấu. Theo ý nghĩa đó thì GIỚI đúng là khuôn mẫu cho việc tu chỉnh thân tâm. Sự quan hệ nam nữ rất dễ gây rắc rối, làm cho thân tâm mang nhiều nỗi buồn phiền bất an. Bởi vậy, vị tôn giả “trì giới bậc nhất” Ưu Ba Li kia, trong những lúc thỉnh thị thánh ý của Phật về giới luật, phần lớn là nhắm tới việc hạn chế sự quan hệ giữa nam và nữ.
8.- PHÉP TẮC THĂM HỎI BỆNH NHÂN:
Nên thăm hỏi người bệnh như thế nào? Ưu Ba Li đã từng nêu vấn đề này lên để thỉnh  ý Phật. Về phía người bệnh dù đang trong lúc mang bệnh, cũng phải như thế nào mới đúng giới pháp? Về phía người thăm bệnh, khi thăm bệnh cũng phải như thế nào mới đúng giới pháp? Đó là những vấn đề mà tôn giả rất quan tâm.
Có một lần, nhân đi theo sau Phật tôn giả trông thấy một vị tì kheo bị bệnh đang nằm  ở nơi dơ dáy mà không thể đứng dậy được. Tôn giả cũng biết được có trường hợp một vị tì kheo bị bệnh nằm ở bên đường, một vị tì kheo khác đi ngang trông thấy, nhưng vì Phật chưa chế giới điều nào về việc chăm sóc bệnh, nên vị tì kheo ấy chỉ đi một vòng quanh bệnh nhân rồi bỏ đi, chứ không chăm sóc gì cả. Lại có một vị tì kheo bị bệnh khác, lấy có rằng bị bệnh thì không cần phải giữ giới, nên cứ tự tiện sống theo ý riêng của mình. Vì có những sự việc đã xảy ra như vậy, nên tôn giả đem ra thỉnh ý Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu có một vị tì kheo cao đức bị bệnh thì chúng con nên đến thăm hỏi và chăm sóc như thế nào?
Phật dạy:
- Này Ưu Ba Li! Khi vó một vị tì kheo cao đức bị bệnh thì không nên để vị ấy nằm ở trong phòng nhỏ chật hẹp, mà phải để nằm nơi phòng ở dãy trước, rộng rãi, thoáng khí, sáng sủa. Các đệ tử của đại đức ấy phải quét dọn phòng sạch sẽ, cắm hoa, đốt hương, và lúc nào cũng túc trực hầu cận một bên để cho thầy sai việc. Nếu có các vị tì kheo khác tới thăm hỏi thì nên đem trà nước hoa quả ra mời. Nếu được hỏi han thì người bệnh nên trả lời; nếu vì sức yếu quá không trả lời được thì vị thị giả phải trả lời thay. Những vị đến thăm thì phải tùy theo tình trạng người bệnh mà an ủi. Nói pháp, và làm bất cứ việc gì để giúp đỡ cho người bệnh, kể cả việc cung cấp các nhu cầu thiết yếu như cơm nước, thuốc thang. Nếu có các Phật tử tại gia đến thăm bệnh thì mời họ ngồi, và nhân tiện nói pháp cho họ nghe; nếu họ có cúng dường thì nên niệm Phật và chú nguyện cho họ. Lúc nào người bệnh muốn đi tiêu, đi tiểu thì tất cả mọi người đến thăm bệnh phải ra khỏi phòng ngay; trong phòng người bệnh đã có thị giả phục dịch, nhưng ở ngoài cửa cũng nên có một người nữa để trông chừng, phòng có kẻ đột nhập vào. Này Ưu Ba Li, nếu có vị tì kheo cao đức nào bị bệnh thì nên theo cách thức đó mà thăm hỏi và chăm sóc.
- Bạch Thế Tôn! Nếu có một tì kheo kém đức bị bệnh thì chúng con nên thăm hỏi và chăm sóc như thế nào?
- Này Ưu Ba Li! Khi một tì kheo kém đức bị bệnh thì nên để vị ấy nằm ở nơi kín đáo hơn, không để cho mùi hôi hám bay tỏa ra ngoài. Thầy hoặc đệ tử của vị ấy phải lo chăm sóc. Nếu vị ấy không có thầy và đệ tử thì nên cắt cử từ một đến ba vị trong chúng để chăm sóc. Những nhu cầu thiết yếu của người bệnh như cơm nước thuốc thang thì những vị nuôi bệnh này phải cung cấp. Nếu những vị này không có thì đại chúng phải cung cấp. Nếu đại chúng cũng không có thì nên lấy những vật gì có giá trị của người bệnh như y bát v.v… đem đổi lấy lấy cơm nước thuốc thang. Nếu người bệnh tiếc của không cho lấy thì phải trình lên vị trưởng lão quản chúng để dùng lời lẽ khéo léo thuyết phục, người bệnh bằng lòng thì mới đem đổi được. Nếu cũng không được nữa thì đại chúng nên đi xin để nuôi bệnh. Nếu xin không có thì nên lấy những thức ngon trong đồ ăn của tăng chúng để nuôi bệnh. Nếu trong chúng không có thức ăn ngon thì người nuôi bệnh phải mang hai bình bát đi vào trong xóm khất thực, rồi chọn bát nào có thức ăn ngon thì đem cho người bệnh. Này Ưu Ba Li, phải theo cách thức đó mà chăm sóc cho một tì kheo kém đức.
Quan tâm đến bệnh hoạn của tăng chúng, tôn giả đã thỉnh ý Phật để có được những qui định rõ ràng không những về việc chăm sóc, mà cả đến việc xử lí các di vật của người bệnh để lại trong trường hợp vị này viên tịch. Sự lưu tâm thật cẩn thận và tỉ mỉ như thế của Ưu Ba Li đối với người bệnh, đã làm sáng tỏ lòng từ bi, vị tha cũng như tinh thần giữ  giới nghiêm cẩn của tôn giả.
Người xuất gia đã cắt đứt mọi sự ràng buộc của gia đình, thân tộc, xa lìa làng xóm để hoàn toàn sống vói tăng đoàn, mà gặp những lúc bệnh hoạn, nếu không có người chăm sóc thì thật là khổ sở. Nhưng từ khi Ưu Ba Li đặt vấn đề trình lên Phật thì không còn sự khổ sở đó nữa. Việc chăm sóc người bệnh đã được liệt vào một trong tám thứ ruộng phước (tức là tám đối tượng mà người tu hành nên cung kính cúng dường để tạo phước báo: chư Phật, các bậc thánh nhân, bổn sư truyền giới, quí vị thọ dạy cho oai nghi tế hạnh trong lễ thọ giới, chư tăng, cha, mẹ, và người bệnh hoạn.- Chú thích của người dịch) của người tu học. Thầy, sư huynh, sư đệ, và đệ tử của người bệnh đều có thể chăm sóc cho người bệnh. Sau cuộc pháp đàm này giữa Phật và Ưu Ba Li thì vấn đề bệnh hoạn trong tăng đoàn rất được mọi người để ý đến.
9.- HÒA HỢP TĂNG VÀ PHÁ HÒA HỢP TĂNG:
Trên lập trường tuân thủ giới luật, ngoài những vấn đề liên quan đến pháp chế, nam nữ, bệnh hoạn, tôn giả Ưu Ba Li còn đặc biệt quan tâm đến vấn đề hòa hợp và phá hòa hợp tăng. Dù tăng đoàn sống trong tinh thần “Sáu phép hòa kính”, nhưng quan trọng là phải cùng giữ gìn giới thì mới sống chung được. Cho nên đối với một vị tì kheo giữ giới thì hòa hợp tăng là vấn đề được quan tâm hàng đầu.
Một ngày nọ, lúc Phật ngự tại thành Xá Vệ, nhân để ý đến sự đoàn kết trong tăng đoàn, Ưu Ba Li đã đến trước Phật, đảnh lễ và bạch:
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là phá hòa hợp tăng?
- Này Ưu Ba Li! Nếu một vị tì kheo hiểu rõ đạo lí, giữ giới luật, sống đúng như giáo pháp, thì các đệ tử của vị ấy, bất luận là xuất gia hay tại gia, đều phải cung kính, lễ bái và tu học theo sụ dạy bảo của vị ấy. Nếu có người tỏ ra khinh thị, chê cười, chế nhạo, hủy báng, đó là phá hòa hợp tăng. Nếu các tín đồ tại gia đối với tăng chúng xuất gia khởi sinh vọng tưởng phân biệt nhân ngã, hoặc khêu gợi hiềm khích để gây chia rẽ, hoặc tạo ra những chuyện rắc rối làm cho náo loạn, đó là phá hòa hợp tăng. Nếu các quan quân chính quyền dùng quyền lực để can thiệp vào nội bộ các tự viện, li gián tăng ni, đó là phá hòa hợp tăng.
- Bạch Thế Tôn! Phá hòa hợp tăng thì phạm tội như thế nào?
- Ưu Ba Li! Nếu phạm tội phá hòa hợp tăng, phải bị đọa địa ngục, chịu khổ trong một kiếp.
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là hòa hợp tăng?
- Ưu Ba Li! Kính trọng, lễ bái, tu học theo các vị tì kheo sống đúng như giới luật, như giáo pháp, cũng như phát tâm ủng hộ, khen ngợi và xây dựng sự hòa kính cho tăng chúng, đó là hòa hợp tăng.
- Bạch Thế Tôn! Hòa hợp tăng thì công đức gì?
- Ưu Ba Li! Nếu hòa hợp tăng thì được sinh lên cõi trời, hưởng thọ sung sướng trong một kiếp.
Đối với công và tội của sự hòa hợp tăng và phá hòa hợp tăng, tôn giả không phải là không biết, nhưng ở đây, ý của tôn giả là muốn gợi vấn đề lên để xin Phật đích thân nói, cốt làm tăng tầm quan trọng cho sự việc. Tôn giả đúng là một mẫu người khiêm cung, giữ phép và hiểu biết. Thái độ đó, tác phong đó của tôn giả thật đáng chúng ta kính yêu!
10.- KẾT TẬP TẠNG LUẬT:
Bình nhật, tôn giả là người có đủ khả năng đức độ và uy tín để giải quyết các việc rắc rối trong tăng đoàn, làm phép yết ma sám hối cho các tì kheo phạm giới, cũng như cùng với Phật bàn thảo về những chỗ vi tế của giới luật, và dần dần nghiễm nhiên trở thành một vị có thanh danh trong tăng đoàn; riêng về phương diện giới luật thì tôn giả lại là người có uy thế lớn nhất. Phật khen ngợi tôn giả là vị có giới hạnh nghiêm túc nhất, đại chúng cũng công nhận tôn giả là vị giữ giới bậc nhất. Những vị tì kheo và tì kheo ni không hiểu rõ giới luật, muốn đến hỏi Phật, nhưng sợ phiền phức thì đều đến hỏi tôn giả. Tôn giả như là chuông đại đồng, thường ngày tuy không hay phát biểu, luận bàn, nhưng mỗi khi chuông được thỉnh lên thì âm thanh phát ra vang vọng khắp chốn đều nghe.
Giới luật là vì tăng đoàn mà thiết chế, hơn nữa, vì là một vị giữ giới nghiêm túc, nên trong cuộc đời của Ưu Ba Li, tôn giả không bao giờ xa rời tăng đoàn, ít tới lui với người thế tục, cũng không hề có một hoạt động nào nhằm vào quần chúng, xã hội. Cho nên khi ghi lại những sự việc liên quan đến cuộc đời của tôn giả, chúng tôi chỉ có thể ghi được những sự kiện ở trong tăng đoàn mà thôi.
Khi Phật nhập diệt thì tôn giả khoảng hơn bảy mươi tuổi. (Trong tiết 2, “Cạo Tóc Cho Phật”, ở trên, tác giả nói, khi Phật về thăm Ca Tì La Vệ lần đầu tiên sau ngày thành đạo thì tôn giả Ưu Ba Li khoảng 20 tuổi. Lúc đó Phật đã 38 tuổi. Vậy khi Phật nhập diệt thì tôn giả chỉ khoảng hơn 60 tuổi thôi, chứ không phải hơn 70 tuổi như tác giả nói ở đây. – Chú thích của người dịch). Khi các vị đệ tử lớn của Phật vân tập tại hang núi Kì Xà Quật (về địa danh này, xin xem lại “chú thích của người dịch” ở trang 288 – người dịch) để kết tập kinh điển – do tôn giả Đại Ca Diếp làm thượng thủ – thì tôn giả A Nan được đại chúng suy cử kết tập tạng Kinh và chính tôn giả đã được suy cử kết tập tạng Luật; nhưng khi vừa được suy cử thì tôn giả liền khiêm tốn khước từ:
- Đây là trách nhiệm quá lớn lao, tôi không dám nhận lãnh. Xin đại chúng suy cử một vị trưởng lão khác.
Tôn giả Đại Ca Diếp quyết ủng hộ tôn giả, nên nói ngay:
- Đại đức Ưu Ba Li, xin đừng từ chối! Hôm nay tuy có đông đủ năm trăm vị tì kheo đều thuộc hàng trưởng lão, nhưng ngay từ đầu đức Thế Tôn đã kí thác cho đại đức thành tựu mười bốn pháp. Vậy trừ đức Thế Tôn ra, tăng đoàn đã từng công nhận đại đức là người giữ giới bậc nhất, cho nên  trong pháp hội hôm nay, chính đại đức là người duy nhất có thẩm quyền để đọc tụng tạng Luật mà thôi!
Nghe vậy, tôn giả không còn từ chối được nữa. Trước hết tôn giả đưa ra một số nguyên tắc, và sau khi được toàn thể đại chúng chấp thuận, tôn giả bắt đầu đọc tụng tạng Luật. Trong khi đọc tụng, đối với mỗi điều giới, tôn giả đều nói rõ thời gian, địa điểm, đối tượng và nguyên do chế giới. Tôn giả cũng đề cập đến sự phạm giới, đến mức độ nào thì có tội hoặc trở nên vô tội. Với những điều ghi nhớ thật chi tiết, tỉ mỉ như thế, tôn giả đã làm cho toàn thể đại chúng vô cùng bội phục và tin tưởng.
Một người xuất thân từ dòng giống hạ tiện, nhưng đã được địa vị cao cả trong tăng đoàn, cuối cùng lại còn là người chủ trì tạng Luật trong cuộc kết tập thánh điển, đó không phải là điều ngẫu nhiên! Tôn giả Ưu Ba Li thật xứng đáng được thế nhân kính ngưỡng, là tấm gương cho các dân tộc đau khổ hướng lên để thêm mạnh lòng tin, và làm cho ánh sáng bình đẳng của Phật pháp chiếu rọi khắp cả chúng sinh, muôn đời không dứt.
Tôn Giả Phú Lâu Na 
Purana – Thuyết Pháp Ðệ Nhất
Thế gian có câu: Muốn bắt cọp hãy vào hang cọp. Muốn vào hang cọp phải cần có can đảm, không can đảm không thể nào bắt được cọp; người chiến sĩ muốn thắng kẻ thù cần phải can đảm xông pha ở chiến trường. Cũng thế, người hành đạo phải can đảm chịu mọi thử thách. Có can đảm thắng lướt mọi gian lao mới thành tựu được sự nghiệp đời hoặc đạo. Trong số 10 vị đại đệ tử của Phật, Phú Lâu Na trở thành một vị thuyết pháp đệ nhất nhờ đức can đảm, đi bất cứ nơi đâu kể cả xứ bạo ngược nhất. Còn kể vào thứ bậc trong giáo đoàn, Phú Lâu Na được xếp vào hàng thứ ba trong Thánh chúng, sau Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên.
Dòng Họ và Danh Hiệu của Phú Lâu Na
Ở Ấn Ðộ, dòng họ Phú Lâu Na có danh tiếng và giàu có, Phú Lâu Na rất được cha mẹ thương yêu. Tôn giả có khuôn mặt tròn đầy, mắt chan chứa vẻ từ hòa, người độ lượng khoan dung, nhưng rất can đảm. Như bao nhiêu người khác ở Ấn Ðộ, người con được gọi bằng tên mẹ. Theo tiếng Phạn gọi cho đủ là Phú Lâu Na Di Ða La Ni Tử, gọi tắt là Phú Lâu Na (Puràna), Trung Hoa dịch là Mãn Từ Tử tức là con của bà Mãn Từ. Danh hiệu của Tôn giả biểu hiện một con người có hoài bão vô tận, có lòng từ vô tận như non cao, núi rộng, sông dài. Về sau khi đã xuất gia đi du hóa, giáo pháp mà Tôn giả tuyên thuyết cũng trường mãn vô cùng.
Ðạo Nghiệp của Phú Lâu Na
Phú Lâu Na được Ðức Phật thọ ký
Ngoài đức tính từ hòa do truyền thống dòng họ hun đúc, NgàI còn có tàI hùng biện. Với tàI năng sẳn có Ngài đã giúp Phật truyền bá chánh pháp khắp nơi và được mọi tầng lớp dân chúng hoan nghênh nhiệt liệt. Tại nước Kiều Tát Di, Tôn giả đã thuyết phục chúng Tỳ kheo ẩn cư đi bố giáo. Trong chúng hội có Tỳ kheo làm việc tà, Tôn giả đã sử dụng ngôn ngữ xảo diệu để cản ngăn. Tại núi Kỳ Xà Quật trong cuộc kiết tập kinh điển về phần Luật tạng Ngài Ma Ha Ca Diếp đem 8 pháp ẩm thực ra yêu cầu các Tỳ kheo phải giữ. Theo Phật trong hoàn cảnh đặc biệt tỳ kheo có thể có 8 điều tùy nghi không bị ngăn cấm:
·         Chứa thức ăn trong phòng, nấu nước trong tự viện, tự nấu, tự lấy thức ăn, từ chỗ khác đem thức ăn về, ăn các thứ tráI cây, ăn những thực vật sản xuất từ hồ ao và không ăn cá thịt.
Phú Lâu Na đã đứng về phe tự do, nên đã chống 8 việc mà Ca Diếp cấm các Tỳ kheo. Ðiểm đặc biệt mà Ngài đã trội hơn các đệ tử khác là tinh thần bố giáo cao độ, Tôn giả không những thường xuyên đi bố giáo mà cả những nơi xa xôi hẻo lánh, dân tình bạo ngược, Tôn giả đều can đảm xung phong. Bởi thế Tôn giả được tôn xưng là vị Thuyết pháp Ðệ Nhất.
Thấy Tôn giả có đức từ ái, tín tâm thâm hậu, hùng biện xảo diệu và bố giáo cao độ, Ðức Phật đã hết lời tán dương và thọ ký cho Ngài trong tương lai sẽ thành Phật hiệu là Pháp Minh Như Lai, tại thế giới ta bà nầy.
Phú Lâu Na bố giáo ở Du Na
Trong sự nghiệp thuyết pháp độ sinh, Tôn giả không cần khen ngợi, cung kính, không ngại khó khăn, gian khổ. Dù những nơi hẻo lánh xa xôi, đầy ác độc, Ngài cũng nhiệt tình tìm cách đến đó truyền bá chính pháp.
Theo thông lệ hàng năm sau mùa an cư, Phật lại phân bố các đệ tử đến các địa phương truyền đạo. Trong danh sách các giáo khu Tôn giả thấy không có tên nước Duna. Phú Lâu Na hỏi Phật lý do, Phật cho hay nơi đó quá xa xôi hẻo lánh, đường đi hiểm trở, dân tình lại rất dã man bạo ngược. Vì ngại nguy hiểm đến tính mạng Tăng sĩ, nên Phật không ghi tên nước Duna vào danh sách và phân bố chúng đệ tử đi đến đó thuyết giáo. Phú Lâu Na xin Phật được đến đó bố giáo.
Phật hỏi: Ông không sợ nguy hiểm sao?
Phú Lâu Na bạch Phật:
·         Bạch Ðức Thế Tôn! Người xuất gia phải có chí thượng cầu hạ hóa, muốn thành tựu sự nghiệp dù ở lãnh vực nào, con người cần phải vượt qua khó khăn gian khổ, chông gai là điều kiện thử thách con người. Ánh sáng Phật pháp cần bình đẳng soi rọi khắp nơi. Có ánh sáng Phật pháp con người mới được cải thiện, bóng tối mê muội được đánh tan, nên con nguyện đến đó để thuyết pháp dù có thịt nát xương tan.
·         Ðức Phật hỏi: Nầy Phú Lâu Na! Giả sử đến Du Na người ta chửi rủa nhục mạ ông, thì ông nghĩ sao và xử lý bằng cách nào?
·         Bạch Ðức Thế Tôn! Họ vẫn còn tốt đối với con vì họ chỉ chửi mắng mà chưa đem gậy gộc để đánh con.
·         Nếu họ dùng roi gậy đánh ông thì ông nghĩ sao?
·         Con thấy họ vẫn còn tốt, vì họ chỉ mới rượt đuổi mà chưa gây thương tích cho con.
·         Nếu họ dùng dao búa gây thương tích cho ông?
·         Con vẫn còn cảm ơn họ vì họ còn lương tri chưa nở giết chết con.
·         Nếu họ giết ông?
·         Con lại cảm ơn họ bội phần, vì họ đã giúp con từ bỏ xác thân hư ảo, ô trược, sớm nhập Niết Bàn. Ðó là một dịp may hiếm có, chết vì truyền bá chánh pháp, con sẵn sàng đón nhận mà không có gì ân hận.
Với những lời dũng cảm chưa từng nghe, Phật cảm động khen rằng:
·         Nầy Phú Lâu Na! Ông là một con người can đảm xứng đáng là đệ tử của ta, hạnh tu đạo bố giáo nhẫn nhục của ông thật là siêu tuyệt hiếm có.
Hướng về chúng đệ tử, Ðức Phật nói:
·         Nầy các Tỳ kheo! Phú Lâu Na là một con người can đảm trong sự nghiệp thuyết pháp độ sinh đáng được tán dương. Trong công tác đi thuyết pháp, một giảng sư cần có những đức tính sau đây:
1.      Thông hiểu giáo nghĩa
2.      Nói năng lưu loát
3.      Không lo sợ trước đám đông
4.      Biện tài vô ngại
5.      Vận dụng phương tiện khôn khéo
6.      Tùy theo cảnh cơ mà bố giáo
7.      Ðầy đủ oai nghi
8.      Tinh tấn dũng mãnh
9.      Thân tâm tráng kiện
10.  Có đầy đủ uy lực.
Nầy các Tỳ kheo Phú Lâu Na là một con người có đầy đủ các đức tính đó, ta không còn e ngại gì nữa mà không ủy thác cho Phú Lâu Na đến Du Na để bố giáo.
Ðúng như Phật đánh giá, tại xứ Du Na Tôn giả không những không bị hề hấn gì mà sự nghiệp bố giáo lại đạt được kết quả rực rỡ. Ở Du Na chưa đầy một năm, Ngài đã thu vào giáo đoàn hơn 500 đệ tử và kiến lập khoảng 50 cảnh già lam. Phú Lâu Na xứng danh là thuyết pháp đệ nhất, được như thế là nhờ NgàI đã thành tựu được 4 phép Bồ tát:
1.      Ðối với giáo pháp chưa từng nghe, Tôn giả luôn luôn tỏ thái độ trầm tỉnh để tư duy nghĩa lý không vội phê phán.
2.      Không cần đa văn vì đa văn, dục tâm dễ khởi; không cần nhàn hạ vì nhàn hạ lạc tâm dễ sinh. Ngược lại lo tu từ quán để đoạn tham dục, tu nhân duyên quán để đoạn ngu si.
3.      Thấu rõ triệt để 5 ấm, 12 nhập, 18 giới, 12 nhân duyên để thành tựu trí vô sở đắc, trí vô sư, có thành tựu trí đó mới hết niệm phân biệt và nhờ đó mới đủ sức tuyên dương đạo pháp
4.      Rộng thực hành bố thí, sau nghiêm trì giới luật, thường dũng mãnh, nhẫn nhục, tịnh tinh tấn bồ đề.
Cuối Cuộc Ðời Của Phú Lâu Na
Sau khi Ðức Phật nhập Niết Bàn 3 tháng, tại núi Kỳ Xà Quật Ngài Ma Ha Ca Diếp tổ chức kiết tập kinh luật. Vì đi thuyết pháp xa về muộn, Tôn giả được Ca Diếp trình bày lại diễn tiến của cuộc kiết tập và nói:
·         Kinh luật kiết tập gần xong, Tôn giả có ý kiến gì cần phát biểu xin cho biết?
Phú Lâu Na đồng ý tất cả, riêng 8 phép ăn uống Ngài không đồng ý với Ca Diếp, Tôn giả nói:
·         Với 8 phép ăn uống tôi không đồng ý với quan đIểm của Ngài, tôi nhất quyết theo ý chỉ của Ðức Thế Tôn.
Sau đó, Tôn giả lại lên đường tiếp tục cuộc hành trình hoằng pháp. Về sau chúng ta không rõ Ngài nhập Niết Bàn lúc nào và ở đâu, vì chưa thấy tài liệu khảo cứu ghi chép.
Nhận Thức và Kết Luận
Là đệ tử của Phật, cần phải đem giáo pháp của Phật truyền bá sâu rộng để khai thị cho mọi người. Trong những thời kỳ mà cuộc đời đang đen tối bởi si mê tham ái, ngã chấp, ác độc… Ánh sáng trí tuệ của đạo Phật lại cần thiết hơn bao giờ hết, như xứ Du Na thời Phật còn tại thế chẳng hạn. Bởi thế, Tôn Giả đã can đảm lên đường đi bố giáo, Ngài được tôn xưng là bậc thuyết pháp đệ nhất trong hàng Thánh chúng. Tuy nhiên lòng can đảm không chưa đủ, nếu không có tài hùng biện, lòng từ ái, oai nghi, đĩnh đạc, sự can đảm trở thành liều lĩnh. Tôn giả Phú Lâu Na thành công nhờ có đầy đủ các đức tính đó.
Lịch sử truyền bá Phật pháp đã không làm tổn hại cho bất cứ một người nào, một quốc gia xã hội nào, sự truyền bá của đạo Phật luôn luôn mang tính nhân bản, tôn trọng mọi truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Phật giáo là một bông hoa tô điểm cho các dân tộc thêm tươi thắm, Phật giáo cũng là một bông hoa rất mềm mại nhưng không vì thế mà dễ dàng bị bẻ gãy. Tại Ấn Ðộ, sau thời gian ức Phật qua đời, vua A Dục, Ca Ni Sắc Ca, Phật giáo bị càn quét bởi Bà La Môn giáo nhưng tư tưởng Phật giáo không vì thế mà bị mai một. Tại Trung Quốc qua nạn tam Võ, đặc biệt là Võ Tôn nhà Ðường, tại Việt Nam vào cuối nhà Trần Phật giáo vẫn không bị tiêu diệt.
Ngày nay với đà tiến hóa của khoa học, con đường bành trướng của các tôn giáo có phần chùn lại, ngược hẳn với Phật giáo, đặc biệt là ở Tây phương nơi mà khoa học không ngừng tiến triển, cũng là nơi mà có nhiều người đang hướng về Ðông phương tìm hiểu đạo Phật. Do đó chúng ta tin rằng Phật giáo không thể bị tiêu diệt, khi con người chưa trở thành Thánh nhân, cuộc đời còn lắm thăng trầm chưa trở thành tịnh lạc. Chúng ta hãy noi gương Phú Lâu Na Tôn giả, đem giáo pháp của Ðức Phật soi rọi cho những ai còn nghiệp chướng tham sân chấp ngã, để góp phần kiến tạo một thế giới an bình tịnh lạc.
Tôn Giả Ưu Ba Ly 
Upali Trì Giới Ðệ Nhất
Trong cuộc sống, từ quốc gia xã hội, đến đoàn thể, luật pháp, nội quy, điều lệ là những điều kiện giúp cho tổ chức được kiện toàn, vững mạnh, trường tồn. Ngược lại trong một tổ chức có nhiều người không giữ nội quy, điều luật sẽ trở thành ô hợp dễ tan rã, cụ thể như trong quân đội nếu không có kỷ luật sắt, khi ra trận sẽ bị thất bại. Với tôn giáo cũng thế, tín đồ không tuân giữ điều răn cấm, đạo giáo sẽ bị suy tàn. Khi Ðức Phật sắp Niết Bàn, Ngài A Nan hỏi Phật nhiều vấn đề trong đó có câu hỏi:
·         Sau khi Thế Tôn Niết Bàn chúng con nhận ai làm thầy?
Ðức Phật trả lời:
·         Hãy lấy giới luật làm thầy, giới luật còn đạo ta còn.
Như vậy người Phật tử không luận tăng hay tục đều phải tuân giữ giới luật. Trong số các vị đại đệ tử của Phật có Ưu Ba Ly là người tu hành, hành trì giới luật rất đầy đủ. Do đó Ngài được suy tôn là bậc Trì Giới Ðệ Nhất.
Dòng Họ và Nghề nghiệp của Tôn Giả Ưu Ba Ly
Ngày xưa ở Ấn Ðộ luật Ma Nu chia thành phần xã hội ra làm 4 giai cấp:
·         Bà La Môn, Sát Ðế Lợi, Phệ Xá, Thủ Ðà La.
Người sinh vào giai cấp nào phải giữ truyền thống của giai cấp đó. Người sinh vào dòng Bà La Môn được làm đạo sĩ học thánh điển Vệ Ðà, lo việc tế tự. Người sanh vào dòng Sát Ðế Lợi được làm vua chúa quan quyền, cai trị Ấn Ðộ. Người sinh vào dòng Phệ Xá mãi mãi là công thương. Người sinh vào dòng Thủ Ðà La suốt đời làm nô lệ, bị bạc đãi nhất trong xã hội, khi ra đường Thủ Ðà La gặp đạo sĩ hoặc vua quan, phải tìm bờ bụi ẩn nấp, nếu lén nhìn sẽ bị móc mắt. Nếu nói tên Bà La Môn bị cắt lưỡi, không tuân pháp luật vua quan bị đổ dầu sôi vào lỗ tai. Ưu Ba Ly sanh vào dòng Thủ Ðà La, bởi thế ngay từ thuở nhỏ đã không được hưởng quyền lợi về học vấn. Lúc lớn khôn cha mẹ định chọn cho Ưu Ba Ly một nghề sinh nhai, nhưng trong các nghề mà người nô lệ được phép làm như lao động tay chân, cày cuốc, đánh xe, giữ ngựa, gánh phân, Ưu Ba Ly không đủ sức vì ốm yếu mảnh mai. Cuối cùng Ưu Ba Ly được chọn đi học nghề thợ cạo râu tóc, nghề nhẹ nhàng nhất, học chẳng bao lâu Ưu Ba Ly thành thạo nghề nghiệp một cách tài tình.
Nhờ có người giới thiệu, Ưu Ba Ly được nhận vào vương cung Ca Tỳ La Vệ để hớt cạo râu tóc cho các vương tôn công tử. Nhờ đức tính thuần lương nhu mì, trung hậu, Ưu Ba Ly được các vương tôn công tử tín nhiệm và cho ở lại trong cung đình. Ma Ha Bạt Ðề, A Na Luật, Kiếp Tân Na rất thích Ưu Ba Ly, qua sự khéo léo tay nghề. Khi Ðức Phật trở vào thành Ca Tỳ La Vệ, Ưu Ba Ly được đưa đến cạo tóc cho Phật. Tương truyền, vì lo ngại thất lễ, lúc cạo tóc Ưu Ba Ly khom lưng, cúi đầu. Mẹ của Ưu Ba Ly hỏi Phật về kỹ thuật của con, Phật bảo: “Thân thể rất cong”. Nghe thế Ưu Ba Ly ngẩng đầu lên và tập trung tâm ý trong việc hớt tóc, tâm Ưu Ba Ly thể nhập sơ thiền. Mẹ Ưu Ba Ly lại thưa Phật về kỹ thuật, Phật bảo: “Lúc này thân thể ngay thẳng”. Nghe Phật phát biểu ý kiến, Ưu Ba Ly càng nhất tâm hơn, không dám suy nghĩ vọng tưởng gì ngoài việc cạo tóc, tâm Ưu Ba Ly thể nhập nhị thiền. Vì quá chú tâm hơi thở dồn dập nên khi bà mẹ lại hỏi Phật về cách cạo có nhẹ nhàng không? Phật nói:”Hơi thở vào quá thô”. Nghe nói Ưu Ba Ly lại tập trung tâm ý vào hơi thở, thể nhập tam thiền. Lúc cạo gần xong râu tóc, bà mẹ lại hỏi Phật xem Ưu Ba Ly đã thiện nghệ hay chưa, Phật nói: “Hơi thở quá thô”. Vì quá chú tâm đến công tác, Ưu Ba Ly không còn tưởng niệm gì cả, Ðức Phật biết Ưu Ba Ly đang ở trong trạng thái tứ thiền. Hớt cạo râu tóc cho Phật xong Ưu Ba Ly thấy lòng thơ thới, sung sướng vô cùng, vì đã có dịp tiếp cận với Phật. Qua sự chú tâm lưu ý đến việc hớt tóc, nhất là mỗi khi nghe Phật phê phán, Ưu Ba Ly cố sức sửa đổi tâm tư động tác, những cử chỉ đó đã mở đầu cho thấy Ưu Ba Ly sẽ là một con người rất nghiêm túc trong từng tác phong cử chỉ. Bởi thế, sau khi xuất gia Ưu Ba Ly trở thành vị trì giới đệ nhất.
Ðạo Nghiệp của Ưu Ba Ly
Ưu Ba Ly Ðược Vào Giáo Ðoàn
Trong thời gian lưu lại thành Ca Tỳ La Vệ Ðức Phật đem giáo pháp đã chứng ngộ truyền giảng, tất cả các vị hoàng thân, vương tôn, công tử và bá quan đều vô cùng hoan hỷ và tán thán Ðức Phật. Nhờ thấm nhuần mưa pháp một số vương tôn từ bỏ cuộc sống giàu sang nơi cung vàng để xin theo Phật xuất gia. Ngoài các vị đã xuất gia từ trước như Ma Ha Nam, Ma Ha Bạt Ðề, kỳ này có các vị như Ðề Bà Ðạt Ða và A Nan con vua Bạch Phạn. A Na Luật con Cam Lộ Vương. Ma Ha Bà Sa con Hộc Phạn Vương và La Hầu La cháu nội vua Tịnh Phạn. Khi được Phật nhận A Na Luật hăng hái gọi Ưu Ba Ly đến nhờ cạo tóc. Ưu Ba Ly vốn là người đã hầu hạ Bạt Ðề ngày trước. Rồi tuần tự Ưu Ba Ly cạo tóc cho các vương tôn công tử khác. Vốn đã được gặp Phật trong khi cạo tóc cho Phật từ trước, nay thấy cảnh xuất gia nồng nhiệt, vui vẻ của các vương tôn tại hoàng cung, Ưu Ba Ly thấy tủi hổ cho thân phận kẻ nô lệ, khôn có cách nào để xuất gia thoát tục. Ngài Xá Lợi Phất thấy vậy an ủi:
·         Này Ưu Ba ly! Vì chưa thấu hiểu được giáo thuyết bình đẳng của Phật ông mới buồn tủi và khóc than. Ông nên biết rằng trên đường giáo hóa, Ðức Phật không có tâm phân biệt, người này giàu sang, kẻ kia ngu si nghèo đói, ai muốn xuất gia cầu giải thoát sinh tử luân hồi Phật đều nhận tất cả. Vì từ tâm của Phật là hơi thở của vạn vật, là mạng mạch của nhân sinh, là trái tim của chánh pháp, lòng từ bi đó không khác biển cả hay hư không. Biển cả dung chứa mọi sinh vật, làm sạch tất cả dơ bẩn do sông rạch chảy vào, hư không trùm khắp cả muôn loài, không loại trừ bất cứ một vật nào, có bao nhiêu loài hữu tình hay vô tình đều được dung chứa. Còn chúng sanh muốn được giải thoát, muốn được Ðức Phật cho gia nhập giáo đoàn, cần yếu phải nghiêm trì giới luật. Với bản tính thật thà, khiêm cung, cần mẫn, chu đáo… sẳn có, được xuất gia ông sẽ giữ tròn giới pháp của Phật, ông hãy tin tưởng chớ chán nản, tôi sẽ hướng dẫn đến bái yết Phật, chắc chắn Phật sẽ hoan hỷ đón nhận.
Ðúng như ý của Xá Lợi Phất, khi gặp Ưu Ba Ly Phật rất niềm nở đón nhận và dạy rằng:
·         Này Ưu Ba Ly! trước đây khi cạo tóc cho ta, ông đã biểu thị đức tánh của người xuất gia, rất khiêm cung lễ độ, chăm chú vào việc làm, tâm không dấy động. Thâm tâm của ông lúc đó đã chuyển từ trạng thái sơ thiền sang trạng thái tứ thiền, giờ này ông xin xuất gia rất là hợp thời điểm. Trước đây ta đi xuất gia một phần là vì muốn công bằng xã hội, do đó giáo pháp của ta mang tính bình đẳng trước mọi người oán cũng như thân, giai cấp cao cũng như giai cấp thấp. Bất cứ ai nếu tinh tấn giữ gìn giới luật tất sẽ được giải thoát, ta sẽ thế phát cho ông bây giờ. Còn lễ thế phát cho các vương tôn công tử sẽ cử hành sau bảy ngày nữa, vì đó là tuần huấn nhục, giúp họ tập quen khó nhọc, lãng quên tâm lý hưởng thụ giàu sang.
Trong các vương tôn đều xuất gia cùng một ngày, nhưng Phật cho Ưu Ba Ly thế phát trước, các vương tôn thế phát sau, với dụng ý như nêu trên. Ngày Bạt Ðề xuất gia, Ðức Phật bảo Bạt Ðề hãy đảnh lễ Ưu Ba Ly, lý do là vì Ưu Ba Ly lớn tuổi hơn. Những việc làm này, ngoài một phần như lý do đã nêu trên, còn có mục đích để phá tan tâm kiêu mạn của các vương tôn và cho thấy tinh thần bình đẳng của giáo pháp, nhằm xóa bỏ mọi giai cấp trong xã hội. trên đường giáo hóa, Ưu Ba Ly là người đầu tiên thuộc dòng họ nô lệ Thủ Ðà La được Phật thu nhận vào hàng đệ tử. Ðó cũng là một bước tiến bộ đầu tiên đã ghi vào lịch sử văn minh Ấn Ðộ.
Ưu Ba Ly Hỏi giới
Trong giáo đoàn, Tôn giả Ưu Ba Ly rất được trọng nể nhờ nghiêm trì giới luật. Với tính thận trọng sợ lỗi lầm, Tôn giả thường hỏi Phật về giới luật, những giới mà Ưu Ba Ly thưa hỏi Phật rất nhiều tất cả có ghi trong luật tạng. Tuy nhiên để thấy sự chú ý của Ưu Ba Ly về giới luật, cần nêu ra một vài trường hợp.
·         Theo luật của Sát Ðế Lợi, người dòng họ Thích không được kết hôn với người ngoài dòng họ Thích. Có một cô gái thuộc dòng họ Thích tên là Hắc Ly Xa, lúc đang độ thanh xuân chẳng may chồng cô chết sớm, sau một thời gian cô muốn kết nghĩa với người ngoài dòng họ Thích, nhưng người em chồng không ưng thuận lại muốn Hắc Ly Xa làm vợ mình. Ðể trả thù vì bị Hắc Ly Xa cự tuyệt, trong một bữa ăn tên em chồng bỏ thuốc mê vào thực phẩm. Khi ăn xong Hắc Ly Xa bất tỉnh, tên này dùng roi đánh đập nàng tàn nhẫn và dẫn đến trình quan với lời mạo nhận rằng:
·         Cô này là vợ của tôi, cô thường tư thông với người ngoài dòng họ, xin quan xét xử và nghiêm trị đích đáng.
Vua xử Hắc Ly Xa phải chịu tử hình, khi bị giam giữ thừa dịp người gác tù lơ đễnh, Hắc Ly Xa bỏ trốn và đến một ni viện ở Xá Vệ xin xuất gia. Tại Ca Tỳ La Vệ sau khi truy nã tù nhân không có kết quả, nhà vua nghe Hắc Ly Xa đã trốn sang Xá Vệ, nhà vua viết biểu yêu cầu vua Xá Vệ truy nã Hắc Ly Xa và bắt giải về Ca Tỳ La Vệ gấp. Truy nã không ra nhà vua mới biết nữ tù nhân đã vào tu trong ni viện, nơi bất khả xâm phạm. Vua Ba Tư Nặc lại viết biểu trả lời vua Ca Tỳ La Vệ và cho biết sự cố. Tin nữ tù nhân vượt ngục vào trong ni viện được lan truyền khắp nơi, khiến dư luận xôn xao và hai nước trở nên hiềm khích. Nghe sự tình khó giải quyết, Ưu Ba Ly đến trình Phật:
·         Bạch Thế Tôn! Người đã phạm quốc pháp, chúng ta có thể thu nhận cho xuất gia không?
·         Này Ưu Ba Ly! Quốc pháp hợp lý hay không hợp lý đó là việc của chính phủ và dân chúng, còn đối với người phạm tội khi chưa được tuyên bố ân xá, tăng đoàn không được làm phép cho xuất gia.
Sau khi trả lời cho Ưu Ba Ly, Phật gọi Ni chúng cho Hắc Ly Xa xuất gia đến quở trách, lúc bấy giờ có nhiều người phàn nàn cho Phật là thiếu từ bi không che chở cho tội nhân. Biết tin đó Phật họp đại chúng lại cho hay:
·         Tăng đoàn cần thanh tịnh, phạm giới luật còn bị tẩn xuất thì phạm pháp nước phải chịu luật nước xử trị. Phật pháp không thể che chở cho tội nhân vì tăng đoàn cần phải được mọi người trọng nể.
Một lần khác có người nhờ Tỳ kheo mai mối giữa nam và nữ, không biết xử lý cách nào Ưu Ba Ly đến hỏi Phật.
·         Bạch Thế Tôn! Tỳ kheo và Tỳ kheo ni có thể làm mai mối cho nam nữ được không?
Phật trả lời:
·         Nếu Tỳ kheo, Tỳ kheo ni đem tâm tình người nam ngõ với người nữ, đem ý người nữ nói với người nam cho đến giới thiệu giáo hội một lần, sẽ phạm Tăng già bà thi sa, cần phải hối quá vì căn bản sinh tử dục là tội thứ nhất.
·         Bạch Thế Tôn! Ðối với việc hôn lễ của các tín đồ tại gia, các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni nên có thái độ lưu tâm như thế nào?
·         Không nên lưu tâm lắm, nếu việc hợp pháp có thể đối trước tam bảo làm lễ chứng minh cho họ.
Phép Thăm Nuôi Bệnh Nhân
Một hôm, Ưu Ba Ly đi sau Phật thấy một bịnh nhân nằm rên la ở chỗ dơ uế. Một hôm khác trên đường hóa đạo, các Tỳ kheo gặp một bệnh nhân nằm bên vệ đường. Vì chưa nghe Phật giảng về phép thăm nuôi bệnh nhân, các Tỳ Kheo đi nhiễu một vòng rồi tiếp tục lên đường. Lại một lần khác, trong đại chúng có một Tỳ kheo bệnh mà không ai chăm sóc. Vì buồn tình Tỳ kheo bệnh nghĩ đang lúc bệnh hoạn có thể không cần giữ giới, tự ý buông lung. Ðộng lòng trắc ẩn, Ưu Ba Ly đến thưa hỏi Phật:
·         Bạch Thế Tôn! Nếu có đại đức, tỳ kheo bệnh, chúng con nên chăm sóc như thế nào?
·         Này Ưu Ba Ly! Khi có tỳ kheo bệnh, chúng tăng nên đem bệnh nhân đến ở phòng chính nơi thoáng khí, cắt cử người thay phiên chăm sóc, ăn uống thuốc thang. Các đệ tử cũng thay phiên nhau túc trực hầu hạ, quét dọn sạch sẽ, cắm hoa, đốt hương, theo dõi bệnh tình, hơi thở… Khi có người đến thăm cần tiếp đón nồng hậu, khách hỏi bệnh nhân điều gì hãy thay bệnh nhân trả lời đầy đủ. Nếu có Phật tử đến thăm, hãy mời họ ngồi đằng sau, hoặc phía từ nửa mình bệnh nhân trở xuống. Nếu họ phát tâm cúng dường những gì, hãy niệm Phật chú nguyện, rồi tiếp thọ nói pháp cho họ nghe. Khi người bệnh cần đại tiểu tiện, hãy mời khách ra ngoài rồi lo cho bệnh nhân. Ở ngoài cửa cũng cần có người trực để hướng dẫn khách thăm bệnh. Ðó là đối với các Tỳ kheo đại đức, còn các tỳ kheo nhỏ cũng hãy chăm sóc như thế, có điều là không nên đem bệnh nhân đến ở phòng chính. Nếu bệnh nhân không có sư trưởng hoặc đệ tử, các Tỳ kheo đồng trú xứ nên phân công chăm sóc bệnh nhân. Nếu trong chúng không đủ điều kiện thuốc thang cho bệnh nhân, có thể lấy vật dụng của họ đem bán lấy tiền lo thuốc cho bệnh nhân. Nếu bệnh nhân không ưng thuận, hãy mời vị trưởng thượng đến thuyết phục, nếu không có vật đổi chác, khi đi khất thực, tỳ kheo mang hai bát, một cho mình và một cho bệnh nhân. Khất thực về hãy chọn các thức ăn bổ dưỡng dành cho người bệnh. Nếu họ viên tịch hãy xử lý vật dụng còn lại một cách hợp lý, như cúng dường tam bảo hoặc quan phân cho đại chúng.
Với tâm từ bi, Tôn giả Ưu Ba Ly rất quan tâm đến người bệnh, nhất là người xuất gia vì họ đã cắt ái từ thân, cho nên lúc lâm bệnh họ rất cô độc và cần có người chăm sóc. Ðức Phật dạy, trong các phước điền, chăm sóc bệnh nhân là phước điền đệ nhất.
Phá Tăng và Hòa Tăng
Là vị giữ giới đệ nhất, Tôn giả luôn luôn quan tâm đến các vấn đề pháp chế, nhưng quan trọng nhất vẫn là vấn đề phá tăng và hòa tăng. Chư Tăng sống theo hạnh lục hòa, cho nên nếu bất hòa là mối tai họa lớn lao. Với tập thể, có hòa hợp mới dễ dàng thành tựu các hoạt vụ, nhỏ như một gia đình có thuận vợ thuận chồng mới tát cạn bể đông. Bởi thế khi họp tăng làm phép yết ma, vị thủ tọa hỏi tăng đã họp xong chưa rồi lại hỏi: Tăng có hòa hợp không? Nếu Tăng không hòa hợp là Yết ma không thành. Một hôm tại thành Xá Vệ, Ưu Ba Ly hỏi Phật rằng:
·         Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Phá hòa hợp Tăng?
·         Này Ưu Ba Ly! Nếu trong Tăng đoàn, có người hay chỉ trích, chê bai, đâm thọc để các Tỳ kheo phải tyï hiềm nhau, hoặc gây sự bất ổn, đó là phá sự hòa hợp Tăng. Nếu đối với chư Tăng, có Phật tử tại gia tạo sự bất hòa phân chia nhân ngã, khiêu khích làm chia rẽ tăng đoàn, làm rối loạn mất hòa khí, gọi đó là phá hòa hợp tăng. Ngoài đời, nếu chính quyền chen vào nội bộ tăng đoàn, tự viện, chỉ trích này nọ, hoặc yêu cầu trục xuất tăng ni ra khỏi tự viện, tăng đoàn gọi đó là phá hòa hợp tăng. Người phá hòa hợp tăng mang tội rất nặng, chết đọa vào địa ngục chịu các cực hình trong thời gian một kiếp.
·         Bạch Thế Tôn! Còn thế nào gọi là hòa hợp tăng?
·         Này Ưu Ba Ly! Người lễ bái cúng dường, hỗ trợ tùy thuận ngợi khen các tỳ kheo đúng phép, đúng luật gọi đó là hòa hợp tăng.
·         Người đem lại hòa hợp tăng được những công đức gì?
·         Công đức người tạo hòa hợp tăng được sinh vào thế giới có nhiều phước báu, hưởng các lạc thú trọn kiếp.
Vốn là một con người có tác phong khiêm tốn, hiểu rõ nghĩa lý của giới luật, giữ giới nghiêm minh, Tôn giả không phải không biết thế nào là Phá Tăng và Hòa tăng, nhưng vì muốn tăng đoàn lưu tâm đến sự ổn định nội bộ tránh các tranh chấp, nên Tôn giả đem vấn đề ra hỏi Phật để nhắc nhở.
Kiết Tập Luật Tạng
Ở trong tăng đoàn không những lo giữ giới luật, bàn với Phật nhiều điều về giới luật, Tôn giả còn xử lý các Tỳ kheo phạm tội, làm phép Yết ma sám hối, giảng giải giới luật cho các Tỳ kheo, Về phía nữ với tính rụt rè, các tỳ kheo ni không dám đem vấn đề ra hỏi Phật, các vị thường đem những gì không biết hoặc còn nghi ngờ về luật học thưa hỏi Tôn giả. Ngoài Ðức Phật ra Tôn giả gần như là người có đủ thẩm quyền quyết định về mọi vấn đề liên quan đến giới luật.
Sau khi Phật Niết Bàn trong cuộc kiết tập Kinh, Luật, Luận tại động Kỳ Xà Quật gồm 1.250 vị A La Hán do Ðại Ca Diếp làm chủ tọa, Ngài A Nan tuyên trì tạng kinh, Ngài Ca Chiên Diên tuyên trì tạng luận, Ngài Ưu Ba Ly tuyên đọc 80 lần các giới luật do Phật chế. Từ cuộc kiết tập nầy bộ Bát Thập Tụng Luật được hình thành và đó là bộ luật căn bản đầu tiên của văn học Phật giáo. Theo Nam truyền sử, Tôn giả Ưu Ba Ly không những là vị kiết tập Luật tạng, mà còn là vị kế thừa Ðức Phật lãnh đạo giáo đoàn và trở thành Sơ tổ. Ðây cũng là điểm mà Phật giáo Bắc tông khác với Phật giáo Nam tông. Theo truyền thống Bắc tông: Ðại Ca Diếp là vị Sơ tổ thừa kế Phật lãnh đạo giáo đoàn, nguyên nhân sự khác biệt này xét ra cũng dễ thấy.
·         Nam tông thiên về tư tưởng giải thoát, muốn giải thoát phải trì luật. Tôn giả Ưu Ba Ly là vị trì luật đệ nhất nên được suy ton là Sơ tổ. Còn Bắc tông thiên về tư tưởng giác ngộ, lấy tâm ấn tâm không cần văn tự, ấn truyền ngoài kinh điển. Tôn giả Ðại Ca Diếp là vị đã lãnh hội được ý chí đó nơi Ðức Phật trước nhất, qua cành hoa sen của Phật đưa ra tại hội Linh Sơn. Sau khi Ðức Phật Niết Bàn Tôn giả là vị chủ tọa, lãnh đạo cuộc kiết tập kinh điển, nên Phật giáo Bắc tông suy tôn Ngài là Sơ tổ.
Nhận Thức và Kết Luận
Trong các sử truyện không ghi rõ giai đoạn cuối của cuộc đời Tôn giả, do đó chúng ta không rõ Ngài nhập Niết Bàn vào lúc nào. Nhưng sau cuộc kiết tập kinh điển lần thứ nhất, sử truyện không ghi chép một sự xuất hiện nào của Ngài. Bởi thế chúng ta có thể suy đoán sự nhập Niến Bàn của Tôn giả trong khoảng trước hoặc sau Tôn giả Ðại Ca Diếp mà thôi. Về sự tương truyền Ưu Ba Ly trong lúc cạo tóc cho Phật đã thể nhập từ sơ thiền đến tứ thiền nghe qua có viễn vông, nhưng xét kỹ đó không phải là một vấn đề không tưởng, vì đó chỉ là một vấn đề hiện tượng tâm lý thông thường, mọi người có thể trải qua. trên lý thuyết thiền chia có 4 bậc là để định mức trạng thái tâm lý của một hành giả qua 4 bậc, từ thấp đến cao. Khi chưa tọa thiền tâm lý con người rất loạn động, hết nghĩ đến vấn đề này liền dấy động đến vấn đề khác. Phật cho tâm lý con người như một con ngựa không cương, như vượn khỉ chuyền cây. Khi tọa thiền, hành giả khởi đầu loại trừ các triền cái, nhiếp tâm vào một vấn đề nào đó, càng nhất tâm nhiếp niệm thì định lực càng cao, đi từ bâc sơ thiền đến tứ thiền. Lúc cạo tóc cho Phật, Tôn giả đã chú tâm vào động tác nghề nghiệp, quên hết những vấn đề khác, tâm chuyển từ trạng thái sơ thiền đến tứ thiền. Noi gương Tôn giả, dùng giới chế ngự hết các phóng dật, chúng ta sẽ trở nên con người tốt có phẩm hạnh cao, có tư cách để từ đó không làm gì hại đến gia đình, đoàn thể, quốc gia, xã hội. Chỉ trong phạm vi giữ giới như thế chúng ta đã là người có ích cho đời rồi, còn nói gì khi chúng ta bước vào guồng máy của hoạt động tích cực của xã hội. Sự cường thịnh của quốc gia và xã hội căn bản là con người hoạt động với tinh thần đạo đức, cần kiệm liêm chính. mạng mạch của chính pháp được nuôi dưỡng từ các tăng sĩ có giới hạnh.
- Hết -

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét