QUY Y – TAM BẢO
A. Mỡ đề.
Trong kinh Pháp Hoa phẩm Phương Tiện có ví dụ “gã cùng tử”.
Có vị trưởng giả giàu có, có một đứa con, đứa con còn nhỏ dại ham vui chơi nên
trốn cha đi chơi, sau đó bi thất lạc ở xứ người. Từ đó cuộc đời của đứa bé phải
chịu cảnh nghèo cùng khốn khổ lang thang đầu đường xó chợi cơm không đủ ăn, áo
không đủ mặc, thân thể triều tuỵ bệnh tật thật là bi thảm.
Gã cùng tử trong kinh Pháp Hoa dụ
cho chúng sanh, chúng ta. Chúng ta do vô minh điên đảo, do ham vui ngũ dục lục
trần mà dong ruổi trong trần lao sanh tử luân hồi đau khổ bất tận này. Bây giờ tỉnh
ngộ mới biết mình quá khờ dại và quyết định hồi đầu, quyết định tìm con đường giải
thoát. Con đường để chúng ta giải thoát
ra khỏi sự ngu si sanh tử khổ đau đó chính là con đường Quy y Tam Bảo vậy, vì
chỉ có Tam Bảo mới cứu chúng sanh, chúng ra ra khỏi sanh tử đến bờ giải thoát
mà thôi.
B. Chánh đề.
I. Giải thích từ Quy y Tam Bảo
1. Quy y
Quy là trở về, Y là nương tựa.
Từ vô thỉ kiếp đến nay chúng ta do vô minh điên đảo nên trôi lăn trong sanh tử
luân hồi, trong trần lao phiền não chịu nhiều khổ đau. Hôm nay chúng ta giác
ngộ hồi đầu trỡ về Tam Bảo, nương tựa Tam Bảo tu tập để thoát khỏi sanh tử luân
hồi, trần lao phiền não.
2. Tam Bảo: Tam bảo là ba
ngôi báu gồm Phật, Pháp, Tăng.
a.
Phật
Phật có ba nghĩa
là Tự giác, Giác tha và Giác hạnh viên mãn.
Tự giác: Phật là bậc giác ngộ hoàn toàn, Ngài đã
dứt sạch vô minh, phiền não, nghiệp chướng, không còn sanh tử luân hồi.
Giác tha: Giác tha là chỉ dạy, giáo hóa mọi loài chúng
sanh. Chư Phật từ khi mới phát Bồ Đề tâm cho đến ngày thành Phật, từ ngày thành
Phật cho đến ngày nhập Niết Bàn, trong khoảng thời gian này, các Ngài luôn luôn
làm hạnh lợi tha giáo hóa chỉ dạy chúng sanh bỏ ác làm lành, dạy chúng sanh tu
tập để được giác ngộ như mình. Công hạnh lợi tha của chư Phật rất vĩ đại. Như
Đức Phật A Di Đà, Ngài phát 48 lời đại nguyện làm lợi ích chúng sanh v.v…
Giác hạnh viên mãn: Nghĩa là công hạnh tu tập,
công hạnh giáo hóa cứu độ chúng sanh các Ngài đã làm đầy đủ, viên mãn.
b.
Pháp
Pháp là những lời chỉ dạy của
Phật, chư Bồ Tát, chư Hiền Thánh Tăng được kết tập lại thành Tam tạng kinh điễn
là Kinh Luật và Luận có công năng đưa chúng sanh giải thoát sanh tử luân hồi.
Kinh: là lời chỉ dạy của Phật hay những lời dạy của chư Hiền Thánh Tăng
được Phật chứng minh kết tập lại.
Luật: là những điều răng cấm của Phật chế ra cho Phật tử hành trì bỏ ác
làm lành.
Luận: là những lời luận giải Kinh của chư Hiền Thánh Tăng làm cho mọi
người dễ hiểu.
c. Tăng
Tăng
là đoàn thể người xuất gia thọ Tỳ kheo giới từ bốn vị trỡ lên tu tập trong tinh
thần hòa hợp thanh tịnh.
3. Quy y Tam Bảo là thế nào?
Quy-y Tam-bảo là trở về nương
tựa ba ngôi báu: Phật, Pháp, Tăng.
Tại sao phải Quy-y Phật? - Vì Phật là đấng hoàn toàn
sáng suốt, từ bi vô lượng, phước huệ vô biên, đức hạnh viên mãn; - Vì Phật là
người dẫn đường vĩ đại nhất, đã có cái kinh nghiệm bản thân thoát ra ngoài vòng
sanh tử để chứng Ðạo.
Tại sao quy-y Pháp? - Vì chỉ có phương pháp của
Phật là đầy đủ công năng để đưa chúng ta qua khỏi bể khổ, đến bờ giải thoát.
Tại sao lại quy-y Tăng? - Vì Tăng là người đã hy sinh
gia đình, tiền của, danh vọng... để tình nguyện theo Phật dắt dẫn chúng sanh
trên đường Ðạo.
II. Ba bực Tam Bảo
Tam Bảo có ba bực: Ðồng thể Tam bảo, Xuất thế gian Tam bảo, Thế gian trụ trì
Tam bảo.
1. Ðồng Thể Tam Bảo
a. Ðồng Thể Phật Bảo:
tức là nói tất cả chúng sanh cùng chư Phật đồng
một thể tánh sáng suốt.
b.
Ðồng Thể Pháp Bảo: tức là nói tất cả chúng sanh cùng chư
Phật đồng một pháp tánh từ bi bình đẳng.
c. Ðồng Thể Tăng Bảo:
tức là nói tất cả chúng sanh cùng chu Phật đồng một thể tánh thanh tịnh, sự, lý
hòa hợp.
2. Xuất Thế Gian Tam Bảo
a. Xuất Thế Gian Phật Bảo:
là chỉ cho Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, Ðức Phật A-Di-Ðà, Chư Phật trong mười phương
ba đời, đã tự giải thoát ra khỏi sự ràng buộc của thế gian.
b. Xuất Thế Gian Pháp Bảo: là chỉ cho Chánh pháp của
Phật, có công năng làm cho chúng sanh thoát khỏi sự ràng buộc của thế gian, như
Tứ-đế, Thập-nhị nhân-duyên, Lục -độ v.v...
c. Xuất Thế Gian Tăng Bảo:
là chỉ cho các vị Thánh-Tăng đã thoát ra ngoài sự ràng buộc của thế gian như
đức QuánThếÂm, Ðại Thế Chí, Văn Thù, Ca-Diếp, A-Nan v.v...
3. Thế Gian Trụ Trì Tam Bảo
a. Thế Gian Trụ Trì
Phật Bảo: là
chỉ cho Xá Lợi của Phật, tượng Phật đúc bằng kim khí, chạm trổ bằng danh mộc,
tô bằng đất, đắp bằng xi măng, thêu bằng vải, hay vẽ trên giấy.
b. Thế Gian Trụ Trì
Pháp Bảo: là
chỉ cho ba tạng Giáo điển: Kinh, Luật, Luận
viết hay in trên giấy, trên vải trên lá buôn v.v...
c. Thế Gian Trụ Trì Tăng Bảo: là chỉ các vị TỳKheo, Tỳ Kheo Ni
tu hành chơn chánh, đạo đức trong sạch, giới luật trang nghiêm trong hiện tại.
III. Sự Quy y Tam Bảo
Sau khi đã hiểu rõ thế nào là
Quy-y Tam bảo, tất nhiên phải thực hành sự hiểu biết ấy.Thực hành bằng sự tướng
cung kính, vâng theo Tam-bảo, như thế gọi là sự quy-y Tam-bảo.
1. Sự Quy-Y Phật: Hằng ngày chúng ta phải nhớ tưởng luôn
đến Phật, niệm danh hiệu Phật, chiêm ngưỡng tượng Ngài, và nguyện suốt đời theo
bước chân Ngài, ấy là sự quy-y Phật.
2. Sự Quy-Y Pháp:
Hằng ngày tụng đọc Kinh, Luật, Luận; sớm hôm hai thời công phu, tìm hiểu nghĩa
lý thâm huyền của Pháp bảo. Khi đọc tụng Kinh điển tâm trí ta không nghĩ xằn
bậy, không nhớ tưởng những việc không hay, không bàn mưu tính kế để lợi kỷ, tổn
nhơn. Chúng ta trừ bỏ được dục vọng, tâm trí được sáng suốt, an lành, thanh
tịnh.
3. Sự Quy-Y Tăng: Thế gian thường nói: "Trọng Phật, phải kính Tăng".
Cho nên, nếu chúng ta thành tâm thờ Phật bao nhiêu, thì chúng ta phải thật dạ
kính Tăng bấy nhiêu. Người thực hành sự quy-y Tăng, hễ thấy người đầu tròn áo
vuông, chân chính tu hành, giữ gìn giới luật, thì liền kính nể, quý trọng,
xem như đó là vị đại diện cho Ðức Phật. Làm như thế là sự quy-y Tăng.
Tóm lại, thờ Phật, tụng Kinh,
giữ Giới, nghiên cứu Phãt pháp, kính trọng Tăng già chân chính, dó chính là sự
quy-y tam-bảo.
IV. Lý Quy y Tam Bảo
Lý là bên trong. Lý quy-y
Tam-bảo nghĩa là quy-y Tam-bảo trong tâm chúng ta. Nếu chúng ta chỉ thực hành
sự quy-y, chỉ dong ruổi theo Tam-bảo bên ngoài, mà quên lý quy-y, nghĩa là quên
Tam-bảo bên trong tâm chúng ta, thì chúng ta chưa thực hành đúng
nghĩa Tam-quy. Thật thế, bên trong tâm chúng ta cũng có đủ Tam-bảo. Chúng ta
cần thực hành lý quy-y, hay Tam Tự Quy-Y:
1. Tự Quy-Y Phật:
Tự nghĩa là mình đối với tự tâm mình. Tư quy-y Phật là mình tự trở về với Phật
tánh sáng suốt của tâm mình, - Vâng mỗi người đều có Phật tánh, và đều có thể
thành Phật. Ðó là lời Phật Thích Ca đã dạy. Nhưng Phật tánh ấy bị mê lầm, vọng
tưởng che lấp. Vọng tưởng như mây mờ, Phật tánh như trăng. Mây mờ có thể che
khuất, chứ không thể tiêu diệt được trăng sáng. Phật tánh chúng ta bị vọng
tưởng vô minh che lấp sâu kín đến đâu cũng vẫn thường còn. Vậy thì sao chúng ta
lại bỏ quên Phật tánh của chúng ta, mà chỉ chạy theo cầu khẩn Phật bên ngoài;
như đứa "cùng tử" có viên ngọc quý, cha mẹ đã giấu sẵn trong chéo áo
mà nó không biết, lại đi xin ăn cùng khắp mọi nơi!
2. Tự Quy-Y Pháp: nghĩa là vâng theo pháp tánh của mình.
Trong tâm ta có đủ tất cả các Pháp: Từ-bi, Trí-tuệ, Bình đẳng, Sáng-suốt,
Nhẫn-nhục, Tinh-tấn... chúng ta cần phát huy những đức tánh ấy và hành động
theo chúng, tuân theo chúng. Như
3. Tự Quy-Y Tăng:
nghĩa là vâng theo Thầy trong tâm mình, Thầy trong tâm mình là đức tánh hòa hợp
thanh tịnh của mình, như Tăng già là hiện thân của sự hòa hợp thanh tịnh bên
ngoài. Bấy lâu vì mình mê muội, không nhận thấy được ông Thầy trong
tâm, nay nhờ Phật chỉ dạy, mình nhận thấy được ông Thầy thanh tịnh ấy, thì mình
phải quy-y Thầy của mình trước đã chứ!
Nói tóm lại, mình phải nương tựa,
quay về với Phật trong tâm mình là tánh sáng suốt; với Pháp trong tâm mình là
các đức tính Từ-bi, Hỷ-xả v.v..., với Tăng trong tâm mình là sự hòa hợp, thanh
tịnh của bản tâm. Như thế là Lý Quy-Y Tam-bảo.
VI. Lợi ích của Quy y Tam Bảo.
1. Không bị lầm đường
lạc lối
Tam bảo là ba ngôi sáng suốt,
luôn soi đường chỉ lối cho chúng sanh. Chúng ta quy y Tam Bảo bảo đảm chúng ta
không sợ đi lầm đường lạc lối vào sanh tử hay đường tà.
2. Khi đã phát nguyện
quy-y, mình dễ giữ đúng lời đã hứa, vì có sự chứng minh của
Khi chúng ta phát nguyện quy y
trước Tam Bảo, có Tam Bảo chướng minh chúng ta có thêm sức mạnh để thực hành tu
tập. Lại nữa, chúng ta hứa trước Tam Bảo mình lãnh thọ giáo pháp, giới luật nên
chúng ta không dám sai phạm những lời đã hứa.
3. Tam Bảo là con thuyền
đưa chúng ta từ bến mê đến bờ giải thoát giác ngộ
Chúng ta quy y Tam Bảo, nương
tựa Tam Bảo tu tập chúng ta sẽ được giải thoát giác ngộ ra khỏi sanh tử luân
hồi khổ đau.
VII. Công đức quy y Tam Bảo
Công đức quy y Phật bảo
1. Chuyện đứa bé cúng dường Đức Phật (trích trong kinh Hiền Ngu)
Một thời đức Thế Tôn ở nước Xá
Vệ, tại vườn Cấp Cô Độc cây của Kỳ Đà.
Một buổi sớm ấy đức Phật và Chư
Tăng vào thành khất thực, gặp lũ trẻ con, đương nô nghịch đất giữa đường, nó đắp
một cái thành, có đủ nhà cửa kho tàng thóc lúa bằng đất. Một đứa nó nhìn thấy
Phật có hào quang sáng, tự phát tâm cung kính, vui mừng! Khi Phật đi tới nơi,
nó chắp tay vái, và dâng một mẩu đất cúng dàng.
Phật cầm lấy giao cho ngài A
- A Nan vừa rồi đứa nhỏ hoan hỷ
cúng đất công đức ấy sau khi ta vào Niết Bàn, khoảng độ trăm năm; nó sẽ được
làm vua cai trị toàn cõi Ấn Độ tên là A Dục còn các trẻ nhỏ đồng bạn, được làm
quan đại thần; làm hưng long cho ngôi Tam Bảo phân phát Xá Lợi, xây tám vạn bốn
ngàn ngọn tháp, khắp Châu Diêm Phù Đề cúng dàng ta.
Ngài A Nan vui mừng bạch Phật
rằng:
- Kính lạy đức Thế Tôn! Đời quá
khứ Ngài tu công đức gì, mà được phú báu nhiều tháp như thế? Cúi xin chỉ bảo
cho chúng con được rõ?
- Phật dạy: - A Nan ông muốn
biết hãy nghe cho kỹ ta sẽ nói cho hay!
- Dạ, lạy đức Thế Tôn con xin
chú ý nghe!
- A Nan, thuở đời quá khứ đã xa
xưa, có một ông vua nước lớn tên là Ba Tắc Kỳ, cai trị tám vạn bốn ngàn nước
nhỏ, thời đó có đức Phật tên là Phất Sa ra đời. Nhà vua và nhân dân tôn sùng
đạo Phật, thường ngày dâng lên bốn món cúng dàng thức ăn uống, áo mặc, giường
tòa, thuốc thang rất trịnh trọng. Nhà vua nghĩ thầm như vầy:
- Đức Phật là phúc điền cõi
nhân gian thiên thượng, ai trồng nhân lành gì được kết quả ấy, nhân dân nước ta
thường được thấy Phật lễ Phật; cúng dàng Phật, còn các nước nhỏ ở xa xôi, nhân
dân không biết nương đâu tu phúc, vậy ta hãy thuê người vẽ hình tượng Phật, ban
phát cho các nước để cúng dàng cầu phước.
Nghĩ thế rồi gọi họa sĩ đến
chốn Phật, nhìn vẽ cho đúng tướng của Ngài. Song họ vẽ mãi không thành. Sau đức
Phật Phất Sa, Ngài sẽ tự vẽ lấy một kiểu để cho họ họa lại.
Các họa sĩ cứ thế phóng ra được
tám vạn bốn ngàn bức rất đẹp, cũng giống như bức tranh Ngài vẽ.
Vua Ba Tắc Kỳ đem tranh ấy ban
cho mỗi nước một bức, và truyền lệnh cho nhân dân các nước đem hương hoa âm
nhạc nghinh thỉnh rước về.
Vua quan nhân dân các nước, tuy
được bức tranh, nhưng lòng tôn kính cúng dàng như thấy đức Phật hiện tại không
khác.
- A Nan ông nên biết: Vua Ba
Tắc Kỳ thuở đó chính là tiền thân của ta đấy, do thời đó thuê một thợ vẽ tám
vạn bốn ngàn hình tượng đức Phật Phất Sa, ban phát cho nhân dân các nước cúng
dàng lễ lạy. Bởi công đức ấy đời đời được làm Đế Chúa trong cõi nhân thiên,
sinh xứ nào thân thể cũng được đẹp đẽ tốt tươi, đủ ba mươi hai tướng tốt và tám
mươi vẻ đẹp, đến nay thành Phật cũng do một trong công đức ấy; và sau khi vào
Niết Bàn được quả báo tám vạn bốn ngàn tháp.
2. Chuyện ông lão già xuất gia (kinh Hiền Ngu)
3. Chuyện con trai trưởng giả keo kiệt ( trích kinh Nikaya)
Tại Xá-vệ có một Bà-la-môn tên
là Adinnapubbaka, có nghĩa là "không cho", vì ông ta
không hề cho ai vật gì. Ông có một đứa con trai duy nhất hết sức cưng quí. Ông
muốn cho con một món đồ trang sức, nhưng biết rằng hễ giao thợ bạc chạm trổ thì
phải trả tiền công, nên ông tự tay đập mỏng miếng vàng, gò thành một đôi hoa
tai sáng bóng đeo cho con. Do đây mà con ông có tên là Matthakundali,
nghĩa là Hoa Tai Sáng Bóng.
Lên mười sáu tuổi, con ông bị
bệnh vàng da. Bà mẹ trông thấy nóng ruột, hối ông mời thầy thuốc đến chữa bệnh.
Tuy thương con ông vẫn lừng khừng, không muốn đi, nên tìm cách thối thác với bà
vợ:
- Bà à! Nếu gọi thầy thuốc đến,
tôi phải trả công bằng lúa gạo, kho lẫm sẽ hao hụt. Bà sao không để ý đến việc
bảo quản tài sản cho tôi chút nào!
Bà mẹ vẫn một mực lo lắng cho
con:
- Vậy thì phải làm sao? Ông
phải tính sao cho con tôi chớ?
- Yên chí! Tôi sẽ sắp xếp sao
cho chẳng tốn xu nào.
Thế là ông đi đến từng thầy
thuốc, tìm cách hỏi đon hỏi ren cho ra phương thuốc trị bệnh cho con ông:
- Này ông anh, nếu gặp một
người bị bệnh như vầy.. như vầy..., thường thì ông trị liệu ra sao, cho uống
thuốc gì?
Họ liền kể ra các thứ vỏ cây,
tên cây, tên khác.. Thế là ông đi kiếm đủ thứ vỏ cây, lá rừng.. mang về sao chế
thuốc cho con. Nhưng dầu làm hết cách, bệnh trạng đứa con càng ngày càng tệ.
Cuối cùng hết phương cứu chữa, ông mời hẳn một
thầy thuốc đến. Nhìn thấy chàng trai quá yếu, thầy thuốc khéo léo từ chối:
- Tôi đang bận một việc quan
trọng, xin mời một vị khác đến chữa trị. Tôi rất tiếc.
Và ông vội vàng rời khỏi nhà.
Thấy con mình gần chết, tuy có
đau buồn nhưng vẫn không quên tính keo kiệt, bo bo giữ của, ông ra lệnh mang
con ra khỏi nhà, đặt nằm trên thềm, vì sợ những người đến thăm con mình sẽ dòm
ngó luôn tài sản trong nhà.
Hôm ấy, từ sáng sớm, đức Thế
Tôn đã xuất định Ðại Bi, và để tìm xem những ai có lập nguyện trong đời chư
Phật trước, những người căn lành tròn đầy, những đạo hữu có thể xuất gia, Ngài
quán sát với Phật nhãn mở rộng đến mười phương thế giới, và thấy Matthakundali đang
nằm hấp hối ngoài thềm nhà. Ðấng Ðạo sư biết ngay là anh ta vừa từ trong nhà
được khiêng ra đặt nằm đó, và cũng biết rằng anh ta có nhân duyên với Phật, đặt
niềm tin nơi Phật, sẽ chết và sẽ tái sinh lên cõi trời thứ ba mươi ba, sống
trong lâu đài bằng vàng, có một ngàn thiên nữ theo hầu. Bà-la-môn sẽ thiêu xác
con, rồi đi quanh bãi thiêu khóc lóc. Vị trời sẽ tự ngắm mình thân cao ba dặm,
được trang điểm với sáu mươi xe đầy ắp đồ trang sức, có ngàn thiên nữ vây
quanh. Vị ấy thắc mắc không biết do công đức gì mà được quả báo thù thắng như
thế, và rồi vị ấy biết là do tín tâm. Rồi vị ấy thấy cha mình trước đây không
chịu lo thuốc thang cho mình, nay đang đi trong bãi thiêu than khóc. Vị ấy liền
quyết định sẽ làm cho cha thay đổi tâm tánh.
Vị trời xúc động vì cha, sẽ hóa
hình thành Matthakundali đi đến bãi thiêu, gieo mình xuống đất khóc
lóc. Ông Bà-la-môn sẽ hỏi:
- Người là ai?
Vị trời sẽ trả lời:
- Là Matthakundali,
con của cha.
- Con tái sinh ở đâu?
- Ở tầng trời thứ ba mươi ba.
Ông Bà-la-môn sẽ hỏi tiếp:
- Con làm công đức gì mà được?
- Nhờ tin Phật.
Người Bà-la-môn chưa tin hẳn,
sẽ hỏi lại Thế Tôn:
- Có ai do tin Phật mà được
sanh thiên không?
Thế Tôn sẽ đáp:
- Chẳng phải có hằng trăm, hằng
ngàn hay hằng trăm ngàn mà vô số người đều được.
Rồi Thế Tôn sẽ đọc một đoạn
Pháp Cú. Cuối đoạn Pháp Cú sẽ có tám vạn bốn ngàn người được Pháp nhãn thanh
tịnh. Matthakundali sẽ chứng quả Dự lưu, cả Bà-la-môn Adinnapubbaka cũng
chứng quả ấy. Như vậy nhờ chàng trai ưu tú này mà nhiều người được Pháp nhãn
thanh tịnh.
Ðức Phật biết rõ như đã kể
trên, nên hôm sau vệ sinh xong, Ngài đi giữa một đoàn Tỳ-kheo vào thành Xa-vệ
khất thực, và trên đường đi Phật ghé nhà người Bà-la-môn. Lúc ấy Matthakundali đang
nằm quay mặt vào nhà. Phật biết anh ta không trông thấy Ngài, bèn phóng một
luồng hào quang. Chàng trai ngạc nhiên không biết là ánh sáng gì, quay mặt ra
định hỏi thì nhìn thấy đức Phật, liền thưa thỉnh:
- Vì ông cha ngu xuẩn nên con
không được ân huệ đến với đức Phật tôn quí, cũng không được hầu hạ Ngài, để bát
hoặc nghe pháp. Giờ đây tay con cũng không nhúc nhích được, con chẳng làm gì
được nữa!.
Nói vậy rồi anh ta đặt trọn
lòng tin nơi Phật.
Ðức Ðạo sư hoan hỷ bảo:
- Vậy là đủ!
Và Ngài bước đi.
Khi đức Phật xa dần khỏi tầm
mắt, chàng trai tắt thở trong tín tâm. Và như vừa ngủ dậy, chàng tái sinh vào
cõi trời.
Sau đó người con từ trên trời
hiện xuống khuyên người quy y Tam Bảo tu tập.
4. Chuyện vua Uư Điền tạc tượng Phật
5. Sự cảm ứng tạo tượng Đức Phật Thích Ca và Đức Phật A Di Đà được
vãng sanh Tây Thượng ( trích trong bộ Tam bảo cảm ứng)
Thích Huệ Cảnh, người Truy
Châu, xuất gia tu ở chùa Ngộ Chân. Sau khi thế phát, Sư gắng công khai giới khổ
hạnh. Lòng mến cảnh Tịnh độ, Sư tạo hai tượng Thích ca và Di đà, hằng lễ bái
cúng dường.
Đến lúc sáu mươi bảy tuổi, ngày
rằm tháng giêng, Huệ Cảnh nằm mộng thấy một vị Sa môn thân sắc vàng ròng, bảo
rằng:
- Ngươi muốn thấy Phật và cảnh
Tịnh độ chăng?
Đáp:
- Thưa, từ lâu tôi rất ước mong
được chiêm ngưỡng!
Sa môn trao bát cho và bảo:
- Hãy nhìn vào trong bát!
Huệ Cảnh tiếp lấy và nhìn vào,
bỗng như lạc đến cõi khác, thấy cảnh Tịnh độ rộng rãi trang nghiêm, các thứ báu
đẹp lạ. Đất toàn bằng vàng ròng, đường sá có dây vàng làm ranh giới. Cung điện
lầu các trùng điệp không cùng tận, trong đó các thiên đồng vui vẻ nhàn du.
Chúng Bồ tát, Thanh văn đông như mây, rộng như biển, hội lại vây quanh đức Thế
Tôn nghe thuyết pháp.
Lúc đó, Huệ Cảnh thấy vị Sa môn
đi trước, mình nối gót theo sau, lần tới chỗ Phật. Đến nơi, vị Sa môn bỗng biến
mất. Huệ Cảnh chắp tay đứng trước kim dung, bỗng nghe Phật hỏi:
- Ngươi có biết vị Sa môn dẫn
đường đó chăng?
Đáp:
- Bạch Thế Tôn! Con không được
biết.
Đấng Từ Tôn bảo:
- Đó là Phật Thích ca Mâu ni,
còn ta là Phật A di đà, hai vị mà người đã tạo tượng. Phật Thích ca như ông
cha, ta như bà mẹ, chúng sinh ở thế giới Ta bà như con khờ dại thơ ngây, lầm
rớt xuống bùn lầy. Cha vào nơi bùn sâu bồng con lên, để trên bờ cao ráo sạch
sẽ, mẹ lại ôm con nuôi nấng, dạy bảo đừng nên trở lại chốn bùn nhơ. Chúng ta
cũng như thế. Phật Thích ca dạy dỗ chúng sinh mê tối trược ác ở cõi Ta bà, làm
vị mở đường dẫn lối về nơi Tịnh độ. Còn ta ở cõi Tịnh độ còn bổn phận nhiếp
hóa, khiến cho các chúng sinh ấy không còn luân hồi thối chuyển.
Huệ Cảnh nghe nói vui mừng khấp
khởi, muốn đến gần tham bái đức Thế Tôn, nhưng cảnh tượng bỗng biến mất.
Tỉnh giấc, Sư cảm thấy thân tâm
an vui, như vào thiền định. Từ đó, Sư càng tin tưởng sự cúng lễ tượng hai đức
Như Lai.
Một hôm, Huệ Cảnh lại mộng thấy
vị Sa môn khi trước bảo:
- Hai mươi năm sau, ngươi sẽ
sinh về Tịnh độ.
Nghe lời ấy, ngày đêm Sư lại
thêm tinh tấn tu hành, không khi nào biếng trễ.
Đến năm tám mươi chín tuổi, một
hôm nọ, Huệ Cảnh từ giã đại chúng, rồi an nhiên vãng sinh. Đang lúc ấy, có vị
tăng ở phòng bên, nằm mộng thấy trăm ngàn Thánh chúng từ phương Tây đến rước Sư
đi. Trên hư không, tiếng âm nhạc dìu dặt rồi xa nhỏ lần, nhiều người khác cũng
được nghe biết.
6. Sự cảm ứng thờ họa tượng Đức Phật A Di Đà được vãng sanh Tây
Thượng ( trích
trong bộ Tam bảo cảm ứng)
Đời Tùy, Thích Huệ Hải, tục
tánh họ Trương, gốc người ở Võ Thành, xứ Thanh Hà. Sau khi xuất gia, sư thường
ngụ nơi chùa An Lạc tại Giang Đô. Tuy thông hiểu các kinh luận, sư không thích
bàn diệu nói huyền, chỉ thành thật tu hành, lấy Tịnh độ làm nơi quy hướng. Hàng
ngày, sư chuyên tịnh niệm Phật, được nhiều điều linh cảm.
Một hôm, có Tỷ kheo Thích Đạo
Linh ở Tể Châu, đem một bức tượng cổ đến bảo:
- Đây là họa tượng đức A di đà
Thế Tôn, Phật ở chính giữa, xung quanh là năm mươi vị Bồ tát, tất cả đều ngồi
trên hoa sen. Tượng này khởi nguyên do một vị Bồ tát ở chùa Kê đầu ma bên xứ
Thiên Trúc, dùng thần thông đến cõi Cực Lạc, mô tả lại kim dung để làm duyên
tín hướng cho chúng sinh ở Ta bà. Bức tượng này là một trong các bức được
truyền họa lại, nay tôi xin đem kính tặng.
Huệ Hải đã từ lâu tu Tịnh độ,
lại được bức tượng ấy thật là thâm hợp với sở nguyện, tự nghĩ đây là một duyên
lành. Vì thế, đối với bức tượng, Sư hết lòng thành kính cúng dường tôn phụng.
Thường thường mỗi khi lễ sớm, nơi bức tượng bỗng chớp ra những tia thần quang
sáng lạ. Thấy vậy, Sư càng tin tưởng, đem hết tâm tư họa lại một bức khác,
nguyện nhờ công đức ấy sớm được thoát khổ, sinh về Tây Phương.
Năm sáu mươi chín tuổi, một đêm
sau khi lễ sám, Sư đối trước tượng, ngồi kiết già trì niệm Phật thật lâu. Đến
sáng thấy vẫn còn ngồi, chư tăng lại xem thì sư đã vãng sinh, gương mặt an hòa
vui tươi như người còn sống.
7. Sự cảm ứng tạo tượng Đức Phật A Di Đà cao ba tấc của Thích Đạo
Dũ ( trích
trong bộ Tam bảo cảm ứng)
Đời Tùy, Thích Đạo Dũ ở chùa
Khai Giác, chuyên tu Tịnh độ. Sư có tượng Phật A di đà bằng gỗ chiên đàn, cao
ba tấc mộc. Mỗi khi hành đạo, Sư thường để tượng Phật ấy trên đầu.
Một hôm, Đạo Dũ bỗng tắt hơi,
nơi ngực còn ấm, bảy ngày sau chợt sống lại bảo:
- Trước tiên, tôi thấy mình
cùng một hiền giả vãng sinh đến một ao báu bên Tây Phương. Hiền giả đi nhiễu
quanh hoa sen ba vòng, hoa liền nở ra, vị ấy bước vào ngồi chính giữa. Tôi cũng
đi nhiễu quanh hoa sen ba vòng, nhưng hoa không nở. Tôi vuốt mở cánh hoa, hoa
theo tay héo rụng. Lúc ấy, Phật A di đà bỗng xuất hiện đến bảo: “Ngươi còn
tội chướng, hãy trở lại cõi Ta bà dùng nước thơm tắm gội và sám hối. Chờ lúc
sao mai mọc ra ta sẽ đến rước. Nhưng tại sao ngươi tạo tượng ta lại quá nhỏ?”.
Tôi đáp: “Tâm lớn Phật lớn, tâm nhỏ Phật nhỏ”. Đáp xong tượng Phật bỗng
lớn đầy khắp hư không”.
Nói đoạn, Đạo Dũ nhờ tăng chúng
nấu nước thơm. Sau khi tắm gội sạch sẽ, Sư đến trước Phật chí tâm sám hối cả
đêm. Khi sao mai mọc, Đạo Dũ bạch chúng xin trợ niệm. Đạo chúng tề tựu đông đủ
niệm Phật được một lúc, tất cả đều thấy kim quang sáng rỡ, hóa Phật từ Tây
Phương đến tiếp rước.
Nhìn lại thì Đạo Dũ đã chắp tay
vãng sinh. Lúc ấy, nhằm niên hiệu Khai Hoàng thứ tám.
8. Sự cảm ứng tạo tượng Đức Phật A Di Đà cứu được song thân (trích trong bộ Tam bảo cảm
ứng)
Trương Ngươn Thọ, người ở Tinh
Châu, tuy có tâm lành, nhưng sống về nghề sát sinh. Sau khi cha mẹ qua đời, ông
dứt nghiệp sát, phát tâm niệm Phật. Vì muốn cứu độ song thân, ông tạo tượng Phật
A di đà cao ba thước, để thờ nơi gian nhà cũ của cha mẹ ở. Hàng ngày, Ngươn Thọ
đều trì niệm lễ bái, hương hoa đèn nến thường tiếp tục luôn.
Một đêm, sau thời khóa lễ, ông
nằm mộng thấy trong nhà hào quang rực rỡ. Trong ánh sáng có hơn hai mươi người
thân tướng cao đẹp ngồi trên đài sen. Hai người trong đó bay tới trước kêu:
- Trương Ngươn Thọ!
Ông hỏi là ai, thì đáp:
- Chúng ta là cha mẹ của con
lúc sinh tiền. Chúng ta tuy biết niệm Phật, nhưng vì ưa rượu thịt, giết hại
loài chim cá quá nhiều, nên khi chết đọa vào địa ngục Khiêu Hoán. Tuy đọa địa
ngục nhưng nhờ sức niệm Phật, nước đồng sôi hóa thành mát mẻ. Hôm trước, có vị
Sa môn thân vàng cao ba thước, đến thuyết pháp. Chúng ta cùng hơn hai mươi
người đồng nghiệp nơi địa ngục đều được thoát khổ sinh về Tây Phương. Do nhân duyên đó, chúng ta
đến đây mách bảo cho con biết. Những vị
ngồi đài sen đây là các vị đồng nghiệp được vãng sinh.
Nói xong, tất cả đồng bay về
Phương Tây.
Tỉnh mộng, sáng ra Ngươn Thọ
đến chùa đem việc ấy thưa hỏi. Một vị tăng bảo:
- Đó là do tâm hiếu kính tạo
tượng của ông hiện thành sức cảm ứng, nên tượng Phật đến cứu thoát được các
đồng nghiệp địa ngục, trong đó có lệnh từ nghiêm (nghiêm phụ, từ mẫu).
Công đức quy y Pháp bảo
1. Năm trăm chim nhạn nghe kinh được sanh cõi trời
Kinh Tạp bảo tạng ghi: “Nước Bát-già-la đem hiến vua Ba-tư-nặc năm
trăm chim nhạn trắng. Nhà vua sai người đưa số chim ấy đến tinh xá Kì-hoàn. Cứ
đến giờ ăn, thấy chư tăng bày thức ăn mới khất thực được ra, năm trăm con chim
nhạn liền bay đến đậu trước mặt chư tăng. Khi ấy, Đức Phật dùng một ngôn ngữ
thuyết pháp, nhưng bất kì loài nào nghe cũng đều hiểu cả. Bầy chim nhạn cũng
hiểu lời Phật, nghe pháp Phật giảng, rất vui mừng, cùng hòa giọng hót vang, rồi
bay về ao nước. Về sau, khi lông đã mọc dài, chúng bay đến nơi khác, bị thợ săn
giăng lưới bắt giết hết cả. Khi bị bắt, một con nhạn cất tiếng thì cả bầy hòa
theo hót vang những âm thanh mà chúng thường hót lúc nghe pháp. Nhờ tâm thiện
ấy, bầy nhạn được sinh lên trời Đao-lợi làm các thiên tử.
Hễ sinh lên trời thì có ba điều
phải nhớ nghĩ: nhớ nghĩ mình vốn từ đâu đến; nhớ nghĩ đến nơi mình muốn sinh
về; nhớ nghĩ thân trước đã tạo nghiệp gì để nay được sinh lên trời.
Khi ấy, năm trăm vị thiên tử tự
suy nghĩ thấy đời trước mình chẳng tu được nghiệp thiện gì ngoài việc ở cạnh
Phật và chư tăng nghe giảng pháp. Nghĩ thế xong, họ liền cùng xuống cõi
Diêm-phù-đề, đến chỗ Đức Phật nghe giảng pháp, tất cả đều chứng được quả
Tu-đà-hoàn.
Thời ấy, vua Ba-tư-nặc thường
đến chỗ Đức Phật, cũng thường trông thấy năm trăm con chim nhạn đậu trước Đức
Phật. Hôm ấy, nhà vua không trông thấy bầy chim, bèn hỏi Đức Phật:
- Bầy nhạn hôm nay đã bay đi
đâu?
Đức Phật nói:
- Bầy nhạn, đại vương muốn thấy
đó đã bay đi nơi khác và bị thợ săn giết hết cả. Sau đó, chúng được sinh lên
trời, nay chính là năm trăm thiên tử tuấn tú đội thiên quan đang ở đây. Hôm
nay, họ nghe pháp và đều chứng được quả Tu-đà-hoàn.
2. Con chó nghe kinh chết được tái sanh làm người tu hành đắc đạo
Kinh Cựu tạp thí dụ ghi: “Ngày xưa, có một vị sa-môn tụng
kinh suốt ngày đêm. Có một con chó thường nằm dưới gầm giường để hết tâm nghe
kinh, quên cả việc ăn. Cứ như thế trong nhiều năm, sau khi chết, con chó được
sinh làm người nữ, trong thành Xá-vệ. Lớn lên, cô gái ấy trông thấy một vị
sa-môn đi khất thực, liền đem thức ăn đến cúng dường vị sa-môn. Về sau, cô gái
xuất gia làm tì-kheo-ni, chứng được quả A-la-hán”.
3. Chim Anh vũ nghe pháp được sanh cõi trời
Kinh Hiền ngu ghi: “Ngày xưa, lúc Phật còn tại thế, trưởng giả
Tu-đạt ở nước Xá-vệ là vị thí chủ kính tin Phật pháp. Ông ta cung cấp mọi thứ
cần dùng cho chư tăng. Trong nhà ông Tu-đạt có hai con chim anh vũ; một con tên
Luật-đề, con kia tên Xa-luật-đề. Chúng đều thông minh, hiểu tiếng người; hễ
thấy tì-kheo đến nhà, chúng luôn báo trước để người trong nhà ra đón tiếp. Về
sau, ngài A-nan đến nhà ông Tu-đạt, thấy hai con chim thông minh, bèn giảng cho
chúng nghe pháp tứ đế. Nghe pháp xong, chúng bay lên cành cây trước nhà, vui vẻ
tụng trì. Đêm ấy, chúng nghỉ trên cây, bị chồn ăn thịt. Nhờ căn lành ấy, chúng được
sinh lên trời Tứ Thiên Vương; khi hết tuổi thọ ở đó, họ sinh vào cõi trời
Đao-lợi; hết tuổi thọ ở trời Đao-lợi, họ sinh vào cõi trời Dạ-ma; khi hết tuổi
thọ ở trời Dạ-ma, họ sinh vào cõi trời Đâu-suất; khi hết tuổi thọ ở trời
Đâu-suất, họ sinh vào cõi trời thứ sáu Tha Hóa Tự Tại; khi hết tuổi thọ ở trời
Tha Hóa Tự Tại, họ lại sinh vào cõi trời Hóa Lạc. Rồi lần lượt theo thứ lớp, họ
sinh trở xuống đến cõi trời Tứ Thiên Vương; khi tuổi thọ ở trời này hết, họ lại
lần lượt sinh trở lên đến cõi trời Tha Hóa Tự Tại. Trải qua bảy lần sinh lên và
xuống như thế trong sáu cõi trời Dục, họ tự do hưởng sự vui sướng đến hết tuổi
thọ, không bị chết yểu. Về sau, họ qua đời và sinh vào cõi người, xuất gia tu
hành, thành Bích-chi phật; một vị tên Đàm-ma, vị kia tên Tu-đàm-ma”.
4. Một con chim nghe vị Tỳ Kheo tụng kinh chết được sanh cõi trời
Kinh Hiền ngu ghi: “Ngày xưa, lúc Phật còn tại thế, có một
vị tì-kheo ở trong rừng, thường xuyên tụng kinh. Giọng tụng của vị ấy thật
thanh thoát. Bấy giờ, có một con chim nghe tụng pháp, sinh lòng kính mến,
thường đậu trên cây để lắng nghe. Một hôm, chim bị thợ săn bắn chết. Nhờ căn
lành nghe pháp ấy, nó được sinh lên trời Đao-lợi, làm vị thiên tử có dung mạo
xinh đẹp, hào quang rực rỡ không ai sánh bằng. Tự biết túc mạng của mình nhờ nghe
tì-kheo tụng kinh pháp nên được sinh vào cõi trời này, vị thiên tử liền đến chỗ
tì-kheo kia để cung kính lễ lạy, thăm hỏi, dâng hương và hoa trời cúng dường.
Vị tì-kheo kia hỏi rõ và biết sự việc, liền bảo vị trời ấy ngồi xuống và giảng
cho nghe pháp, khiến vị trời ấy chứng được quả Tu-đà-hoàn”.
Loài cầm thú nghe pháp còn được
phúc báo vô biên, huống gì người tín tâm nghe pháp, lẽ nào không được quả báo
lành.
5. Con Cóc nghe Đức Phật thuyết pháp chết được sanh cõi trời
Luật Thiện kiến ghi: “Thuở xưa, lúc còn tại thế, một lần Đức Phật
đến bên ao Già-la ở nước Chiêm-ba-la giảng pháp cho mọi người nghe. Khi ấy, có
một con cóc ở trong ao nghe tiếng Phật giảng pháp, bèn ra khỏi ao, chui vào bụi
cỏ để nghe. Cùng lúc ấy, có một người cầm gậy chăn bò, thấy Đức Phật ở trên tòa
giảng pháp, liền đến chỗ Đức Phật lắng nghe. Khi cắm gậy xuống đất để đứng nghe
giảng, người ấy cắm nhầm vào đầu con cóc, khiến nó chết ngay tại chỗ. Con cóc
liền được sinh lên trời Đao-lợi. Nhờ phúc báo, vị trời ấy được hưởng hạnh phúc
cùng với các thiên nữ trong cung điện dài và rộng đến mười hai do-tuần. Vị trời
ấy từ cung điện xuống đến chỗ Đức Phật, lạy sát chân Phật. Đức Phật đã biết
nhưng vẫn hỏi:
- Ngươi là người ở đâu, sao có
thần thông, tướng hảo và ánh sáng không ai bằng, chiếu đến chỗ này, lại bỗng
nhiên lễ chân Ta?
Vị trời ấy đáp bằng kệ:
Ngày xưa là thân cóc,
Kiếm ăn trong ao nước,
Nghe tiếng Phật giảng pháp,
Con chui vào bụi cỏ.
Có một người chăn bò,
Cầm gậy đến nghe pháp,
Cắm gậy nhằm đầu con,
Con chết, sinh lên trời.
Khi vị trời nói kệ xong, Đức
Phật giảng bài kệ ấy cho tứ chúng nghe. Bấy giờ, tám mươi bốn nghìn người đều
được kiến đạo, vị trời chứng được quả Tu-đà-hoàn. Tất cả đều vui vẻ lui ra”.
6. Sự cảm ứng tu tập kinh Vô Lượng Thọ (trích trong bộ Tam bảo cảm
ứng)
Đời nhà Tề, Đàm Loan là bậc
tuấn sĩ, cảm thấy thế cuộc vô thường, đến tham phỏng Đào Ân Cư học về tiên
thuật. Đào trao cho mười quyển Tiên Kinh, bảo đó là pháp trường sinh bất
tử.
Trên đường về, Đàm Loan gặp một
vị Phạm tăng là Bồ đề lưu chi. Trong khi trò chuyện, Đàm hỏi Phạm tăng:
- Trong đạo Phật, có pháp nào
hay hơn kinh này chăng?
Bồ đề lưu chi mỉm cười, nói:
- Ở phương này làm gì có pháp
trường sinh bất tử! Dù tu tiên được sống lâu, nhưng mãn kiếp cũng phải luân hồi
trong ba cõi, nên không phải bất tử mà chỉ có trường sinh đó thôi!
Nói xong, Phạm tăng trao cho
quyển kinh Quán Vô Lượng Thọ bảo:
- Đây mới chính là pháp trường
sinh bất tử của đấng Đại giác kim tiên. Nếu y theo tu hành, sẽ sinh về Cực Lạc,
được vĩnh viễn giải thoát không còn luân hồi nữa.
Đàm Loan hoan hỷ, đốt bỏ mười
quyển Kinh Tiên rồi xuất gia, tu hành theo Quán Kinh.
Trải mấy mươi năm tu tập, lúc
sắp viên tịch, Đàm Loan thấy Long Thọ Bồ tát đến nói kệ khai thị. Ngài liền
bưng lò hương xoay mặt về Tây niệm Phật mà vãng sinh. Lúc ấy, đại chúng nghe
giữa hư không có tiếng âm nhạc mầu nhiệm nổi lên, rồi lần lần xa ẩn về phương
Tây.
Đời Lương, Đạo Trân pháp sư
niệm Phật, y theo kinh Quán Vô Lượng Thọ, tu phép Thủy Quán. Đêm nọ, Sư
nằm mộng thấy trên mặt nước mênh mang trong vắt, một con thuyền chở trăm người
hướng về Tây Phương. Đạo Trân xin đi theo, người trên thuyền không cho và bảo:
- Sư chưa tụng kinh A di đà và
làm nhà tắm cho chư tăng, tịnh nghiệp chưa thành nên không đi được.
Tỉnh giấc, pháp sư ghi nhớ, từ
đó về sau thực hành y theo lời khuyên bảo.
Đến sau, Đạo Trân lại nằm mộng,
thấy một vị nương tòa lâu đài bằng bạc bay đến vẫy tay nói:
- Tịnh nghiệp của Pháp sư đã
viên thành, quyết định sẽ sinh về Tây Phương. Tôi đến đây báo trước, hãy khéo
dụng tâm!
Khi lâm chung, đỉnh đầu Đạo
Trân pháp sư nóng như lửa, mùi hương lạ bay khắp chùa. Hàng đệ tử soạn trong
hòm kinh, tìm thấy di bút mới biết rõ sự việc.
7. Sự cảm ứng tụng kinh A Di Đà và Kinh Vô Lượng Thọ của Tỳ Kheo
Tăng Cảm (trích
trong bộ Tam bảo cảm ứng)
Tỷ kheo Tăng Cảm ở Tinh Châu,
hằng tụng kinh Di đà và Quán Vô Lượng Thọ, cầu sinh Tịnh độ. Đêm
nọ, Sư nằm mộng thấy thân mình sinh ra hai cánh, cánh bên trái đầy văn kinh Quán
Vô Lượng Thọ, cánh bên phải hiện văn kinh A di đà. Tâm niệm khởi
động chớp cánh muốn bay lên, nhưng thân còn nặng chưa bay được.
Tỉnh giấc, Sư càng tin tưởng,
chuyên tụng hai thứ kinh ấy. Ba năm sau, lại nằm mộng thấy cánh đã dài, bay lên
được nhưng chưa đi xa. Trì tụng thêm hai năm nữa, trong giấc mộng, Sư cảm thấy
thân nhẹ nhàng bay đi tự tại, liền cất mình lên hư không bay về Tây Phương. Đến
một cảnh giới tốt đẹp trang nghiêm. Tăng Cảm gặp Phật và hai vị Bồ tát bảo:
- Sức tụng kinh của người chỉ
đến được biên địa cõi Tịnh độ. Vậy ngươi hãy trở về Ta bà, tụng mỗi ngày bốn
mươi tám quyển, ba năm sau sẽ sinh lên thượng phẩm ở Cực Lạc.
Tỉnh mộng, Sư y theo lời dạy tu
hành, ba năm sau quả nhiên được vãng sinh.
Khi sư viên tịch rồi, chỗ nằm
bỗng mọc lên chín đóa hoa sen, bảy ngày vẫn còn tươi đẹp.
Công đức quy y
Tăng Bảo
1. Vị quốc vương lễ lạy chư Tăng
Kinh Cựu tạp thí dụ ghi:
“Ngày xưa, có vị quốc vương đi tuần du, mỗi lần gặp sa-môn, liền vội xuống xe
đỉnh lễ. Có một đạo nhân bảo:
- Đại vương hãy thôi đi! Không
cần bước xuống xe!
Nhà vua nói:
- Ta bước lên đấy chứ, đâu có
bước xuống. Sở dĩ ta nói bước lên, không phải là bước xuống là bởi nay lễ đạo
nhân, sau khi qua đời, ta sẽ sinh lên trời”.
3. Vua A Dục lễ lạy vị Sa Di bảy tuổi
Kinh A-dục vương ghi:
“Ngày xưa, có lần trông thấy một sa-di bảy tuổi, vua A-thứ-già muốn đưa chú
sa-di đến chỗ khuất để lễ, bèn bảo:
- Chú đừng nói với mọi người
rằng ta lễ chú nhé!
Lúc ấy, trước mặt có một cái
bình đựng nước, chú sa-di liền chui vào đó, rồi lại chui ra, bảo:
- Đại vương đừng nói với ai
rằng có sa-di chui vào, chui ra từ bình dựng nước nhé!
Nhà vua liền nói:
- Ta sẽ nói cho mọi người biết.
Đừng trốn nữa!”
Vì thế, các kinh đều
ghi: “Sa-di tuy còn nhỏ nhưng mọi người cũng không nên xem thường. Con vua tuy
còn bé, nhưng mọi người cũng không nên xem thường. Rồng con tuy còn bé, nhưng
mọi người cũng không nên xem thường. Sa-di tuy còn bé, nhưng có thể độ được mọi
người. Con vua tuy còn bé, nhưng có thể giết được người. Rồng con tuy còn bé,
nhưng có thể tạo mây, làm mưa, sấm, chớp. Đừng thấy họ bé mà xem thường!”.
4. Vua A Dục quy kính Tam Bảo
Kinh Phó pháp tạng ghi:
“Xưa kia, sau khi Phật vào niết-bàn được một trăm năm, có vua A-dục kính tin
tam bảo, thường tổ chức đại hội Ban-già vu-sắt. Đến ngày hội, nhà vua tắm rửa
bằng nước thơm, mặc áo mới, lên lầu cao, đỉnh lễ bốn phương và thỉnh chư tăng.
Có hai mươi vạn thánh tăng bay đến. Lòng tin sâu xa của vua thật khó lường. Gặp
sa-môn, dù già hay trẻ, dù phàm hay thánh, nhà vua đều đón tiếp, thăm hỏi và
cung kính lễ lạy. Bấy giờ, có một vị quan tên Dạ-xa mang tà kiến nặng, không có
lòng kính tin. Thấy nhà vua lễ lạy chư tăng, ông ta nói: “Nhà vua thật không có
trí tuệ, tự hạ thấp thân tôn quí đức độ, lễ lạy trẻ con”. Nghe lời ấy, nhà vua
liền ra lệnh cho các quan cho người tìm đầu thú vật đã chết, mỗi vị dâng một
đầu thú. Riêng Dạ-xa, vua sai tìm một đầu người. Sau khi mọi người tìm được
đầu, vua lại ra lệnh họ mang ra chợ bán. Tất cả các đầu thú đều bán được. Nhưng
cái đầu người Dạ-xa cầm, ai trông thấy cũng ghét bỏ, khinh chê, chẳng ai mua.
Qua mấy ngày sau, cái đầu người ấy sắp thối. Mọi người trông thấy đều mắng chửi
Dạ-xa và nói:
- Ông hiện nay không phải là
hạng người chiên-đà-la, hoặc dạ-xoa, hay la-sát, tại sao ông lại tìm đầu người
để bán?
Sau khi bị mắng chửi, Dạ-xa vào
cung tâu:
- Đi bán đầu người, thần bị
nhiều người chửi mắng! Không có ai muốn nhìn đầu người, huống gì mua.
Nhà vua bảo:
- Nếu không có ai mua, ông hãy
cho không đi!
Vâng lời vua, Dạ-xa lại đem đầu
người ra chợ, bảo mọi người:
- Người nào không có tiền để
mua sắm thì tôi cho không cái đầu này.
Người đi chợ nghe thấy thế, lại
càng mắng chửi Dạ-xa thậm tệ hơn, chẳng ai chịu lấy cái đầu. Dạ-xa hổ thẹn, trở
về cung vua, chắp tay tâu:
- Cái đầu này thật khó bán.
Thần cho không cũng không ai lấy, ngược lại, còn bị mắng chửi!
Nhà vua hỏi Dạ-xa:
- Vật gì quí nhất?
Dạ-xa thưa:
- Người quí nhất.
Nhà vua hỏi:
- Nếu quí, tại sao bán không
được?
Dạ-xa đáp:
- Người sống tuy quí, nhưng
chết rồi thì rẻ mạt.
Nhà vua lại hỏi:
- Nếu ta chết, đầu ta cũng rẻ
mạt như thế chăng?
Dạ-xa hoảng sợ, không dám trả
lời.
Nhà vua liền bảo:
- Ta cho phép, ngươi đừng sợ,
phải trả lời thành thật!
Sợ hãi, không dám ngửng đầu
lên, dạ-xa đáp:
- Nếu đại vương chết thì đầu
ngài cũng rẻ mạt như cái đầu này.
Nhà vua hỏi tiếp:
- Nếu ta chết thì đầu ta cũng
giống như cái đầu hèn mạt này. Thế thì, tại sao ngươi ngạc nhiên về việc ta lễ
kính chư tăng? Nếu ngươi đúng là bạn tốt của ta, phải nên khuyên ta đem cái đầu
mong manh đổi lấy cái đầu bền chắc. Tại sao nay ngươi ngăn cản ta lễ lạy chư
tăng?
Nghe vua nói thế, Dạ-xa mới hối
hận, tự trách mình, bỏ tà kiến, theo chính kiến, qui kính tam bảo.
Vì nhân duyên ấy, chúng sinh nào
được nghe hoặc thấy tam bảo, phải nên chí tâm cung kính lễ bái”.
5. Sự cảm ứng tạo tượng Đại Thế Chí Bồ Tát
Cha của ông Lý Triệu Đải, người
huyện Du ở Ung Châu, nhân hủy báng Phật pháp, mộng thấy thần quở trách, mang
bệnh thổ huyết rồi chết. Triệu Đài kính thành quy y Đại Thế Chí, niệm danh hiệu
Phật, Bồ tát cầu nguyện cho cha. Ông lại thuê thợ giỏi tạo kim thân đức Đại Thế
Chí cao ba thước để cúng dường. Ngày khởi công, đất khắp nơi bỗng rung chuyển,
nhiều người cho là cơn địa chấn, luận bàn tốt xấu phân vân. Hai tháng sau tượng
thành, Triệu Đải mộng thấy một vị kim thân, đầu đội bảo quan, đến nói:
- Ta là Đại Thế Chí Bồ tát.
Ngươi có biết nguyên do cơn động đất hôm trước chăng? Đó là do ngươi phát
nguyện tạo tượng, ta đến đây để chứng minh, khi đặt chân xuống thế giới này,
cõi đại thiên rung động, chúng sinh trong đó đều được thoát khổ. Ta y theo môn
niệm Phật chứng vào Vô sinh nhẫn, nhiếp thủ chúng sinh niệm Phật ở mười phương.
Ngươi tạo tượng ta lại niệm Phật, nên ta đã cứu cha ngươi thoát khỏi địa ngục,
đưa về Tịnh độ.
Lý Triệu Đải nghe nói, chắp tay
chiêm ngưỡng Bồ tát, vừa muốn cúi xuống đảnh lễ, bỗng giật mình thức giấc. Ông
vừa vui mừng vừa cảm động, từ đó chuyên niệm Phật không biếng trễ.
6. Con tạo tượng Địa Tạng cha mẹ được sanh cõi trời
Hồi triều nhà Đường, có thiếu phụ họ Tổ,
là vợ của quan Thứ sử ở Phủ Châu, 1 lòng chí thành quý kính đức Địa tạng, dầu
có việc gì phiền não thế nào, cũng không sao lãng tâm niệm.
Cha mẹ nàng lại khác, có tánh khinh Tăng,
báng Phật, cho rằng đám tăng ni hủ bại, truyền nhiễm sự mê tín cho dân, ngăn
cản con đường tiến hóa của nhân loại.
Nàng thấy vậy càng buồn, song không biết
làm sao mà giải phá sự cố chấp của cha mẹ, đành làm thinh, để cho cha mẹ được
vui lòng trong khi tuổi già sức yếu.
Nàng bớt ăn nhín mặc mỗi ngày 1 ít, để
dành được 1 số tiền kha khá, rồi nàng mướn tay thợ thiệt khéo đúc 1 pho tượng
đức Địa Tạng, bề cao 3 thước, sau đó thếp vàng để lễ bái cúng dường, cầu cho
cha mẹ về sau được phần phước lạc.
Một hôm, vì có việc nên cha nàng phải đi xa, để
mình mẹ nàng ở nhà cai quản gia vụ.
Bọn gia nhân ở xóm đó dọ biết trong nhà
không có đàn ông, nên đêm chúng đến rình nhà, toan trộm vàng bạc của cải, song
dòm vô lỗ vách, chúng thấy đức Địa Tạng ngồi trang nghiêm trên bàn, hào quang
chói sáng như ban ngày, làm cho bọn trộm hoảng kinh chạy về, không kịp vào lấy
vật chi cả.
Qua ngày sau, chúng giả vờ đi chơi rồi
tiện ghé nhà bà hỏi thăm các việc, thấy bà ngồi trên ván, vui vẻ nói cười, thì
lấy làm ân hận, bèn đem chuyện định vào nhà trộm vật cùng chuyện thấy Phật hiện
hình, mà thuật cho bà nghe và xin chịu tội.
Bà ngồi suy nghĩ 1 lúc lâu, cũng không
hiểu nguyên nhân vì đâu mà điều dị thường ấy. Rồi bất giác bà rùng mình run sợ,
thầm lo ăn năn các việc hồi trước và nói với bọn trộm rằng:
“Các ngươi thấy ta già yếu ở nhà 1 mình, muốn
thừa dịp trời tối, vào nhà lấy của. Song phần tôi chưa mất của nên Phật không
cho. Vậy thì các ngươi có lòng quấy, chớ không tội trạng gì. Và cũng chưa làm
thiệt hại cho ta nên ta có thể không câu chấp”.
Bọn ấy nghe bà nói như vậy ngỏ lời tạ ơn,
rồi từ giã ra về, không làm nghề ăn trộm nữa.
Việc đó xảy ra chưa được bao lâu, kế có
việc khác nữa.Cha của nàng ấy lúc thân hành qua Phủ châu thì gặp kẻ thù đón
giữa đường mà chém. Ông luýnh quýnh không biết đường nào lánh nạn. BỖng thấy 1
vị sa môn khoác áo vàng xuất hiện. Vị sa môn vì giúp ông mà bị chúng chém ngã
nằm trên vũng máu. Bọn hung thủ tưởng đâu đã sát hại được ông, nên mạnh ai nấy
co giò chạy trốn. Ông thấy sự ấy thì kinh sợ và ghi khắc trong lòng, trở về nhà
bèn thuật lại cho con gái nghe việc mình bị kẻ thù đón đường chém và nhờ đâu mà
thoát chết. Rồi bảo con dẫn mình đến trước pho tượng đức Địa Tạng bằng vàng để
lạy tạ ơn lành, sám hối bao nhiêu tội trước đây. Khi đến gần, ông thấy trên đầu
tượng có 3 vết thương như có máu chảy, nên ông càng phát tâm tin Phật hơn nữa.
Nàng thấy vậy, mới hay nhờ đức Địa Tạng
chịu thế mấy đao cho cha mà được thoát nạn. Nên bội phần cảm ân đức Phật. Khi
ấy lòng nàng cũng hân hoan vô hạn.
Lớp mừng vì cha khỏi sự tai nguy. Lớp vui vì từ nay cha mẹ đã tin Phật có oai
linh nhiệm màu. Khiến cho cả gia đình có thể quy đầu về Phật pháp và nhờ phần
siêu thoát về sau.
Hôm sau nàng sau gia nhân đi rước mẹ về
dinh thự của vợ chồng mình. Rồi cả 3 phát nguyện trước tượng đức Địa Tạng xin
giữ giới tu tại gia, sớm tối lo cúng dường lễ bái, không dám trễ nãi.
Đến năm thân phụ nàng được 79 tuổi mà
không hề mệt mỏi, đau ốm, cứ chuyên tâm niệm Phật tụng kinh, rồi 1 ngày tự
nhiên không bệnh mà mất. Lo chôn cất cho cha xong, nàng lại niệm hồng danh của
đức Địa Tạng mà cầu cho vong linh cha được tiêu diêu nơi Thiên quốc.
Đúng 35 ngày sau, nàng chiêm bao thấy thân
phụ ngao du nơi cõi hư không, toàn thân có hào quang sáng ánh. Nàng vừa ngạc
nhiên vừa vui mừng, cúi đầu đảnh lễ và hỏi rằng: “Thân phụ sanh về cõi nào?”
Ông đáp lại rằng:
“Nhờ từ bi oai lực của đức Địa Tạng bồ tát gia bị nên cha đã sanh lên cõi
trời thứ 4 mà phụng sự đức Di Lặc. Những người sanh về cõi đó, phần nhiều được
nhờ sức dẫn đạo của đức Địa Tạng bồ tát cả, Và 13 năm sau, mẹ của con cũng được
vãng sanh về đó. Còn con thì 25 năm sau, chồng con lối 28 năm nữa nhân duyên
kết thúc rồi cũng sẽ được vãng sanh về cõi trời thứ 4 mà đồng sự đức Di Lặc như
cha vậy”.
Ông nói dứt lời thì ẩn thân, nàng giật
mình thức dậy, nhưng vẫn giữ kín việc ấy, chưa đem ra mà tỏ thuật cho ai nghe
và để xem quả như điềm chiêm bao ấy hay không, rồi sẽ nói cho nhiều người biết,
khi ấy cũng chẳng muộn. Quả ý như điềm mộng, 13 năm sau, thân mẫu nàng cũng
không bệnh mà ly trần. Nàng mới đem điềm mộng năm nọ thuật lại cho chồng cùng
lối xóm nghe, ai cũng đều tin là thật. Mãi đến 25 năm sau, nàng mới ly trần. Và
28 năm sau, thì chồng nàng cũng theo cùng. Từ ấy, dân chúng trong châu ấy càng
tin Phật bội phần. Họ đua nhau vẽ tượng đức Địa Tạng mà phụng thờ và trì niệm
hồng danh của ngài (
7. Niệm Bồ Tát Quán Thế Âm được thoát nạn trên biển cả
Gia đình tôi gồm có bảy người, hai vợ chồng
và năm đứa con nhỏ cùng vượt biển trên một chiếc thuyền nhỏ đánh cá với năm
mươi hai người cùng xóm. Chổ khởi hành là cửa biển Thuận An, Huế vào tối hai
mươi tháng tư âm lịch năm1979.
Ðó là một đêm tối trời và đầy
kinh hãi, vì chúng tôi vừa cho tàu khởi hành vừa được bốn mươi phút thì bị tàu
biên phòng Bình Trị Thiên phát giác và đuổi bắt. Chúng tôi ai cũng hoảng sợ,
không còn đủ bình tĩnh để tính toán và nghĩ rằng, phen này tất cả đều bị bỏ tù,
vì đây là lần vượt biên thứ ba bị phát giác của chúng tôi.
Trong khi nhiều người đang bối rối thì bác Tư Hiền, chủ bán tiệm vải ngày trước
ở chợ Ðông Ba, hô to như ra lệnh cho mọi người trong tàu yên lặng, và bác bảo
mọi người chắp tay thành kính niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Không ai
bảo ai, mọi người răm rắp niệm Nam Mô Cứu Khỏ Cứu Nạn Linh Ứng Quán Thế Âm Bồ
Tát râm lên cả một góc trời, theo sự hướng dẫn của bác Tư Hiền giữa sóng nước
mênh mông. Lạ thay, thình lình một cơn mưa nặng hạt đổ xuống tầm tã trên biển
cả. Trong màn đêm dày đặc, sấm chớp nổi lên giữ dội, thét gào như cơn thịnh nộ
của những vị hung thần. Kỳ diệu thay, trong lúc đó con tàu nhỏ của chúng tôi
chạy vi vút như tên bay, hướng ra khơi bởi một sức mạnh phi thường nào đó,
ngoài sự kiểm soát tay lái của tài công. Tài công hôm đó là anh Thông và tôi là
người phụ tá cùng chấm địa bàn tay lái của anh. Cùng trong lúc ấy anh cảm thấy
như đang rơi vào trong giấc ngủ, nằm kê đầu trên một thác nước chảy róc rách
trên một sườn núi. Ở đây có nhiều khóm trúc và trên các cây cổ thụ xinh đẹp,
treo sà xuống nhiều giò phong lan đủ màu, tỏa hương thơm ngát.
Trong khi đó, tiếng mọi người
trên tàu vẫn tiếp tục niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Ước độ mười phút
sau, thì tàu chúng tôi vượt ra khỏi hải phận của công an kiểm soát biên phòng
mà chúng tôi không hề hay biết. Thoát nạn, con tàu nhỏ của chúng tôi chạy thẳng
vào đảo Hải
Khi tàu ra khỏi hải phận, chúng
tôi những người cùng đi hôm đó tôn bác Tư Hiền là mẹ đỡ đầu tinh thần. Bác Tư
Hiền khiêm tốn không chịu, nhưng vì chúng tôi năn nỉ và trình bày chi tiết về
sự quan trọng của đời sống tâm linh, nên bác Tư Hiền vui vẻ nhận lời. Mà bác Tư
Hiền làm mẹ đỡ đầu tinh thần cho chúng tôi là xứng lắm, vì bác đã trên sáu mươi
tuổi, vóc dáng phương phi, nụ cười hoan hỷ, lời nói lúc nào cũng từ tốn, sắc
sảo và đầy trìu mến. Hơn nữa, bác Tư Hiền đã quy y Tam Bảo năm giới, và thọ
thập thiện, và thọ Bồ Tát Giới với hòa thượng Quy Thiện từ lúc bác mới ba mươi
mốt tuổi. Hòa thượng đặt cho bác cái pháp danh là Thiện Yên. Vị bổn sư không
phải đặt pháp danh cho bác theo dòng kệ mà đặt theo tâm địa hiền lành và bình
yên của bác. Về sau chúng tôi thường gọi bác là cụ Thiện.
Cụ Thiện Yên đã ăn chay trường trên ba mươi năm kể từ ngày thọ Bồ Tát giới.
Hằng ngày cụ thường trì tụng kinh Pháp Hoa, mà phẩm Phổ Môn cụ nằm lòng như
kinh tụng mỗi ngày. Cụ không những tự mình tu hành tinh tấn, mà lúc nào cũng
vui vẻ khuyên bảo con cháu, người xa kẻ gần, làm lành lánh dữ. Vì cụ Thiện Yên
là người đỡ đầu tinh thần cho chúng tôi nên chúng tôi đều lắng nghe lời dạy của
cụ là phải ăn chay mỗi tháng sáu ngày và cách tu tập hàng ngày là lấy yếu chỉ
kinh Phổ Môn làm đề mục trì tụng, sống theo hạnh từ bi, lợi người, cứu khổ của
đức Quán Thế Âm Bồ Tát.
Cụ Thiện Yên sống với đứa cháu
nội làm nha sĩ ở bên Thụy Sĩ. Chúng tôi cả nhà may mắn được tàu Cao Ủy đưa về
Hồng Kông tạm trú sáu tháng, và sau đó được chú em bảo trợ qua Mỹ, đã có nhà ở
tại một thành phố nhỏ cận
Gia đình chúng tôi mua vé máy
bay mời cụ Thiện Yên, bà mẹ đỡ đầu tinh thần của chúng tôi qua Mỹ thăm hai lần.
Cụ Thiện Yên cũng có đi Pháp, Cannada, đi Úc… thăm bởi những đứa con tinh thần
của cụ bảo trợ tài chánh.
Chúng tôi đến Mỹ và thỉnh tượng đức Quán Thế Âm Bồ Tát về thờ ngay trong nhà.
Trong nhà mỗi tuần tụng kinh Phổ Môn một lần và hàng ngày mỗi người đều trì
niệm danh hiệu đức Phật A Di Ðà và đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Chúng tôi hết lòng
tri ân và kính trọng cụ Thiện Yên như hình ảnh của một vị Bồ Tát, vì không
những nhờ ảnh hưởng tu hành của cụ mà chúng tôi được thoát nạn; xa hơn, chính
nhờ sự hướng dẫn của cụ mà cả gia đình chúng tôi biết hòa hợp, biết thương yêu
và đùm bọc lẫn nhau một cách tốt đẹp trong nếp sống mới.
Quảng Ðại
Nguyễn Thanh Hậu kể
C. Kết Luận.
Tam Bảo là ba ngôi báu quý để chúng ta
trỡ về nương tựu tu tập thoát khỏi sanh tử khổ đau. Chúng ta đã đi lang thang,
trôi nổi trong trần lao sanh tử vô lượng vô số kiếp rồi, nếu tính đếm số kiếp
mà chúng ta trôi lăn trong luân hồi sanh tử thì không thể nào tính hết nên
trong kinh nói “vô thỉ vô chung”.
Trong sự sanh tử, chúng ta luân hồi
trong ba cõi sáu đường, trong tam đồ lục đạo, dù có lúc chúng ta sanh trong cỏi
trời người hưởng phước nhưng nó vẫn nằm trong cảnh hành khổ và hoại khổ, chưa
nói những khi chúng ta sanh vào tam đồ ác đạo thì sự đau khổ không thể nào tả
hết, trong kinh nói “nước mắt của chúng sanh nhiều hơn biển cả”, câu kinh này cho
chúng ta biết được cái khổ của chúng sanh nhiều như thế nào rồi vậy.
Chúng ta đã chịu quá nhiều đau khổ trong
biển khổ sanh tử, thôi bây giờ chúng hãy hồi đầu, hãy quay về, hãy cùng nhau
lên thuyền Bát Nhã để đi đến bến giác an vui. Thuyền Bát Nhã chính là Tam Bảo
là ba ngôi báu để chúng ta quy y, nương tựu, tu tập hầu sớm thoát khỏi trần lao
sanh tử khổ đau.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét