Thứ Sáu, 15 tháng 4, 2022

THÀNH ĐẠO

 

THÀNH ĐẠO

A.  Dẫn nhập

Cách đây hơn 2500 năm, tại xứ Ấn Độ có vị thái tử tên là Tất Đạt Đa, tuy Ngài sống trong nhung lụa, vợ đẹp, con thơ nhưng Ngài vẫn ưu tư, trăn trỡ  về kiếp sống nhân sinh với những câu hỏi: Tại sao ta sinh ra? Chết đi về đâu? Tại sao ta và mọi người phải chịu cảnh sanh lão bệnh tử? Có con đường giải thoát hay không? Cuối cùng Ngài quyết định rời hoàng cung đi xuất gia tìm cầu chân lý. Trãi qua 5 năm tầm sư học đạo, 6 năm tu khổ hạnh, 49 ngày thiền định dưới cội Bồ Đề, cuối cùng Ngài tìm ra chân lý, chứng Vô Thượng Bồ Đề, thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Sau đây, chúng ta sẽ tìm hiểu ý nghĩa ngày Đức Phật thành đạo.

B.  Nội dung

I.       Định nghĩa

Thành Đạo, chữ “Thành” có nghĩa xong, trọn, thành tựu, viên mãn v.v… chữ  “Đạo” có ba nghĩa là con đường, bổn phận, là lý tánh tuyệt đối. Vậy nghĩa hai chữ Thành Đạo có nghĩa là Đức Phật thành tựu, viên mãn qủa vị Phật mà Ngài cần khổ trãi qua ba a tăng kỳ kiếp tu tập.

II. Ý nghĩa thành đạo

1.    Con đường trung đạo

2.    Đức Phật chiến thắng ma quân

a.    Ngoại ma

b.    Nội ma

3.    Pháp chứng đắc sau khi thành đạo

3.1           Tam minh

Túc mạng minh

Thiên nhãn minh

Lậu tận minh

   3.2. Lục thông

Thiên nhãn thông

Thiên nhĩ thông

Túc mệnh thông

Tha tâm thông

Thần túc thông

Lậu tận thông

  3.3. Tam thân

Pháp thân

Báo thân

Ứng thân

3.4.Tứ trí

Thành sở tác trí

Diệu quan sát trí

Bình đẳng tánh trí

Ðại viên cảnh trí

3.5. Thập bát bất cộng

Thân không lỗi.

Miệng không lỗi.

Niệm không lỗi.

Không có tâm tưởng khác.

Không có tâm bất định.

Không có tâm không biết.

Sự muốn không giảm.

Tinh tấn không giảm.

Niệm không giảm.

Huệ không giảm.

Giải thoát không giảm.

Giải thoát tri kiến không giảm.

Tất cả thân nghiệp theo trí tuệ mà hành động.

Tất cả khẩu nghiệp theo trí tuệ mà hành động.

Tất cả ý nghiệp theo trí tuệ mà hành động.

Trí tuệ biết đời vị lai không ngại.

Trí tuệ biết đời quá khứ không ngại.

Trí tuệ biết đời hiện tại không ngại.

   4. Mở ra con đường giải thoát cho chúng sanh

5. Sự thành đạo của đức Phật là tấm gương cho chúng ta học tập theo

C.  Kết luận

 

QUY Y TAM BẢO

 

QUY Y – TAM BẢO

A. Mỡ đề.

          Trong kinh Pháp Hoa phẩm Phương Tiện có ví dụ “gã cùng tử”. Có vị trưởng giả giàu có, có một đứa con, đứa con còn nhỏ dại ham vui chơi nên trốn cha đi chơi, sau đó bi thất lạc ở xứ người. Từ đó cuộc đời của đứa bé phải chịu cảnh nghèo cùng khốn khổ lang thang đầu đường xó chợi cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, thân thể triều tuỵ bệnh tật thật là bi thảm.

Gã cùng tử trong kinh Pháp Hoa dụ cho chúng sanh, chúng ta. Chúng ta do vô minh điên đảo, do ham vui ngũ dục lục trần mà dong ruổi trong trần lao sanh tử luân hồi đau khổ bất tận này. Bây giờ tỉnh ngộ mới biết mình quá khờ dại và quyết định hồi đầu, quyết định tìm con đường giải thoát. Con đường để  chúng ta giải thoát ra khỏi sự ngu si sanh tử khổ đau đó chính là con đường Quy y Tam Bảo vậy, vì chỉ có Tam Bảo mới cứu chúng sanh, chúng ra ra khỏi sanh tử đến bờ giải thoát mà thôi.

B. Chánh đề.  

  I. Giải thích từ Quy y Tam Bảo

    1. Quy y  

Quy là trở về, Y là nương tựa. Từ vô thỉ kiếp đến nay chúng ta do vô minh điên đảo nên trôi lăn trong sanh tử luân hồi, trong trần lao phiền não chịu nhiều khổ đau. Hôm nay chúng ta giác ngộ hồi đầu trỡ về Tam Bảo, nương tựa Tam Bảo tu tập để thoát khỏi sanh tử luân hồi, trần lao phiền não.

    2. Tam Bảo: Tam bảo là ba ngôi báu gồm Phật, Pháp, Tăng.

       a. Phật

Phật có ba nghĩa là Tự giác, Giác tha và Giác hạnh viên mãn.

Tự giác: Phật là bậc giác ngộ hoàn toàn, Ngài đã dứt sạch vô minh, phiền não, nghiệp chướng, không còn sanh tử luân hồi.

Giác tha: Giác tha là chỉ dạy, giáo hóa mọi loài chúng sanh. Chư Phật từ khi mới phát Bồ Đề tâm cho đến ngày thành Phật, từ ngày thành Phật cho đến ngày nhập Niết Bàn, trong khoảng thời gian này, các Ngài luôn luôn làm hạnh lợi tha giáo hóa chỉ dạy chúng sanh bỏ ác làm lành, dạy chúng sanh tu tập để được giác ngộ như mình. Công hạnh lợi tha của chư Phật rất vĩ đại. Như Đức Phật A Di Đà, Ngài phát 48 lời đại nguyện làm lợi ích chúng sanh v.v…

Giác hạnh viên mãn: Nghĩa là công hạnh tu tập, công hạnh giáo hóa cứu độ chúng sanh các Ngài đã làm đầy đủ, viên mãn.

   b. Pháp

Pháp là những lời chỉ dạy của Phật, chư Bồ Tát, chư Hiền Thánh Tăng được kết tập lại thành Tam tạng kinh điễn là Kinh Luật và Luận có công năng đưa chúng sanh giải thoát sanh tử luân hồi.

Kinh: là lời chỉ dạy của Phật hay những lời dạy của chư Hiền Thánh Tăng được Phật chứng minh kết tập lại.

Luật: là những điều răng cấm của Phật chế ra cho Phật tử hành trì bỏ ác làm lành.

Luận: là những lời luận giải Kinh của chư Hiền Thánh Tăng làm cho mọi người dễ hiểu.

    c. Tăng

Tăng là đoàn thể người xuất gia thọ Tỳ kheo giới từ bốn vị trỡ lên tu tập trong tinh thần hòa hợp thanh tịnh.

3. Quy y Tam Bảo là thế nào? 

Quy-y Tam-bảo là trở về nương tựa ba ngôi báu: Phật, Pháp, Tăng.

Tại sao phải Quy-y Phật? - Vì Phật là đấng hoàn toàn sáng suốt, từ bi vô lượng, phước huệ vô biên, đức hạnh viên mãn; - Vì Phật là người dẫn đường vĩ đại nhất, đã có cái kinh nghiệm bản thân thoát ra ngoài vòng sanh tử để chứng Ðạo.

Tại sao quy-y Pháp? - Vì chỉ có phương pháp của Phật là đầy đủ công năng để đưa chúng ta qua khỏi bể khổ, đến bờ giải thoát.

Tại sao lại quy-y Tăng? - Vì Tăng là người đã hy sinh gia đình, tiền của, danh vọng... để tình nguyện theo Phật dắt dẫn chúng sanh trên đường Ðạo.

II. Ba bực Tam Bảo

Tam Bảo có ba bực: Ðồng thể Tam bảo, Xuất thế gian Tam bảo, Thế gian trụ trì Tam bảo.

  1. Ðồng Thể Tam Bảo

     a. Ðồng Thể Phật Bảo: tức là nói tất cả chúng sanh cùng chư Phật đồng

một thể tánh sáng suốt.

     b. Ðồng Thể Pháp Bảo: tức là nói tất cả chúng sanh cùng chư Phật đồng một pháp tánh từ bi bình đẳng.

     c. Ðồng Thể Tăng Bảo: tức là nói tất cả chúng sanh cùng chu Phật đồng một thể tánh thanh tịnh, sự, lý hòa hợp.

  2. Xuất Thế Gian Tam Bảo

     a. Xuất Thế Gian Phật Bảo: là chỉ cho Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, Ðức Phật A-Di-Ðà, Chư Phật trong mười phương ba đời, đã tự giải thoát ra khỏi sự ràng buộc của thế gian.

     b. Xuất Thế Gian Pháp Bảo: là chỉ cho Chánh pháp của Phật, có công năng làm cho chúng sanh thoát khỏi sự ràng buộc của thế gian, như Tứ-đế, Thập-nhị nhân-duyên, Lục -độ v.v...

     c. Xuất Thế Gian Tăng Bảo: là chỉ cho các vị Thánh-Tăng đã thoát ra ngoài sự ràng buộc của thế gian như đức QuánThếÂm, Ðại Thế Chí, Văn Thù, Ca-Diếp, A-Nan v.v...

  3. Thế Gian Trụ Trì Tam Bảo

     a. Thế Gian Trụ Trì Phật Bảo: là chỉ cho Xá Lợi của Phật, tượng Phật đúc bằng kim khí, chạm trổ bằng danh mộc, tô bằng đất, đắp bằng xi măng, thêu bằng vải, hay vẽ trên giấy.

     b. Thế Gian Trụ Trì Pháp Bảo: là chỉ cho ba tạng Giáo điển: Kinh, Luật, Luận viết hay in trên giấy, trên vải trên lá buôn v.v...

     c. Thế Gian Trụ Trì Tăng Bảo: là chỉ các vị TỳKheo, Tỳ Kheo Ni tu hành chơn chánh, đạo đức trong sạch, giới luật trang nghiêm trong hiện tại.

III. Sự Quy y Tam Bảo

Sau khi đã hiểu rõ thế nào là Quy-y Tam bảo, tất nhiên phải thực hành sự hiểu biết ấy.Thực hành bằng sự tướng cung kính, vâng theo Tam-bảo, như thế gọi là sự quy-y Tam-bảo.

  1. Sự Quy-Y Phật: Hằng ngày chúng ta phải nhớ tưởng luôn đến Phật, niệm danh hiệu Phật, chiêm ngưỡng tượng Ngài, và nguyện suốt đời theo bước chân Ngài, ấy là sự quy-y Phật.

  2. Sự Quy-Y Pháp: Hằng ngày tụng đọc Kinh, Luật, Luận; sớm hôm hai thời công phu, tìm hiểu nghĩa lý thâm huyền của Pháp bảo. Khi đọc tụng Kinh điển tâm trí ta không nghĩ xằn bậy, không nhớ tưởng những việc không hay, không bàn mưu tính kế để lợi kỷ, tổn nhơn. Chúng ta trừ bỏ được dục vọng, tâm trí được sáng suốt, an lành, thanh tịnh.

  3. Sự Quy-Y Tăng: Thế gian thường nói: "Trọng Phật, phải kính Tăng". Cho nên, nếu chúng ta thành tâm thờ Phật bao nhiêu, thì chúng ta phải thật dạ kính Tăng bấy nhiêu. Người thực hành sự quy-y Tăng, hễ thấy người đầu tròn áo vuông, chân chính tu hành, giữ gìn giới luật, thì liền kính nể, quý trọng, xem như đó là vị đại diện cho Ðức Phật. Làm như thế là sự quy-y Tăng.

Tóm lại, thờ Phật, tụng Kinh, giữ Giới, nghiên cứu Phãt pháp, kính trọng Tăng già chân chính, dó chính là sự quy-y tam-bảo.

IV. Lý Quy y Tam Bảo

Lý là bên trong. Lý quy-y Tam-bảo nghĩa là quy-y Tam-bảo trong tâm chúng ta. Nếu chúng ta chỉ thực hành sự quy-y, chỉ dong ruổi theo Tam-bảo bên ngoài, mà quên lý quy-y, nghĩa là quên Tam-bảo bên trong tâm chúng ta, thì chúng ta chưa thực hành đúng nghĩa Tam-quy. Thật thế, bên trong tâm chúng ta cũng có đủ Tam-bảo. Chúng ta cần thực hành lý quy-y, hay Tam Tự Quy-Y:

  1. Tự Quy-Y Phật: Tự nghĩa là mình đối với tự tâm mình. Tư quy-y Phật là mình tự trở về với Phật tánh sáng suốt của tâm mình, - Vâng mỗi người đều có Phật tánh, và đều có thể thành Phật. Ðó là lời Phật Thích Ca đã dạy. Nhưng Phật tánh ấy bị mê lầm, vọng tưởng che lấp. Vọng tưởng như mây mờ, Phật tánh như trăng. Mây mờ có thể che khuất, chứ không thể tiêu diệt được trăng sáng. Phật tánh chúng ta bị vọng tưởng vô minh che lấp sâu kín đến đâu cũng vẫn thường còn. Vậy thì sao chúng ta lại bỏ quên Phật tánh của chúng ta, mà chỉ chạy theo cầu khẩn Phật bên ngoài; như đứa "cùng tử" có viên ngọc quý, cha mẹ đã giấu sẵn trong chéo áo mà nó không biết, lại đi xin ăn cùng khắp mọi nơi!

  2. Tự Quy-Y Pháp: nghĩa là vâng theo pháp tánh của mình. Trong tâm ta có đủ tất cả các Pháp: Từ-bi, Trí-tuệ, Bình đẳng, Sáng-suốt, Nhẫn-nhục, Tinh-tấn... chúng ta cần phát huy những đức tánh ấy và hành động theo chúng, tuân theo chúng. Như

  3. Tự Quy-Y Tăng: nghĩa là vâng theo Thầy trong tâm mình, Thầy trong tâm mình là đức tánh hòa hợp thanh tịnh của mình, như Tăng già là hiện thân của sự hòa hợp thanh tịnh bên ngoài. Bấy lâu vì mình mê muội, không nhận thấy được ông Thầy trong tâm, nay nhờ Phật chỉ dạy, mình nhận thấy được ông Thầy thanh tịnh ấy, thì mình phải quy-y Thầy của mình trước đã chứ!

Nói tóm lại, mình phải nương tựa, quay về với Phật trong tâm mình là tánh sáng suốt; với Pháp trong tâm mình là các đức tính Từ-bi, Hỷ-xả v.v..., với Tăng trong tâm mình là sự hòa hợp, thanh tịnh của bản tâm. Như thế là Lý Quy-Y Tam-bảo.

VI. Lợi ích của Quy y Tam Bảo.

    1. Không bị lầm đường lạc lối

Tam bảo là ba ngôi sáng suốt, luôn soi đường chỉ lối cho chúng sanh. Chúng ta quy y Tam Bảo bảo đảm chúng ta không sợ đi lầm đường lạc lối vào sanh tử hay đường tà.

    2. Khi đã phát nguyện quy-y, mình dễ giữ đúng lời đã hứa, vì có sự chứng minh của Chư Phật và Chúng Tăng

Khi chúng ta phát nguyện quy y trước Tam Bảo, có Tam Bảo chướng minh chúng ta có thêm sức mạnh để thực hành tu tập. Lại nữa, chúng ta hứa trước Tam Bảo mình lãnh thọ giáo pháp, giới luật nên chúng ta không dám sai phạm những lời đã hứa.

  3. Tam Bảo là con thuyền đưa chúng ta từ bến mê đến bờ giải thoát giác ngộ

Chúng ta quy y Tam Bảo, nương tựa Tam Bảo tu tập chúng ta sẽ được giải thoát giác ngộ ra khỏi sanh tử luân hồi khổ đau.

VII. Công đức quy y Tam Bảo

Công đức quy y Phật bảo

1. Chuyện đứa bé cúng dường Đức Phật (trích trong kinh Hiền Ngu)

Một thời đức Thế Tôn ở nước Xá Vệ, tại vườn Cấp Cô Độc cây của Kỳ Đà.

Một buổi sớm ấy đức Phật và Chư Tăng vào thành khất thực, gặp lũ trẻ con, đương nô nghịch đất giữa đường, nó đắp một cái thành, có đủ nhà cửa kho tàng thóc lúa bằng đất. Một đứa nó nhìn thấy Phật có hào quang sáng, tự phát tâm cung kính, vui mừng! Khi Phật đi tới nơi, nó chắp tay vái, và dâng một mẩu đất cúng dàng.

Phật cầm lấy giao cho ngài A Nan, và dặn mang về bôi trên thềm nhà chỗ Ngài ngủ. Khi trở về rừng Kỳ Hoàn ngài A Nan, đem đất làm theo lời Ngài dạy. Ngài bảo rằng:

- A Nan vừa rồi đứa nhỏ hoan hỷ cúng đất công đức ấy sau khi ta vào Niết Bàn, khoảng độ trăm năm; nó sẽ được làm vua cai trị toàn cõi Ấn Độ tên là A Dục còn các trẻ nhỏ đồng bạn, được làm quan đại thần; làm hưng long cho ngôi Tam Bảo phân phát Xá Lợi, xây tám vạn bốn ngàn ngọn tháp, khắp Châu Diêm Phù Đề cúng dàng ta.

Ngài A Nan vui mừng bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Đời quá khứ Ngài tu công đức gì, mà được phú báu nhiều tháp như thế? Cúi xin chỉ bảo cho chúng con được rõ?

- Phật dạy: - A Nan ông muốn biết hãy nghe cho kỹ ta sẽ nói cho hay!

- Dạ, lạy đức Thế Tôn con xin chú ý nghe!

- A Nan, thuở đời quá khứ đã xa xưa, có một ông vua nước lớn tên là Ba Tắc Kỳ, cai trị tám vạn bốn ngàn nước nhỏ, thời đó có đức Phật tên là Phất Sa ra đời. Nhà vua và nhân dân tôn sùng đạo Phật, thường ngày dâng lên bốn món cúng dàng thức ăn uống, áo mặc, giường tòa, thuốc thang rất trịnh trọng. Nhà vua nghĩ thầm như vầy:

- Đức Phật là phúc điền cõi nhân gian thiên thượng, ai trồng nhân lành gì được kết quả ấy, nhân dân nước ta thường được thấy Phật lễ Phật; cúng dàng Phật, còn các nước nhỏ ở xa xôi, nhân dân không biết nương đâu tu phúc, vậy ta hãy thuê người vẽ hình tượng Phật, ban phát cho các nước để cúng dàng cầu phước.

Nghĩ thế rồi gọi họa sĩ đến chốn Phật, nhìn vẽ cho đúng tướng của Ngài. Song họ vẽ mãi không thành. Sau đức Phật Phất Sa, Ngài sẽ tự vẽ lấy một kiểu để cho họ họa lại.

Các họa sĩ cứ thế phóng ra được tám vạn bốn ngàn bức rất đẹp, cũng giống như bức tranh Ngài vẽ.

Vua Ba Tắc Kỳ đem tranh ấy ban cho mỗi nước một bức, và truyền lệnh cho nhân dân các nước đem hương hoa âm nhạc nghinh thỉnh rước về.

Vua quan nhân dân các nước, tuy được bức tranh, nhưng lòng tôn kính cúng dàng như thấy đức Phật hiện tại không khác.

- A Nan ông nên biết: Vua Ba Tắc Kỳ thuở đó chính là tiền thân của ta đấy, do thời đó thuê một thợ vẽ tám vạn bốn ngàn hình tượng đức Phật Phất Sa, ban phát cho nhân dân các nước cúng dàng lễ lạy. Bởi công đức ấy đời đời được làm Đế Chúa trong cõi nhân thiên, sinh xứ nào thân thể cũng được đẹp đẽ tốt tươi, đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, đến nay thành Phật cũng do một trong công đức ấy; và sau khi vào Niết Bàn được quả báo tám vạn bốn ngàn tháp.

2. Chuyện ông lão già xuất gia (kinh Hiền Ngu)

3. Chuyện con trai trưởng giả keo kiệt ( trích kinh Nikaya)

Tại Xá-vệ có một Bà-la-môn tên là Adinnapubbaka, có nghĩa là "không cho", vì ông ta không hề cho ai vật gì. Ông có một đứa con trai duy nhất hết sức cưng quí. Ông muốn cho con một món đồ trang sức, nhưng biết rằng hễ giao thợ bạc chạm trổ thì phải trả tiền công, nên ông tự tay đập mỏng miếng vàng, gò thành một đôi hoa tai sáng bóng đeo cho con. Do đây mà con ông có tên là Matthakundali, nghĩa là Hoa Tai Sáng Bóng.

Lên mười sáu tuổi, con ông bị bệnh vàng da. Bà mẹ trông thấy nóng ruột, hối ông mời thầy thuốc đến chữa bệnh. Tuy thương con ông vẫn lừng khừng, không muốn đi, nên tìm cách thối thác với bà vợ:

- Bà à! Nếu gọi thầy thuốc đến, tôi phải trả công bằng lúa gạo, kho lẫm sẽ hao hụt. Bà sao không để ý đến việc bảo quản tài sản cho tôi chút nào!

Bà mẹ vẫn một mực lo lắng cho con:

- Vậy thì phải làm sao? Ông phải tính sao cho con tôi chớ?

- Yên chí! Tôi sẽ sắp xếp sao cho chẳng tốn xu nào.

Thế là ông đi đến từng thầy thuốc, tìm cách hỏi đon hỏi ren cho ra phương thuốc trị bệnh cho con ông:

- Này ông anh, nếu gặp một người bị bệnh như vầy.. như vầy..., thường thì ông trị liệu ra sao, cho uống thuốc gì?

Họ liền kể ra các thứ vỏ cây, tên cây, tên khác.. Thế là ông đi kiếm đủ thứ vỏ cây, lá rừng.. mang về sao chế thuốc cho con. Nhưng dầu làm hết cách, bệnh trạng đứa con càng ngày càng tệ.

 Cuối cùng hết phương cứu chữa, ông mời hẳn một thầy thuốc đến. Nhìn thấy chàng trai quá yếu, thầy thuốc khéo léo từ chối:

- Tôi đang bận một việc quan trọng, xin mời một vị khác đến chữa trị. Tôi rất tiếc.

Và ông vội vàng rời khỏi nhà.

Thấy con mình gần chết, tuy có đau buồn nhưng vẫn không quên tính keo kiệt, bo bo giữ của, ông ra lệnh mang con ra khỏi nhà, đặt nằm trên thềm, vì sợ những người đến thăm con mình sẽ dòm ngó luôn tài sản trong nhà.

Hôm ấy, từ sáng sớm, đức Thế Tôn đã xuất định Ðại Bi, và để tìm xem những ai có lập nguyện trong đời chư Phật trước, những người căn lành tròn đầy, những đạo hữu có thể xuất gia, Ngài quán sát với Phật nhãn mở rộng đến mười phương thế giới, và thấy Matthakundali đang nằm hấp hối ngoài thềm nhà. Ðấng Ðạo sư biết ngay là anh ta vừa từ trong nhà được khiêng ra đặt nằm đó, và cũng biết rằng anh ta có nhân duyên với Phật, đặt niềm tin nơi Phật, sẽ chết và sẽ tái sinh lên cõi trời thứ ba mươi ba, sống trong lâu đài bằng vàng, có một ngàn thiên nữ theo hầu. Bà-la-môn sẽ thiêu xác con, rồi đi quanh bãi thiêu khóc lóc. Vị trời sẽ tự ngắm mình thân cao ba dặm, được trang điểm với sáu mươi xe đầy ắp đồ trang sức, có ngàn thiên nữ vây quanh. Vị ấy thắc mắc không biết do công đức gì mà được quả báo thù thắng như thế, và rồi vị ấy biết là do tín tâm. Rồi vị ấy thấy cha mình trước đây không chịu lo thuốc thang cho mình, nay đang đi trong bãi thiêu than khóc. Vị ấy liền quyết định sẽ làm cho cha thay đổi tâm tánh.

Vị trời xúc động vì cha, sẽ hóa hình thành Matthakundali đi đến bãi thiêu, gieo mình xuống đất khóc lóc. Ông Bà-la-môn sẽ hỏi:

- Người là ai?

Vị trời sẽ trả lời:

- Là Matthakundali, con của cha.

- Con tái sinh ở đâu?

- Ở tầng trời thứ ba mươi ba.

Ông Bà-la-môn sẽ hỏi tiếp:

- Con làm công đức gì mà được?

- Nhờ tin Phật.

Người Bà-la-môn chưa tin hẳn, sẽ hỏi lại Thế Tôn:

- Có ai do tin Phật mà được sanh thiên không?

Thế Tôn sẽ đáp:

- Chẳng phải có hằng trăm, hằng ngàn hay hằng trăm ngàn mà vô số người đều được.

Rồi Thế Tôn sẽ đọc một đoạn Pháp Cú. Cuối đoạn Pháp Cú sẽ có tám vạn bốn ngàn người được Pháp nhãn thanh tịnh. Matthakundali sẽ chứng quả Dự lưu, cả Bà-la-môn Adinnapubbaka cũng chứng quả ấy. Như vậy nhờ chàng trai ưu tú này mà nhiều người được Pháp nhãn thanh tịnh.

Ðức Phật biết rõ như đã kể trên, nên hôm sau vệ sinh xong, Ngài đi giữa một đoàn Tỳ-kheo vào thành Xa-vệ khất thực, và trên đường đi Phật ghé nhà người Bà-la-môn. Lúc ấy Matthakundali đang nằm quay mặt vào nhà. Phật biết anh ta không trông thấy Ngài, bèn phóng một luồng hào quang. Chàng trai ngạc nhiên không biết là ánh sáng gì, quay mặt ra định hỏi thì nhìn thấy đức Phật, liền thưa thỉnh:

- Vì ông cha ngu xuẩn nên con không được ân huệ đến với đức Phật tôn quí, cũng không được hầu hạ Ngài, để bát hoặc nghe pháp. Giờ đây tay con cũng không nhúc nhích được, con chẳng làm gì được nữa!.

Nói vậy rồi anh ta đặt trọn lòng tin nơi Phật.

Ðức Ðạo sư hoan hỷ bảo:

- Vậy là đủ!

Và Ngài bước đi.

Khi đức Phật xa dần khỏi tầm mắt, chàng trai tắt thở trong tín tâm. Và như vừa ngủ dậy, chàng tái sinh vào cõi trời.

Sau đó người con từ trên trời hiện xuống khuyên người quy y Tam Bảo tu tập.

4. Chuyện vua Uư Điền tạc tượng Phật

5. Sự cảm ứng tạo tượng Đức Phật Thích Ca và Đức Phật A Di Đà được vãng sanh Tây Thượng ( trích trong bộ Tam bảo cảm ứng)

Thích Huệ Cảnh, người Truy Châu, xuất gia tu ở chùa Ngộ Chân. Sau khi thế phát, Sư gắng công khai giới khổ hạnh. Lòng mến cảnh Tịnh độ, Sư tạo hai tượng Thích ca và Di đà, hằng lễ bái cúng dường.

Đến lúc sáu mươi bảy tuổi, ngày rằm tháng giêng, Huệ Cảnh nằm mộng thấy một vị Sa môn thân sắc vàng ròng, bảo rằng:

- Ngươi muốn thấy Phật và cảnh Tịnh độ chăng?

Đáp:

- Thưa, từ lâu tôi rất ước mong được chiêm ngưỡng!

Sa môn trao bát cho và bảo:

- Hãy nhìn vào trong bát!

Huệ Cảnh tiếp lấy và nhìn vào, bỗng như lạc đến cõi khác, thấy cảnh Tịnh độ rộng rãi trang nghiêm, các thứ báu đẹp lạ. Đất toàn bằng vàng ròng, đường sá có dây vàng làm ranh giới. Cung điện lầu các trùng điệp không cùng tận, trong đó các thiên đồng vui vẻ nhàn du. Chúng Bồ tát, Thanh văn đông như mây, rộng như biển, hội lại vây quanh đức Thế Tôn nghe thuyết pháp.

Lúc đó, Huệ Cảnh thấy vị Sa môn đi trước, mình nối gót theo sau, lần tới chỗ Phật. Đến nơi, vị Sa môn bỗng biến mất. Huệ Cảnh chắp tay đứng trước kim dung, bỗng nghe Phật hỏi:

- Ngươi có biết vị Sa môn dẫn đường đó chăng?

Đáp:

- Bạch Thế Tôn! Con không được biết.

Đấng Từ Tôn bảo:

- Đó là Phật Thích ca Mâu ni, còn ta là Phật A di đà, hai vị mà người đã tạo tượng. Phật Thích ca như ông cha, ta như bà mẹ, chúng sinh ở thế giới Ta bà như con khờ dại thơ ngây, lầm rớt xuống bùn lầy. Cha vào nơi bùn sâu bồng con lên, để trên bờ cao ráo sạch sẽ, mẹ lại ôm con nuôi nấng, dạy bảo đừng nên trở lại chốn bùn nhơ. Chúng ta cũng như thế. Phật Thích ca dạy dỗ chúng sinh mê tối trược ác ở cõi Ta bà, làm vị mở đường dẫn lối về nơi Tịnh độ. Còn ta ở cõi Tịnh độ còn bổn phận nhiếp hóa, khiến cho các chúng sinh ấy không còn luân hồi thối chuyển.

Huệ Cảnh nghe nói vui mừng khấp khởi, muốn đến gần tham bái đức Thế Tôn, nhưng cảnh tượng bỗng biến mất.

Tỉnh giấc, Sư cảm thấy thân tâm an vui, như vào thiền định. Từ đó, Sư càng tin tưởng sự cúng lễ tượng hai đức Như Lai.

Một hôm, Huệ Cảnh lại mộng thấy vị Sa môn khi trước bảo:

- Hai mươi năm sau, ngươi sẽ sinh về Tịnh độ.

Nghe lời ấy, ngày đêm Sư lại thêm tinh tấn tu hành, không khi nào biếng trễ.

Đến năm tám mươi chín tuổi, một hôm nọ, Huệ Cảnh từ giã đại chúng, rồi an nhiên vãng sinh. Đang lúc ấy, có vị tăng ở phòng bên, nằm mộng thấy trăm ngàn Thánh chúng từ phương Tây đến rước Sư đi. Trên hư không, tiếng âm nhạc dìu dặt rồi xa nhỏ lần, nhiều người khác cũng được nghe biết.

6. Sự cảm ứng thờ họa tượng Đức Phật A Di Đà được vãng sanh Tây Thượng ( trích trong bộ Tam bảo cảm ứng)

Đời Tùy, Thích Huệ Hải, tục tánh họ Trương, gốc người ở Võ Thành, xứ Thanh Hà. Sau khi xuất gia, sư thường ngụ nơi chùa An Lạc tại Giang Đô. Tuy thông hiểu các kinh luận, sư không thích bàn diệu nói huyền, chỉ thành thật tu hành, lấy Tịnh độ làm nơi quy hướng. Hàng ngày, sư chuyên tịnh niệm Phật, được nhiều điều linh cảm.

Một hôm, có Tỷ kheo Thích Đạo Linh ở Tể Châu, đem một bức tượng cổ đến bảo:

- Đây là họa tượng đức A di đà Thế Tôn, Phật ở chính giữa, xung quanh là năm mươi vị Bồ tát, tất cả đều ngồi trên hoa sen. Tượng này khởi nguyên do một vị Bồ tát ở chùa Kê đầu ma bên xứ Thiên Trúc, dùng thần thông đến cõi Cực Lạc, mô tả lại kim dung để làm duyên tín hướng cho chúng sinh ở Ta bà. Bức tượng này là một trong các bức được truyền họa lại, nay tôi xin đem kính tặng.

Huệ Hải đã từ lâu tu Tịnh độ, lại được bức tượng ấy thật là thâm hợp với sở nguyện, tự nghĩ đây là một duyên lành. Vì thế, đối với bức tượng, Sư hết lòng thành kính cúng dường tôn phụng. Thường thường mỗi khi lễ sớm, nơi bức tượng bỗng chớp ra những tia thần quang sáng lạ. Thấy vậy, Sư càng tin tưởng, đem hết tâm tư họa lại một bức khác, nguyện nhờ công đức ấy sớm được thoát khổ, sinh về Tây Phương.

Năm sáu mươi chín tuổi, một đêm sau khi lễ sám, Sư đối trước tượng, ngồi kiết già trì niệm Phật thật lâu. Đến sáng thấy vẫn còn ngồi, chư tăng lại xem thì sư đã vãng sinh, gương mặt an hòa vui tươi như người còn sống.

7. Sự cảm ứng tạo tượng Đức Phật A Di Đà cao ba tấc của Thích Đạo Dũ ( trích trong bộ Tam bảo cảm ứng)

Đời Tùy, Thích Đạo Dũ ở chùa Khai Giác, chuyên tu Tịnh độ. Sư có tượng Phật A di đà bằng gỗ chiên đàn, cao ba tấc mộc. Mỗi khi hành đạo, Sư thường để tượng Phật ấy trên đầu.

Một hôm, Đạo Dũ bỗng tắt hơi, nơi ngực còn ấm, bảy ngày sau chợt sống lại bảo:

- Trước tiên, tôi thấy mình cùng một hiền giả vãng sinh đến một ao báu bên Tây Phương. Hiền giả đi nhiễu quanh hoa sen ba vòng, hoa liền nở ra, vị ấy bước vào ngồi chính giữa. Tôi cũng đi nhiễu quanh hoa sen ba vòng, nhưng hoa không nở. Tôi vuốt mở cánh hoa, hoa theo tay héo rụng. Lúc ấy, Phật A di đà bỗng xuất hiện đến bảo: “Ngươi còn tội chướng, hãy trở lại cõi Ta bà dùng nước thơm tắm gội và sám hối. Chờ lúc sao mai mọc ra ta sẽ đến rước. Nhưng tại sao ngươi tạo tượng ta lại quá nhỏ?”. Tôi đáp: “Tâm lớn Phật lớn, tâm nhỏ Phật nhỏ”. Đáp xong tượng Phật bỗng lớn đầy khắp hư không”.

Nói đoạn, Đạo Dũ nhờ tăng chúng nấu nước thơm. Sau khi tắm gội sạch sẽ, Sư đến trước Phật chí tâm sám hối cả đêm. Khi sao mai mọc, Đạo Dũ bạch chúng xin trợ niệm. Đạo chúng tề tựu đông đủ niệm Phật được một lúc, tất cả đều thấy kim quang sáng rỡ, hóa Phật từ Tây Phương đến tiếp rước.

Nhìn lại thì Đạo Dũ đã chắp tay vãng sinh. Lúc ấy, nhằm niên hiệu Khai Hoàng thứ tám.

8. Sự cảm ứng tạo tượng Đức Phật A Di Đà cứu được song thân (trích trong bộ Tam bảo cảm ứng)

Trương Ngươn Thọ, người ở Tinh Châu, tuy có tâm lành, nhưng sống về nghề sát sinh. Sau khi cha mẹ qua đời, ông dứt nghiệp sát, phát tâm niệm Phật. Vì muốn cứu độ song thân, ông tạo tượng Phật A di đà cao ba thước, để thờ nơi gian nhà cũ của cha mẹ ở. Hàng ngày, Ngươn Thọ đều trì niệm lễ bái, hương hoa đèn nến thường tiếp tục luôn.

Một đêm, sau thời khóa lễ, ông nằm mộng thấy trong nhà hào quang rực rỡ. Trong ánh sáng có hơn hai mươi người thân tướng cao đẹp ngồi trên đài sen. Hai người trong đó bay tới trước kêu:

- Trương Ngươn Thọ!

Ông hỏi là ai, thì đáp:

- Chúng ta là cha mẹ của con lúc sinh tiền. Chúng ta tuy biết niệm Phật, nhưng vì ưa rượu thịt, giết hại loài chim cá quá nhiều, nên khi chết đọa vào địa ngục Khiêu Hoán. Tuy đọa địa ngục nhưng nhờ sức niệm Phật, nước đồng sôi hóa thành mát mẻ. Hôm trước, có vị Sa môn thân vàng cao ba thước, đến thuyết pháp. Chúng ta cùng hơn hai mươi người đồng nghiệp nơi địa ngục đều được thoát khổ sinh về          Tây Phương. Do nhân duyên đó, chúng ta đến đây mách bảo cho con biết. Những vị ngồi đài sen đây là các vị đồng nghiệp được vãng sinh.

Nói xong, tất cả đồng bay về Phương Tây.

Tỉnh mộng, sáng ra Ngươn Thọ đến chùa đem việc ấy thưa hỏi. Một vị tăng bảo:

- Đó là do tâm hiếu kính tạo tượng của ông hiện thành sức cảm ứng, nên tượng Phật đến cứu thoát được các đồng nghiệp địa ngục, trong đó có lệnh từ nghiêm (nghiêm phụ, từ mẫu).

Công đức quy y Pháp bảo

1. Năm trăm chim nhạn nghe kinh được sanh cõi trời

Kinh Tạp bảo tạng ghi: “Nước Bát-già-la đem hiến vua Ba-tư-nặc năm trăm chim nhạn trắng. Nhà vua sai người đưa số chim ấy đến tinh xá Kì-hoàn. Cứ đến giờ ăn, thấy chư tăng bày thức ăn mới khất thực được ra, năm trăm con chim nhạn liền bay đến đậu trước mặt chư tăng. Khi ấy, Đức Phật dùng một ngôn ngữ thuyết pháp, nhưng bất kì loài nào nghe cũng đều hiểu cả. Bầy chim nhạn cũng hiểu lời Phật, nghe pháp Phật giảng, rất vui mừng, cùng hòa giọng hót vang, rồi bay về ao nước. Về sau, khi lông đã mọc dài, chúng bay đến nơi khác, bị thợ săn giăng lưới bắt giết hết cả. Khi bị bắt, một con nhạn cất tiếng thì cả bầy hòa theo hót vang những âm thanh mà chúng thường hót lúc nghe pháp. Nhờ tâm thiện ấy, bầy nhạn được sinh lên trời Đao-lợi làm các thiên tử.

Hễ sinh lên trời thì có ba điều phải nhớ nghĩ: nhớ nghĩ mình vốn từ đâu đến; nhớ nghĩ đến nơi mình muốn sinh về; nhớ nghĩ thân trước đã tạo nghiệp gì để nay được sinh lên trời.

Khi ấy, năm trăm vị thiên tử tự suy nghĩ thấy đời trước mình chẳng tu được nghiệp thiện gì ngoài việc ở cạnh Phật và chư tăng nghe giảng pháp. Nghĩ thế xong, họ liền cùng xuống cõi Diêm-phù-đề, đến chỗ Đức Phật nghe giảng pháp, tất cả đều chứng được quả Tu-đà-hoàn.

Thời ấy, vua Ba-tư-nặc thường đến chỗ Đức Phật, cũng thường trông thấy năm trăm con chim nhạn đậu trước Đức Phật. Hôm ấy, nhà vua không trông thấy bầy chim, bèn hỏi Đức Phật:

- Bầy nhạn hôm nay đã bay đi đâu?

Đức Phật nói:

- Bầy nhạn, đại vương muốn thấy đó đã bay đi nơi khác và bị thợ săn giết hết cả. Sau đó, chúng được sinh lên trời, nay chính là năm trăm thiên tử tuấn tú đội thiên quan đang ở đây. Hôm nay, họ nghe pháp và đều chứng được quả Tu-đà-hoàn.

2. Con chó nghe kinh chết được tái sanh làm người tu hành đắc đạo

Kinh Cựu tạp thí dụ ghi: “Ngày xưa, có một vị sa-môn tụng kinh suốt ngày đêm. Có một con chó thường nằm dưới gầm giường để hết tâm nghe kinh, quên cả việc ăn. Cứ như thế trong nhiều năm, sau khi chết, con chó được sinh làm người nữ, trong thành Xá-vệ. Lớn lên, cô gái ấy trông thấy một vị sa-môn đi khất thực, liền đem thức ăn đến cúng dường vị sa-môn. Về sau, cô gái xuất gia làm tì-kheo-ni, chứng được quả A-la-hán”.

3. Chim Anh vũ nghe pháp được sanh cõi trời

Kinh Hiền ngu ghi: “Ngày xưa, lúc Phật còn tại thế, trưởng giả Tu-đạt ở nước Xá-vệ là vị thí chủ kính tin Phật pháp. Ông ta cung cấp mọi thứ cần dùng cho chư tăng. Trong nhà ông Tu-đạt có hai con chim anh vũ; một con tên Luật-đề, con kia tên Xa-luật-đề. Chúng đều thông minh, hiểu tiếng người; hễ thấy tì-kheo đến nhà, chúng luôn báo trước để người trong nhà ra đón tiếp. Về sau, ngài A-nan đến nhà ông Tu-đạt, thấy hai con chim thông minh, bèn giảng cho chúng nghe pháp tứ đế. Nghe pháp xong, chúng bay lên cành cây trước nhà, vui vẻ tụng trì. Đêm ấy, chúng nghỉ trên cây, bị chồn ăn thịt. Nhờ căn lành ấy, chúng được sinh lên trời Tứ Thiên Vương; khi hết tuổi thọ ở đó, họ sinh vào cõi trời Đao-lợi; hết tuổi thọ ở trời Đao-lợi, họ sinh vào cõi trời Dạ-ma; khi hết tuổi thọ ở trời Dạ-ma, họ sinh vào cõi trời Đâu-suất; khi hết tuổi thọ ở trời Đâu-suất, họ sinh vào cõi trời thứ sáu Tha Hóa Tự Tại; khi hết tuổi thọ ở trời Tha Hóa Tự Tại, họ lại sinh vào cõi trời Hóa Lạc. Rồi lần lượt theo thứ lớp, họ sinh trở xuống đến cõi trời Tứ Thiên Vương; khi tuổi thọ ở trời này hết, họ lại lần lượt sinh trở lên đến cõi trời Tha Hóa Tự Tại. Trải qua bảy lần sinh lên và xuống như thế trong sáu cõi trời Dục, họ tự do hưởng sự vui sướng đến hết tuổi thọ, không bị chết yểu. Về sau, họ qua đời và sinh vào cõi người, xuất gia tu hành, thành Bích-chi phật; một vị tên Đàm-ma, vị kia tên Tu-đàm-ma”.

4. Một con chim nghe vị Tỳ Kheo tụng kinh chết được sanh cõi trời

Kinh Hiền ngu ghi: “Ngày xưa, lúc Phật còn tại thế, có một vị tì-kheo ở trong rừng, thường xuyên tụng kinh. Giọng tụng của vị ấy thật thanh thoát. Bấy giờ, có một con chim nghe tụng pháp, sinh lòng kính mến, thường đậu trên cây để lắng nghe. Một hôm, chim bị thợ săn bắn chết. Nhờ căn lành nghe pháp ấy, nó được sinh lên trời Đao-lợi, làm vị thiên tử có dung mạo xinh đẹp, hào quang rực rỡ không ai sánh bằng. Tự biết túc mạng của mình nhờ nghe tì-kheo tụng kinh pháp nên được sinh vào cõi trời này, vị thiên tử liền đến chỗ tì-kheo kia để cung kính lễ lạy, thăm hỏi, dâng hương và hoa trời cúng dường. Vị tì-kheo kia hỏi rõ và biết sự việc, liền bảo vị trời ấy ngồi xuống và giảng cho nghe pháp, khiến vị trời ấy chứng được quả Tu-đà-hoàn”.

Loài cầm thú nghe pháp còn được phúc báo vô biên, huống gì người tín tâm nghe pháp, lẽ nào không được quả báo lành.

5. Con Cóc nghe Đức Phật thuyết pháp chết được sanh cõi trời

Luật Thiện kiến ghi: “Thuở xưa, lúc còn tại thế, một lần Đức Phật đến bên ao Già-la ở nước Chiêm-ba-la giảng pháp cho mọi người nghe. Khi ấy, có một con cóc ở trong ao nghe tiếng Phật giảng pháp, bèn ra khỏi ao, chui vào bụi cỏ để nghe. Cùng lúc ấy, có một người cầm gậy chăn bò, thấy Đức Phật ở trên tòa giảng pháp, liền đến chỗ Đức Phật lắng nghe. Khi cắm gậy xuống đất để đứng nghe giảng, người ấy cắm nhầm vào đầu con cóc, khiến nó chết ngay tại chỗ. Con cóc liền được sinh lên trời Đao-lợi. Nhờ phúc báo, vị trời ấy được hưởng hạnh phúc cùng với các thiên nữ trong cung điện dài và rộng đến mười hai do-tuần. Vị trời ấy từ cung điện xuống đến chỗ Đức Phật, lạy sát chân Phật. Đức Phật đã biết nhưng vẫn hỏi:

- Ngươi là người ở đâu, sao có thần thông, tướng hảo và ánh sáng không ai bằng, chiếu đến chỗ này, lại bỗng nhiên lễ chân Ta?

Vị trời ấy đáp bằng kệ:

Ngày xưa là thân cóc,

Kiếm ăn trong ao nước,

Nghe tiếng Phật giảng pháp,

Con chui vào bụi cỏ.

Có một người chăn bò,

Cầm gậy đến nghe pháp,

Cắm gậy nhằm đầu con,

Con chết, sinh lên trời.

Khi vị trời nói kệ xong, Đức Phật giảng bài kệ ấy cho tứ chúng nghe. Bấy giờ, tám mươi bốn nghìn người đều được kiến đạo, vị trời chứng được quả Tu-đà-hoàn. Tất cả đều vui vẻ lui ra”.

6. Sự cảm ứng tu tập kinh Vô Lượng Thọ (trích trong bộ Tam bảo cảm ứng)

Đời nhà Tề, Đàm Loan là bậc tuấn sĩ, cảm thấy thế cuộc vô thường, đến tham phỏng Đào Ân Cư học về tiên thuật. Đào trao cho mười quyển Tiên Kinh, bảo đó là pháp trường sinh bất tử.

Trên đường về, Đàm Loan gặp một vị Phạm tăng là Bồ đề lưu chi. Trong khi trò chuyện, Đàm hỏi Phạm tăng:

- Trong đạo Phật, có pháp nào hay hơn kinh này chăng?

Bồ đề lưu chi mỉm cười, nói:

- Ở phương này làm gì có pháp trường sinh bất tử! Dù tu tiên được sống lâu, nhưng mãn kiếp cũng phải luân hồi trong ba cõi, nên không phải bất tử mà chỉ có trường sinh đó thôi!

Nói xong, Phạm tăng trao cho quyển kinh Quán Vô Lượng Thọ bảo:

- Đây mới chính là pháp trường sinh bất tử của đấng Đại giác kim tiên. Nếu y theo tu hành, sẽ sinh về Cực Lạc, được vĩnh viễn giải thoát không còn luân hồi nữa.

Đàm Loan hoan hỷ, đốt bỏ mười quyển Kinh Tiên rồi xuất gia, tu hành theo Quán Kinh.

Trải mấy mươi năm tu tập, lúc sắp viên tịch, Đàm Loan thấy Long Thọ Bồ tát đến nói kệ khai thị. Ngài liền bưng lò hương xoay mặt về Tây niệm Phật mà vãng sinh. Lúc ấy, đại chúng nghe giữa hư không có tiếng âm nhạc mầu nhiệm nổi lên, rồi lần lần xa ẩn về phương Tây.

Đời Lương, Đạo Trân pháp sư niệm Phật, y theo kinh Quán Vô Lượng Thọ, tu phép Thủy Quán. Đêm nọ, Sư nằm mộng thấy trên mặt nước mênh mang trong vắt, một con thuyền chở trăm người hướng về Tây Phương. Đạo Trân xin đi theo, người trên thuyền không cho và bảo:

- Sư chưa tụng kinh A di đà và làm nhà tắm cho chư tăng, tịnh nghiệp chưa thành nên không đi được.

Tỉnh giấc, pháp sư ghi nhớ, từ đó về sau thực hành y theo lời khuyên bảo.

Đến sau, Đạo Trân lại nằm mộng, thấy một vị nương tòa lâu đài bằng bạc bay đến vẫy tay nói:

- Tịnh nghiệp của Pháp sư đã viên thành, quyết định sẽ sinh về Tây Phương. Tôi đến đây báo trước, hãy khéo dụng tâm!

Khi lâm chung, đỉnh đầu Đạo Trân pháp sư nóng như lửa, mùi hương lạ bay khắp chùa. Hàng đệ tử soạn trong hòm kinh, tìm thấy di bút mới biết rõ sự việc.

7. Sự cảm ứng tụng kinh A Di Đà và Kinh Vô Lượng Thọ của Tỳ Kheo Tăng Cảm (trích trong bộ Tam bảo cảm ứng)

Tỷ kheo Tăng Cảm ở Tinh Châu, hằng tụng kinh Di đà Quán Vô Lượng Thọ, cầu sinh Tịnh độ. Đêm nọ, Sư nằm mộng thấy thân mình sinh ra hai cánh, cánh bên trái đầy văn kinh Quán Vô Lượng Thọ, cánh bên phải hiện văn kinh A di đà. Tâm niệm khởi động chớp cánh muốn bay lên, nhưng thân còn nặng chưa bay được.

Tỉnh giấc, Sư càng tin tưởng, chuyên tụng hai thứ kinh ấy. Ba năm sau, lại nằm mộng thấy cánh đã dài, bay lên được nhưng chưa đi xa. Trì tụng thêm hai năm nữa, trong giấc mộng, Sư cảm thấy thân nhẹ nhàng bay đi tự tại, liền cất mình lên hư không bay về Tây Phương. Đến một cảnh giới tốt đẹp trang nghiêm. Tăng Cảm gặp Phật và hai vị Bồ tát bảo:

- Sức tụng kinh của người chỉ đến được biên địa cõi Tịnh độ. Vậy ngươi hãy trở về Ta bà, tụng mỗi ngày bốn mươi tám quyển, ba năm sau sẽ sinh lên thượng phẩm ở Cực Lạc.

Tỉnh mộng, Sư y theo lời dạy tu hành, ba năm sau quả nhiên được vãng sinh.

Khi sư viên tịch rồi, chỗ nằm bỗng mọc lên chín đóa hoa sen, bảy ngày vẫn còn tươi đẹp.

Công đức quy y Tăng Bảo

1. Vị quốc vương lễ lạy chư Tăng

Kinh Cựu tạp thí dụ ghi: “Ngày xưa, có vị quốc vương đi tuần du, mỗi lần gặp sa-môn, liền vội xuống xe đỉnh lễ. Có một đạo nhân bảo:

- Đại vương hãy thôi đi! Không cần bước xuống xe!

Nhà vua nói:

- Ta bước lên đấy chứ, đâu có bước xuống. Sở dĩ ta nói bước lên, không phải là bước xuống là bởi nay lễ đạo nhân, sau khi qua đời, ta sẽ sinh lên trời”.

3. Vua A Dục lễ lạy vị Sa Di bảy tuổi

Kinh A-dục vương ghi: “Ngày xưa, có lần trông thấy một sa-di bảy tuổi, vua A-thứ-già muốn đưa chú sa-di đến chỗ khuất để lễ, bèn bảo:

- Chú đừng nói với mọi người rằng ta lễ chú nhé!

Lúc ấy, trước mặt có một cái bình đựng nước, chú sa-di liền chui vào đó, rồi lại chui ra, bảo:

- Đại vương đừng nói với ai rằng có sa-di chui vào, chui ra từ bình dựng nước nhé!

Nhà vua liền nói:

- Ta sẽ nói cho mọi người biết. Đừng trốn nữa!”

Vì thế, các kinh đều ghi: “Sa-di tuy còn nhỏ nhưng mọi người cũng không nên xem thường. Con vua tuy còn bé, nhưng mọi người cũng không nên xem thường. Rồng con tuy còn bé, nhưng mọi người cũng không nên xem thường. Sa-di tuy còn bé, nhưng có thể độ được mọi người. Con vua tuy còn bé, nhưng có thể giết được người. Rồng con tuy còn bé, nhưng có thể tạo mây, làm mưa, sấm, chớp. Đừng thấy họ bé mà xem thường!”.

4. Vua A Dục quy kính Tam Bảo

Kinh Phó pháp tạng ghi: “Xưa kia, sau khi Phật vào niết-bàn được một trăm năm, có vua A-dục kính tin tam bảo, thường tổ chức đại hội Ban-già vu-sắt. Đến ngày hội, nhà vua tắm rửa bằng nước thơm, mặc áo mới, lên lầu cao, đỉnh lễ bốn phương và thỉnh chư tăng. Có hai mươi vạn thánh tăng bay đến. Lòng tin sâu xa của vua thật khó lường. Gặp sa-môn, dù già hay trẻ, dù phàm hay thánh, nhà vua đều đón tiếp, thăm hỏi và cung kính lễ lạy. Bấy giờ, có một vị quan tên Dạ-xa mang tà kiến nặng, không có lòng kính tin. Thấy nhà vua lễ lạy chư tăng, ông ta nói: “Nhà vua thật không có trí tuệ, tự hạ thấp thân tôn quí đức độ, lễ lạy trẻ con”. Nghe lời ấy, nhà vua liền ra lệnh cho các quan cho người tìm đầu thú vật đã chết, mỗi vị dâng một đầu thú. Riêng Dạ-xa, vua sai tìm một đầu người. Sau khi mọi người tìm được đầu, vua lại ra lệnh họ mang ra chợ bán. Tất cả các đầu thú đều bán được. Nhưng cái đầu người Dạ-xa cầm, ai trông thấy cũng ghét bỏ, khinh chê, chẳng ai mua. Qua mấy ngày sau, cái đầu người ấy sắp thối. Mọi người trông thấy đều mắng chửi Dạ-xa và nói:

- Ông hiện nay không phải là hạng người chiên-đà-la, hoặc dạ-xoa, hay la-sát, tại sao ông lại tìm đầu người để bán?

Sau khi bị mắng chửi, Dạ-xa vào cung tâu:

- Đi bán đầu người, thần bị nhiều người chửi mắng! Không có ai muốn nhìn đầu người, huống gì mua.

Nhà vua bảo:

- Nếu không có ai mua, ông hãy cho không đi!

Vâng lời vua, Dạ-xa lại đem đầu người ra chợ, bảo mọi người:

- Người nào không có tiền để mua sắm thì tôi cho không cái đầu này.

Người đi chợ nghe thấy thế, lại càng mắng chửi Dạ-xa thậm tệ hơn, chẳng ai chịu lấy cái đầu. Dạ-xa hổ thẹn, trở về cung vua, chắp tay tâu:

- Cái đầu này thật khó bán. Thần cho không cũng không ai lấy, ngược lại, còn bị mắng chửi!

Nhà vua hỏi Dạ-xa:

- Vật gì quí nhất?

Dạ-xa thưa:

- Người quí nhất.

Nhà vua hỏi:

- Nếu quí, tại sao bán không được?

Dạ-xa đáp:

- Người sống tuy quí, nhưng chết rồi thì rẻ mạt.

Nhà vua lại hỏi:

- Nếu ta chết, đầu ta cũng rẻ mạt như thế chăng?

Dạ-xa hoảng sợ, không dám trả lời.

Nhà vua liền bảo:

- Ta cho phép, ngươi đừng sợ, phải trả lời thành thật!

Sợ hãi, không dám ngửng đầu lên, dạ-xa đáp:

- Nếu đại vương chết thì đầu ngài cũng  rẻ mạt như cái đầu này.

Nhà vua hỏi tiếp:

- Nếu ta chết thì đầu ta cũng giống như cái đầu hèn mạt này. Thế thì, tại sao ngươi ngạc nhiên về việc ta lễ kính chư tăng? Nếu ngươi đúng là bạn tốt của ta, phải nên khuyên ta đem cái đầu mong manh đổi lấy cái đầu bền chắc. Tại sao nay ngươi ngăn cản ta lễ lạy chư tăng?

Nghe vua nói thế, Dạ-xa mới hối hận, tự trách mình, bỏ tà kiến, theo chính kiến, qui kính tam bảo.

Vì nhân duyên ấy, chúng sinh nào được nghe hoặc thấy tam bảo, phải nên chí tâm cung kính lễ bái”.

5. Sự cảm ứng tạo tượng Đại Thế Chí Bồ Tát

Cha của ông Lý Triệu Đải, người huyện Du ở Ung Châu, nhân hủy báng Phật pháp, mộng thấy thần quở trách, mang bệnh thổ huyết rồi chết. Triệu Đài kính thành quy y Đại Thế Chí, niệm danh hiệu Phật, Bồ tát cầu nguyện cho cha. Ông lại thuê thợ giỏi tạo kim thân đức Đại Thế Chí cao ba thước để cúng dường. Ngày khởi công, đất khắp nơi bỗng rung chuyển, nhiều người cho là cơn địa chấn, luận bàn tốt xấu phân vân. Hai tháng sau tượng thành, Triệu Đải mộng thấy một vị kim thân, đầu đội bảo quan, đến nói:

- Ta là Đại Thế Chí Bồ tát. Ngươi có biết nguyên do cơn động đất hôm trước chăng? Đó là do ngươi phát nguyện tạo tượng, ta đến đây để chứng minh, khi đặt chân xuống thế giới này, cõi đại thiên rung động, chúng sinh trong đó đều được thoát khổ. Ta y theo môn niệm Phật chứng vào Vô sinh nhẫn, nhiếp thủ chúng sinh niệm Phật ở mười phương. Ngươi tạo tượng ta lại niệm Phật, nên ta đã cứu cha ngươi thoát khỏi địa ngục, đưa về Tịnh độ.

Lý Triệu Đải nghe nói, chắp tay chiêm ngưỡng Bồ tát, vừa muốn cúi xuống đảnh lễ, bỗng giật mình thức giấc. Ông vừa vui mừng vừa cảm động, từ đó chuyên niệm Phật không biếng trễ.

6. Con tạo tượng Địa Tạng cha mẹ được sanh cõi trời

Hồi triều nhà Đường, có thiếu phụ họ Tổ, là vợ của quan Thứ sử ở Phủ Châu, 1 lòng chí thành quý kính đức Địa tạng, dầu có việc gì phiền não thế nào, cũng không sao lãng tâm niệm.

Cha mẹ nàng lại khác, có tánh khinh Tăng, báng Phật, cho rằng đám tăng ni hủ bại, truyền nhiễm sự mê tín cho dân, ngăn cản con đường tiến hóa của nhân loại.

Nàng thấy vậy càng buồn, song không biết làm sao mà giải phá sự cố chấp của cha mẹ, đành làm thinh, để cho cha mẹ được vui lòng trong khi tuổi già sức yếu.

Nàng bớt ăn nhín mặc mỗi ngày 1 ít, để dành được 1 số tiền kha khá, rồi nàng mướn tay thợ thiệt khéo đúc 1 pho tượng đức Địa Tạng, bề cao 3 thước, sau đó thếp vàng để lễ bái cúng dường, cầu cho cha mẹ về sau được phần phước lạc.

Một  hôm, vì có việc nên cha nàng phải đi xa, để mình mẹ nàng ở nhà cai quản gia vụ.

Bọn gia nhân ở xóm đó dọ biết trong nhà không có đàn ông, nên đêm chúng đến rình nhà, toan trộm vàng bạc của cải, song dòm vô lỗ vách, chúng thấy đức Địa Tạng ngồi trang nghiêm trên bàn, hào quang chói sáng như ban ngày, làm cho bọn trộm hoảng kinh chạy về, không kịp vào lấy vật chi cả.

Qua ngày sau, chúng giả vờ đi chơi rồi tiện ghé nhà bà hỏi thăm các việc, thấy bà ngồi trên ván, vui vẻ nói cười, thì lấy làm ân hận, bèn đem chuyện định vào nhà trộm vật cùng chuyện thấy Phật hiện hình, mà thuật cho bà nghe và xin chịu tội.

Bà ngồi suy nghĩ 1 lúc lâu, cũng không hiểu nguyên nhân vì đâu mà điều dị thường ấy. Rồi bất giác bà rùng mình run sợ, thầm lo ăn năn các việc hồi trước và nói với bọn trộm rằng:

 Các ngươi thấy ta già yếu ở nhà 1 mình, muốn thừa dịp trời tối, vào nhà lấy của. Song phần tôi chưa mất của nên Phật không cho. Vậy thì các ngươi có lòng quấy, chớ không tội trạng gì. Và cũng chưa làm thiệt hại cho ta nên ta có thể không câu chấp”.

Bọn ấy nghe bà nói như vậy ngỏ lời tạ ơn, rồi từ giã ra về, không làm nghề ăn trộm nữa.

Việc đó xảy ra chưa được bao lâu, kế có việc khác nữa.Cha của nàng ấy lúc thân hành qua Phủ châu thì gặp kẻ thù đón giữa đường mà chém. Ông luýnh quýnh không biết đường nào lánh nạn. BỖng thấy 1 vị sa môn khoác áo vàng xuất hiện. Vị sa môn vì giúp ông mà bị chúng chém ngã nằm trên vũng máu. Bọn hung thủ tưởng đâu đã sát hại được ông, nên mạnh ai nấy co giò chạy trốn. Ông thấy sự ấy thì kinh sợ và ghi khắc trong lòng, trở về nhà bèn thuật lại cho con gái nghe việc mình bị kẻ thù đón đường chém và nhờ đâu mà thoát chết. Rồi bảo con dẫn mình đến trước pho tượng đức Địa Tạng bằng vàng để lạy tạ ơn lành, sám hối bao nhiêu tội trước đây. Khi đến gần, ông thấy trên đầu tượng có 3 vết thương như có máu chảy, nên ông càng phát tâm tin Phật hơn nữa.

Nàng thấy vậy, mới hay nhờ đức Địa Tạng chịu thế mấy đao cho cha mà được thoát nạn. Nên bội phần cảm ân đức Phật. Khi ấy lòng nàng cũng hân hoan vô hạn.
Lớp mừng vì cha khỏi sự tai nguy. Lớp vui vì từ nay cha mẹ đã tin Phật có oai linh nhiệm màu. Khiến cho cả gia đình có thể quy đầu về Phật pháp và nhờ phần siêu thoát về sau.

Hôm sau nàng sau gia nhân đi rước mẹ về dinh thự của vợ chồng mình. Rồi cả 3 phát nguyện trước tượng đức Địa Tạng xin giữ giới tu tại gia, sớm tối lo cúng dường lễ bái, không dám trễ nãi.

Đến năm thân phụ nàng được 79 tuổi mà không hề mệt mỏi, đau ốm, cứ chuyên tâm niệm Phật tụng kinh, rồi 1 ngày tự nhiên không bệnh mà mất. Lo chôn cất cho cha xong, nàng lại niệm hồng danh của đức Địa Tạng mà cầu cho vong linh cha được tiêu diêu nơi Thiên quốc.

Đúng 35 ngày sau, nàng chiêm bao thấy thân phụ ngao du nơi cõi hư không, toàn thân có hào quang sáng ánh. Nàng vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, cúi đầu đảnh lễ và hỏi rằng: “Thân phụ sanh về cõi nào?”

Ông đáp lại rằng:

Nhờ từ bi oai lực của đức Địa Tạng bồ tát gia bị nên cha đã sanh lên cõi trời thứ 4 mà phụng sự đức Di Lặc. Những người sanh về cõi đó, phần nhiều được nhờ sức dẫn đạo của đức Địa Tạng bồ tát cả, Và 13 năm sau, mẹ của con cũng được vãng sanh về đó. Còn con thì 25 năm sau, chồng con lối 28 năm nữa nhân duyên kết thúc rồi cũng sẽ được vãng sanh về cõi trời thứ 4 mà đồng sự đức Di Lặc như cha vậy”.

Ông nói dứt lời thì ẩn thân, nàng giật mình thức dậy, nhưng vẫn giữ kín việc ấy, chưa đem ra mà tỏ thuật cho ai nghe và để xem quả như điềm chiêm bao ấy hay không, rồi sẽ nói cho nhiều người biết, khi ấy cũng chẳng muộn. Quả ý như điềm mộng, 13 năm sau, thân mẫu nàng cũng không bệnh mà ly trần. Nàng mới đem điềm mộng năm nọ thuật lại cho chồng cùng lối xóm nghe, ai cũng đều tin là thật. Mãi đến 25 năm sau, nàng mới ly trần. Và 28 năm sau, thì chồng nàng cũng theo cùng. Từ ấy, dân chúng trong châu ấy càng tin Phật bội phần. Họ đua nhau vẽ tượng đức Địa Tạng mà phụng thờ và trì niệm hồng danh của ngài ( NAM MÔ ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT), rồi cũng được nhiều sự cảm ứng.

7. Niệm Bồ Tát Quán Thế Âm được thoát nạn trên biển cả

   Gia đình tôi gồm có bảy người, hai vợ chồng và năm đứa con nhỏ cùng vượt biển trên một chiếc thuyền nhỏ đánh cá với năm mươi hai người cùng xóm. Chổ khởi hành là cửa biển Thuận An, Huế vào tối hai mươi tháng tư âm lịch năm1979.

Ðó là một đêm tối trời và đầy kinh hãi, vì chúng tôi vừa cho tàu khởi hành vừa được bốn mươi phút thì bị tàu biên phòng Bình Trị Thiên phát giác và đuổi bắt. Chúng tôi ai cũng hoảng sợ, không còn đủ bình tĩnh để tính toán và nghĩ rằng, phen này tất cả đều bị bỏ tù, vì đây là lần vượt biên thứ ba bị phát giác của chúng tôi.
Trong khi nhiều người đang bối rối thì bác Tư Hiền, chủ bán tiệm vải ngày trước ở chợ Ðông Ba, hô to như ra lệnh cho mọi người trong tàu yên lặng, và bác bảo mọi người chắp tay thành kính niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Không ai bảo ai, mọi người răm rắp niệm Nam Mô Cứu Khỏ Cứu Nạn Linh Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát râm lên cả một góc trời, theo sự hướng dẫn của bác Tư Hiền giữa sóng nước mênh mông. Lạ thay, thình lình một cơn mưa nặng hạt đổ xuống tầm tã trên biển cả. Trong màn đêm dày đặc, sấm chớp nổi lên giữ dội, thét gào như cơn thịnh nộ của những vị hung thần. Kỳ diệu thay, trong lúc đó con tàu nhỏ của chúng tôi chạy vi vút như tên bay, hướng ra khơi bởi một sức mạnh phi thường nào đó, ngoài sự kiểm soát tay lái của tài công. Tài công hôm đó là anh Thông và tôi là người phụ tá cùng chấm địa bàn tay lái của anh. Cùng trong lúc ấy anh cảm thấy như đang rơi vào trong giấc ngủ, nằm kê đầu trên một thác nước chảy róc rách trên một sườn núi. Ở đây có nhiều khóm trúc và trên các cây cổ thụ xinh đẹp, treo sà xuống nhiều giò phong lan đủ màu, tỏa hương thơm ngát.

Trong khi đó, tiếng mọi người trên tàu vẫn tiếp tục niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Ước độ mười phút sau, thì tàu chúng tôi vượt ra khỏi hải phận của công an kiểm soát biên phòng mà chúng tôi không hề hay biết. Thoát nạn, con tàu nhỏ của chúng tôi chạy thẳng vào đảo Hải Nam chỉ hơn bốn ngày sau. Thức ăn nước uống trên tàu còn hơn một nữa, vì vật thực chúng tôi chuẩn bị cho mọi người có thể sống đến ba tuần lễ trên đường lánh nạn.

Khi tàu ra khỏi hải phận, chúng tôi những người cùng đi hôm đó tôn bác Tư Hiền là mẹ đỡ đầu tinh thần. Bác Tư Hiền khiêm tốn không chịu, nhưng vì chúng tôi năn nỉ và trình bày chi tiết về sự quan trọng của đời sống tâm linh, nên bác Tư Hiền vui vẻ nhận lời. Mà bác Tư Hiền làm mẹ đỡ đầu tinh thần cho chúng tôi là xứng lắm, vì bác đã trên sáu mươi tuổi, vóc dáng phương phi, nụ cười hoan hỷ, lời nói lúc nào cũng từ tốn, sắc sảo và đầy trìu mến. Hơn nữa, bác Tư Hiền đã quy y Tam Bảo năm giới, và thọ thập thiện, và thọ Bồ Tát Giới với hòa thượng Quy Thiện từ lúc bác mới ba mươi mốt tuổi. Hòa thượng đặt cho bác cái pháp danh là Thiện Yên. Vị bổn sư không phải đặt pháp danh cho bác theo dòng kệ mà đặt theo tâm địa hiền lành và bình yên của bác. Về sau chúng tôi thường gọi bác là cụ Thiện.
Cụ Thiện Yên đã ăn chay trường trên ba mươi năm kể từ ngày thọ Bồ Tát giới. Hằng ngày cụ thường trì tụng kinh Pháp Hoa, mà phẩm Phổ Môn cụ nằm lòng như kinh tụng mỗi ngày. Cụ không những tự mình tu hành tinh tấn, mà lúc nào cũng vui vẻ khuyên bảo con cháu, người xa kẻ gần, làm lành lánh dữ. Vì cụ Thiện Yên là người đỡ đầu tinh thần cho chúng tôi nên chúng tôi đều lắng nghe lời dạy của cụ là phải ăn chay mỗi tháng sáu ngày và cách tu tập hàng ngày là lấy yếu chỉ kinh Phổ Môn làm đề mục trì tụng, sống theo hạnh từ bi, lợi người, cứu khổ của đức Quán Thế Âm Bồ Tát.

Cụ Thiện Yên sống với đứa cháu nội làm nha sĩ ở bên Thụy Sĩ. Chúng tôi cả nhà may mắn được tàu Cao Ủy đưa về Hồng Kông tạm trú sáu tháng, và sau đó được chú em bảo trợ qua Mỹ, đã có nhà ở tại một thành phố nhỏ cận Monterey, tiểu bang Calofonia.

Gia đình chúng tôi mua vé máy bay mời cụ Thiện Yên, bà mẹ đỡ đầu tinh thần của chúng tôi qua Mỹ thăm hai lần. Cụ Thiện Yên cũng có đi Pháp, Cannada, đi Úc… thăm bởi những đứa con tinh thần của cụ bảo trợ tài chánh.
Chúng tôi đến Mỹ và thỉnh tượng đức Quán Thế Âm Bồ Tát về thờ ngay trong nhà. Trong nhà mỗi tuần tụng kinh Phổ Môn một lần và hàng ngày mỗi người đều trì niệm danh hiệu đức Phật A Di Ðà và đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Chúng tôi hết lòng tri ân và kính trọng cụ Thiện Yên như hình ảnh của một vị Bồ Tát, vì không những nhờ ảnh hưởng tu hành của cụ mà chúng tôi được thoát nạn; xa hơn, chính nhờ sự hướng dẫn của cụ mà cả gia đình chúng tôi biết hòa hợp, biết thương yêu và đùm bọc lẫn nhau một cách tốt đẹp trong nếp sống mới.

Quảng Ðại

Nguyễn Thanh Hậu kể




C. Kết Luận.

          Tam Bảo là ba ngôi báu quý để chúng ta trỡ về nương tựu tu tập thoát khỏi sanh tử khổ đau. Chúng ta đã đi lang thang, trôi nổi trong trần lao sanh tử vô lượng vô số kiếp rồi, nếu tính đếm số kiếp mà chúng ta trôi lăn trong luân hồi sanh tử thì không thể nào tính hết nên trong kinh nói “vô thỉ vô chung”.

          Trong sự sanh tử, chúng ta luân hồi trong ba cõi sáu đường, trong tam đồ lục đạo, dù có lúc chúng ta sanh trong cỏi trời người hưởng phước nhưng nó vẫn nằm trong cảnh hành khổ và hoại khổ, chưa nói những khi chúng ta sanh vào tam đồ ác đạo thì sự đau khổ không thể nào tả hết, trong kinh nói “nước mắt của chúng sanh nhiều hơn biển cả”, câu kinh này cho chúng ta biết được cái khổ của chúng sanh nhiều như thế nào rồi vậy.

          Chúng ta đã chịu quá nhiều đau khổ trong biển khổ sanh tử, thôi bây giờ chúng hãy hồi đầu, hãy quay về, hãy cùng nhau lên thuyền Bát Nhã để đi đến bến giác an vui. Thuyền Bát Nhã chính là Tam Bảo là ba ngôi báu để chúng ta quy y, nương tựu, tu tập hầu sớm thoát khỏi trần lao sanh tử khổ đau.