Thứ Sáu, 15 tháng 4, 2022

NHÂN QUẢ

 

NHÂN QUẢ

 

A. Dẫn nhập

Nhân quả là chân lý, là định luật chi phối vũ trụ chúng sanh. Con người giàu nghèo, khổ đau, an vui đều từ nhân quả mà ra.

B. Nội dung

    I. Định nghĩa

Nhân Quả là gì?

Nhân là hạt, mầm móng, chồi trược, là nguyên nhân, là động lực phát  động.

Quả là trái, là kết quả, thành quả. Nguyên nhân gây thế nào, kết quả ra thế ấy. Như trồng cam thì được cam, gieo lúa thì được lúa v.v… Nói chung tùy theo nhân đã giao mà có kết quả tương xứng hoặc khổ đau hay an vui trong hiện tại hay tương lai.

    II. Trợ duyên Nhân quả

Trợ duyên nhân quả là những duyên phụ. Ví dụ khi trồng cây cam thì công người, thời tiết, phân bón v.v… là những trợ duyên nhân quả.

    III. Phân loại Nhân quả

1. Nhân Đồng thời

Nhân quả đồng thời là nhân quả có cùng một lúc, hay nói cách khác khi gieo nhân thì gặt quả liền, như ăn là nhân no là quả, hay như đánh trống là nhân triếng phát ra liền là quả.

Những mẫu chuyện dẫn chứng nhân quả đồng thời

1. Thợ Săn Bị Bầy Chó Của Mình Nuốt Sống (trích trong Kinh Pháp Cú)

Thế Tôn dạy câu này ở Kỳ Viên liên quan đến thợ săn Koka.

Sáng sớm, thợ săn Koka vào rừng với cung tên và bầy chó săn theo sau. Hắn trông thấy bên lề đường một Tỳ-kheo đang vào làng khất thực. Hắn bực bội vì cho rằng gặp một kẻ xúi quẩy. Không biết có phải vì thế không, mà anh ta sục sạo trong rừng cả ngày chẳng được con thú nào. Còn Trưởng lão khất thực và thọ thực xong trở về tinh xá. Cả hai gặp nhau, và thợ săn vẫn còn tức tối, lùa chó đến cắn Trưởng lão dù Ngài van xin hắn. Ngài vội vã trèo lên cây, bầy chó vây quanh dưới gốc. Thợ săn cay cú nói với theo:

- Ðừng tưởng thoát khỏi nanh vuốt của ta nhé!

Rồi hắn lấy mũi tên đâm vào bàn chân Trưởng lão. Ngài van xin nhưng hắn mặc kệ, cứ đâm hết nhát này tới nhát kia, cho đến khi bàn chân Ngài nát bét. Ngài kéo chân đó lên và thò chân kia xuống. Hắn lại đâm tiếp. Ngài lại kéo chân kia lên. Ngài quá đau nhức, như thể ngồi trên ngọn đuốc, đến nỗi không còn chú ý đến chuyện gì hết, chiếc y ngoài rơi xuống mà Ngài chẳng hay, và chiếc y chụp xuống đầu thợ săn trùm đến chân.

Bầy chó tưởng đó là Trưởng lão rớt trên cây xuống, chúng luồn dưới chiếc y kéo ra nhai sống anh thợ săn đến trơ xương. Chui ra khỏi đống y, chúng đứng đợi. Trưởng lão bẻ một cành cây khô ném xuống. Thấy Trưởng lão chúng mới biết là đã ăn thịt chủ mình, liền cong lưng chạy tót vào rừng.

 2. Hai vợ chồng nghèo  (trích trong Kinh Hiền Ngu)

Một thời Đức Thế Tôn ở nước Xá Vệ, tại tinh xá Kỳ Hoàn giảng thuyết cho bốn chúng tu tập.

Thuở đó có ông Trưởng giả sinh được cô con gái, dong nghi tốt đẹp, vào bậc nhất nhì hạng nữ lưu trong nước, lạ thay! Cô này sinh ra đã có miếng lụa trắng bọc quanh người. Thấy thế cha mẹ cô cho là quái gở, mời thầy về coi, thầy nói:

- Ông bà không lo, cô gái của ông bà có phước đức lớn, và tôi xin đặt tên cho cô là Thúc Ly.

Thúc Ly lớn thì miếng lụa cũng lớn theo. Cô xinh đẹp lại con nhà sang trọng, nên trong nước nơi xa, nơi gần, đều đến cầu hôn, nhưng cô không ưng thuận một ai.

Hôm ấy cha cô gọi thợ gốm về nhà làm các đồ nữ trang, cô hỏi:

- Thưa cha! Cha làm những vật này để làm gì?

- Con đã lớn tuổi, cha làm cho những vật này để gả chồng cho con.

- Thưa cha! Vợ chồng chỉ có nhất thời, con xét vô ích, chỉ gây thêm cái đau khổ cho mình mà thôi, ý con muốn xuất gia tu đạo giải thoát là hơn.

Ông bà chỉ sinh được mình cô, nên tùy ý chứ không cưỡng ép.

Hôm sau ông đi mua lụa sạch điệp về may áo, cô hỏi:

- Thưa cha! Lụa này để may áo gì?

- Cha may áo Ngũ Điều cho con đi xuất gia!

- Thưa cha! Khỏi phải may nữa! Tấm áo con đương mặc đây đủ rồi, xin cha dẫn con đến nơi Phật ngự!

Hôm sau cả hai ông bà và cô cùng đi yết kiến Phật tới nơi cúi đầu làm lễ bạch rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Thân người khó được, gặp Phật tại thế lại khó hơn, cúi xin Ngài từ bi tế độ cho con được xuất gia tu đạo!

Phật dạy: Thiện Lai Tỷ Khưu! Ngài nói dứt lời đầu cô rụng hết tóc, còn tấm lụa trên mình cô biến thành áo Cà Sa Ngũ Điều. Phật giao cô cho bà Đại AĐạo Tỷ Khưu Ni dạy bảo pháp tu, cô tu hành tinh tiến, chẳng bao lâu chứng quả A La Hán.

Tôi thấy thế cho làm lạ nên tôi (A Nan) quỳ xuống thưa rằng:

- Kính lạy Đức Thế Tôn! Thúc Ly Tỷ Khưu Ni xưa tu công đức gì, nay được sinh vào nhà tôn quý, lại có mảnh lụa trắng sinh theo, xuất gia chưa được bao lâu đã chứng quả La Hán, cúi xin chỉ giáo cho chúng con được rõ.

Phật dạy rằng: - Này ông A Nan hãy nghe cho kỹ, tôi sẽ nói cho ông hay!

- Dạ con xin chú ý nghe!

- A Nan! Đời quá khứ đã quá lâu xa, có đức Phật ra đời, hiệu là Tỳ Bà Thi, thường ngày Ngài cùng các đệ tử đi tế độ nhân gian, đi đến đâu vua quan dân chúng cúng dàng rất đông, và đặt ra những kỳ đại hội để thỉnh Phật thuyết pháp.

Khi đó một thầy Tỷ Khưu có lòng quảng đại, muốn tiếp phúc cho nhân dân, nên ngài chăm đi khuyến hóa từng nhà, làm hạnh bố thí và nghe giảng thuyết chánh pháp của Như Lai.

Thuở đó có một thiếu phụ nhà rất nghèo khổ, hai vợ chồng chỉ có mảnh vải che thân, nếu chồng đi xin thì chồng mặc, vợ trần truồng ngồi trong đống cỏ khô, nếu vợ đi xin thì vợ mặc, chồng trần truồng ngồi trong đống cỏ khô.

Thầy Tỷ Khưu đi qua ngó thấy cô, Ngài nói rằng:

- Cô nên biết: Được sinh làm người là khó, gặp Phật tại thế lại khó hơn, hiện nay đức Phật đang thuyết pháp, cô đi đến nghe thuyết pháp được phước vô lượng, con người tham sẻn bị tội nghèo đói, chăm làm hạnh bốt thí được phước giàu sang.

- Dạ! Kính bạch Đại Đức, con rất sung sướng được nghe lời của Ngài giáo hóa, xin Ngài hãy đứng đây chờ con một chút!

Cô vào nhà bảo chồng rằng:

- Anh ơi! Ngoài ngõ có một vị Sa Môn khuyên chúng ta nên đến gặp Phật, để nghe Phật thuyết pháp, và khuyên ta nên làm việc bố thí, là vì đời trước không biết bố thí nên kiếp này bị nghèo cùng khổ não, bây giờ ta phải làm cách gì, để trồng cái nhân lành, ngõ hầu kiếp sau mới có phần an hưởng.

Đáp: - Nhà ta nghèo đói như thế này, được bữa hôm mất bữa mai, biết lấy gì mà bố thí.

- Anh ơi! Đời trước tham sẻn, lại không biết làm hạnh bố thí cho nên đời này, bị nghèo khốn, nếu kiếp này không làm nhân bố thí đời sau lấy phước gì để nương cậy? Bây giờ anh hãy nghe tôi, tôi quyết định bố thí.

Người chồng thầm nghĩ: "Hay là vợ ta có chút của riêng", thì cứ đồng ý đi:

- Phải em cứ bố thí đi, việc đó anh rất vui lòng!

- Thưa anh! Em muốn đem mảnh vải của em đang khoác đây ra để cúng dàng, anh có ưng thuận không?

- Hai vợ chồng chúng ta chỉ có một mảnh vải này, che thân để hằng ngày đi xin nuôi nhau, bây giờ đem cúng dàng thì lấy gì che thân mà đi xin, ngồi nhìn nhau mà chết hay sao?

- Anh ơi! Con người ai cũng phải chết, không bố thí với bố thí, rồi cũng chết cả, thà bố thí mà chết, đời sau còn có phước lành, hưởng quả báo giàu sang, không làm hạnh cúng dàng bố thí sau rồi cũng chết, trái lại đời sau không có nhân lành trông cậy.

Người chồng nghe vợ nói phải, vui vẻ đáp:

- Em nói thế hay lắm! Bây giờ chúng ta giữ lấy phần chết, đem cúng dàng cầu phước lành cho đời sau!

Cô thấy chồng có lòng cương quyết và vui vẻ, nên ra thưa rằng:

- Kính bạch Đại Đức, xin Ngài trèo lên mái nhà, con có chút vật mọn dâng Ngài về cúng Phật.

- Muốn cúng thì dâng trước mặt ta, để ta chú nguyện cho, trèo lên mái nhà làm chi?

- Bạch Đại Đức, vợ chồng con chỉ có một mảnh vải này, trong nhà không có vật gì khác nữa, sợ lõa lồ thân thể đàn bà xấu ác, tội nghiệp, nói xong vào nhà đóng cửa, cởi mảnh vải vất qua cửa sổ cúng dàng.

Thầy Tỷ Khưu thấy vợ chồng nhiệt tâm như vậy, mặc dầu bẩn cũng cứ nhận làm phép chú nguyện mang về dâng Phật.

Vừa về tới Tinh Xá, Phật hỏi ngay:

- Tỷ Khưu mang mảnh vải ấy lại đây cho ta!

- Dạ! Kính lạy đức Thế Tôn, nhận lòng thành cúng dàng của vợ chồng nhà nghèo.

Phật liền đỡ lấy, và có vẻ thương!

Lúc đó có ông vua, hoàng hậu, cung phi, thể nữ, quan đại thần, dân chúng đương ngồi nghe Phật thuyết pháp, ai cũng có chút tâm lạ với Phật, vì Phật cầm cái mảnh vải đầy nhơ bẩn cáu ghét tanh hôi. Phật biết tâm của đa số người như thế, ngài nói:

- Ta xem trong đại hội này, phát tâm làm việc bốt thí lớn và thanh tịnh, thì không ai hơn được người này!

Nghe Phật nói, tất cả đại hội đều sợ, Bà Hoàng hậu vui vẻ cởi áo của mình và nữ trang, vua cũng lấy áo và tiền bạc, sai người mang đến cho hai vợ chồng Đàn Ly Già, và mời ngay đến chốn Phật nghe pháp.

Nhân thế đức Phật thuyết về phước báu bố thí và tội keo sẻn trộm cắp cho đại chúng nghe, khi đó có rất nhiều người phát tâm tu hạnh bố thí!

Tới đây Phật nhắc lại rằng:

- A Nan! Ông nên biết vợ Đàn Ly Già, thuở đó nay là Tỷ Khưu Ni Thúc Ly vì phát tâm thanh tịnh cúng dàng, nên trong chín mươi mốt kiếp, sinh nơi đâu cũng có tấm lụa sinh theo, lại được giàu sang sung sướng an vui. Cũng bởi nghe Phật thuyết pháp và có tâm cầu giải thoát, nên đời nay được gặp ta chứng quả A La Hán như thế đó, các ông cũng nên tinh tiến nghe pháp và bố thí, ngày sau sẽ kết quả trang nghiêm.

Phật thuyết xong, có rất nhiều người phát tâm cúng dàng, làm hạnh bố thí, ai nấy đều vui vẻ lễ kính mà lui.

3.Vừa Là Cha Vừa Là Mẹ (trích trong kinh Pháp Cú)

Thế Tôn dạy câu trên khi ngài ngụ tại Kỳ viên trong Thành Xá-vệ, cho vị chưởng khố, tức trưởng lão Soreyya. Chuyện bắt đầu tại thành Soreyya và kết thúc ở Xá-vệ.

Khi bậc Chánh Ðẳng Giác ngụ tại Xá-vệ, thì ở thành Soreyya con của vị chưởng khố tên Soreyya, ngồi trên xe kiệu với một người bạn thân và đám tùy tùng đông đảo, ra ngoài thành đi tắm. Họ gặp trưởng lão Ðại ca-chiên-diên đang đắp đại y trước khi vào thành khất thực. Thân thể vàng óng của trưởng lão đập vào mắt Soreyya khiến anh không khỏi buột miệng: "Ồ! phải chi Trưởng lão này là vợ ta! Hoặc giả vợ ta có nước da được như thế!" Ý muốn vừa dấy khởi thì anh biến thành đàn bà. Bối rối và hổ thẹn, anh bước xuống xe và vụt bỏ chạy. Những người đi theo không biết việc gì xảy ra nhao nhao lên:

- Thế nghĩa là gì? Thế nghĩa là gì?

Soreyya mang thân phụ nữ bỏ đi về phía Takkasilà. Người bạn chung xe kiếm anh khắp nơi không thấy. Tắm xong mọi người về nhà. Họ lắp bắp trả lời với cha mẹ anh là anh đã về trước. Ðến phiên cha mẹ anh đi tìm khắp nơi vẫn không thấy, hai ông bà khóc lóc than van; cuối cùng cho là anh đã chết, họ làm đám tang.

Soreyya, bấy giờ là phụ nữ gặp đoàn thương buôn cùng hướng về Takkasilà, bèn theo sát xe ông trưởng đoàn. Trong đoàn chú ý đến cô, và thắc mắc không biết cô là con cái nhà ai. Cô bảo họ cứ đi xe còn cô đi bộ theo. Ði hết một đoạn đường dài, cô lo lót họ với chiếc nhẫn làm quà để xin một chỗ ngồi trên xe. Họ nghĩ, đến con trai chưởng khố thành Xá-vệ chưa có vợ, và muốn làm mai cho cô, mong được quà cáp hậu hỷ. Thấy cô hợp tuổi mình và quá đẹp, anh ta bằng lòng cưới cô.

(Ai cũng phải trải qua thân phận khi làm đàn ông, khi làm đàn bà. Như ngài A-nan, người đầy đủ đức tính toán hảo trong trăm ngàn kiếp, và là một Ðại đệ tử, đã từng là thợ rèn ở một kiếp trong vòng luân hồi, phạm tội với vợ người khác bị đọa địa ngục, và sau đó vì quả báo của hành động xấu chưa hết, Ngài phải trải qua mười bốn kiếp làm vợ người khác cộng thêm bảy kiếp nữa mới dứt nghiệp. Mặt khác, không muốn làm đàn bà nữa, và lập nghiệp được tái sanh làm đàn ông, sẽ được như ý. Ngoài ra, những đàn bà vợ cư xử tốt với chồng sẽ tái sanh làm đàn ông. Nhưng Soreyya đã dại dột mơ tưởng tới Trưởng lão, nên ngay trong kiếp này đã biến thành đàn bà).

Cô Soreyya có thai và sau mười tháng sanh một bé trai. Khi đứa bé chập chững biết đi thì cô sanh đứa thứ hai. Như thế Soreyya trước là cha hai đứa con sanh ở thành Soreyya, nay là mẹ hai đứa nữa sanh ở thành Takkasilà, tất cả là bốn đứa. Một hôm con vị chưởng khố, bạn đồng hành khi xưa của Soreyya, rời thành Soreyya với năm trăm xe đi đến thành Takkasilà. Lúc đó cô Soreyya đứng nơi cửa sổ trên lầu cao nhất trong lâu đài nhìn xuống đường nhận ra anh bạn, liền sai tỳ nữ mời vào căn phòng lớn, tiếp đãi kính trọng như thường lệ.

Khách nói với chủ nhà:

- Thưa bà, tôi chưa hề biết bà nhưng bà đón tiếp tôi quá tốt. Bà biết tôi sao?

Chủ nhà từ tốn:

- Phải ông ạ. Tôi biết ông rất rõ. ông không còn ở trong thành Soreyya à?

- Vâng, thưa bà.

Và bà chủ nhà hỏi thăm sức khỏe cha mẹ vợ con mình lúc trước. Khách trả lời tất cả đều khỏe và chất vấn tiếp:

- Bà biết họ à?

- Vâng ông ạ, tôi biết họ rất rành. Và này ông, họ có một anh con trai, hiện nay không biết ở đâu?

Khách buồn bã kể lại chuyện đau lòng năm xưa, chủ thú thật:

- Này ông, chính tôi là anh ta đấy!

- Thôi đi bà! Bà nói gì lạ thế? Anh ta là bạn thân của tôi, anh ta như một thiên thần trẻ trung, là một người đàn ông.

- Ấy thế đó! Nhưng tôi lại chính là anh ta đấy, hoàn toàn đúng như thế.

- Thế là thế nào?

- Ngày đó, ông có nhớ là đã trong thấy Trưởng Lão Ðại ca-Chiên-diên không?

- Vâng, tôi nhớ là có gặp Ngài.

- Bỗng dưng lúc đó tôi chợt nghĩ phải chi Trưởng lão là vợ mình hoặc vợ mình có được nước da như Trưởng lão. Tức khắc tôi biến thành đàn bà. Tôi liền bỏ chạy một mạch đến xứ này.

- Ồ thật là tai hại! Tại sao anh không nói với tôi? Mà anh đã sám hối không?

- Ngài đang ở gần đây, ngay trong thành này.

- Ngài đến đây ư? Tôi muốn cúng dường vật thực cho Trưởng lão.

- Tốt lắm, hãy chuẩn bị đầy đủ. Tôi sẽ thuyết phục Trưởng lão tha lỗi cho anh.

Rồi người bạn ngày xưa của Soreyya đến chỗ Trưởng lão, đảnh lễ Ngài, cung kính ngồi một bên xin Trưởng lão nhận lời cúng dường ngày mai. Ngài nhận lời. Sáng hôm sau Ngài đến đứng trước cửa nhà. Con của chưởng khố dâng Ngài chỗ ngồi và những thức ăn chọn lọc. Rồi ông dẫn người đàn bà đến phủ phục dưới chân Ngài kể lại tự sự và xin được tha thứ.

Trưởng lão hoan hỷ:

- Tốt lắm, hãy đứng lên. Ta tha thứ cho bà.

Trưởng lão vừa dứt câu, Soreyya lập tức biến trở lại thành đàn ông. Người chồng cũ của Soreyya trấn an anh:

- Bạn thân! Vì anh đã là mẹ trong khi tôi là cha của hai đứa bé này. Chúng thật sự là con của cả hai chúng ta. Vậy chúng ta vẫn tiếp tục sống lại đây. Ðừng khó chịu.

Soreyya:

- Này bạn, tôi trải qua hai lần chuyển hóa trong một đời người. Trước tiên tôi là đàn ông, biến thành phụ nữ giờ trở lại làm đàn ông. Ban đầu tôi là cha của hai đứa bé, mới đây là mẹ của hai đứa nữa. Bạn đừng nghĩ rằng sau khi đã trải qua hai lần chuyển hóa trong một kiếp sống, tôi bằng lòng sống đời tại gia nữa. Tôi sẽ đi tu theo Trưởng lão của tôi. Bổn phận của bạn là nuôi dưỡng hai đứa bé này. Chớ xao lãng.

Nói xong Soreyya hôn hai đứa con, ôm vào lòng và trao lại cho người cha, bước ra khỏi nhà, và trở thành tu sĩ theo Trưởng Lão. Trưởng lão thuận cho anh vào Tăng đoàn, nhận cho anh làm tròn bổn phận, dẫn anh cùng về thành Xá-vệ. Và anh trở thành Trưởng lão Soreyya.

Dân cư trong xứ nghe chuyện rất xúc động và xôn xao, đến hỏi Trưởng lão Soreyya có thật như thế không, và tình cảm dành cho hai đứa con nào mạnh hơn. Trưởng lão trả lời thương hai đứa gọi bằng mẹ hơn. Xong trưởng lão rút lui khỏi đám đông. Khi ngồi thì ngồi một mình, khi đứng thì đứng một mình. Sống độc cư như thế, Ngài quán chiếu về sự hoại diệt, và chúng A-la-hán cùng những thần thông. Kề từ đó có ai hỏi Ngài thương hai đứa bé nào hơn thì Ngài trả lời rằng không đặt tình cảm lên đứa nào cả. Các Tỳ-kheo nghe vậy cho là Ngài nói dối, và thưa chuyện đến Phật. Phật trả lời:

- Các Tỳ-kheo! Ðệ tử ta không nó dối. Tâm đệ tử Ta hoàn toàn chất trực từ khi ông ta thấy đạo. Không có cha mẹ nào có thể mang đến lợi lạc cho mình mà chỉ có tâm hướng về chánh đạo làm được điều tốt đẹp.

2. Nhân quả Dị thời

Nhân quả dị thời là nhân quả trãi qua thời gian gồm có ba thời là quá khứ, hiện tại và vị lai. Nhân quả nhị thời có ba loại báo là hiện báo, sanh, báo và hậu báo.

    a. Hiện báo

 Ðây là quả báo trong kiếp hiện tại; có nghĩa hiện thế gây nhân thì hiện đời chịu quả. Quả báo nầy có tánh cách mau, ví như trồng loại cà, ớt hay gieo giống lúa, chỉ trong vòng một mùa, một năm đã thu được kết quả. Hiện báo còn gọi là Hoa báo, danh từ nầy hàm ý nghĩa mau lẹ, ảnh hưởng không đợi đến thời kỳ sanh trái, mà đã phát lộ trong thời kết bông.

Những mẫu chuyện dẫn chứng

1. Làm nghề giết gà quả báo bị câm (trích trong sách Nhân quả báo ứng)

Có một người làm nghề mổ gà mướng, hàng ngày mổ không biết bao nhiêu là gà vịt, lâu dần chuyện mổ gà  con như là thú vui của mình.

 Sau một thời gian ngắn, người này mắc bệnh câm, nói năng không được.

2. Cô gái ăn mày cúng tiền (trích trong truyện cổ Phật giáo)

 Có một cô gái nghèo khổ phải đi ăn xin. Cô dành dụm được một ít tiền và phát tâm đem đến chùa cúng dường Tam bảo.

Cô đến một ngôi chùa nọ, sau khi kể hoàn cảnh của mình và dâng lên cúng dường những đồng tiền xin được được. Vị Hòa Thượng trong chùa cảm động tấm lòng chân thành nhiệt tâm của cô nên đứng ra hồi hướng chúc phúc cho cô.

Sau khi cúng dường song, cô ra về, đi một đoạn đường cảm thấy mệt, cô đến ngồi nghỉ ở gốc cây bên đường và ngủ thiếp đi.

Vào thời này, hoàng hậu vị vua đương kim đã qua đời, nhà vua muốn chọn một người đức hạnh có phước để lên ngôi hoàng hậu. Vua cho vị quan đoán tướng đi khắp đất nước để chọn.

Hôm nọ, phái đoàn của vị quan đi cùng trên con đường của cô gái ăn xin. Từ xa vị quan xem tướng thấy trên ngọn cây cổ thụ có vần mây ngủ sắc, vị quan biết ở đó có người đức hạnh phước đức nên hối hả cả đoàn đến đó. Nhìn dưới gốc cây thấy một cô gái trẻ đẹp đang ngủ, biết cô này là người có phước đức nên trình bày mục đích của mình và rước cô gái về cung lên ngôi hoàng hậu.

3. Vị Tỳ Kheo hủy báng Ngài Xá Lợi Phất bị quả báo mục nhọt (trích trong Kinh Tạng)

Có vị Tỳ kheo do tâm tật đố với ngài Xá Lợi Phất nên vu khống ngài Xá Lợi Phất. Chư thiên, các bạn đồng học, cho đến Đức Phật khuyên vị này bỏ tâm xấu ác đó nhưng vị này cũng không bỏ. Sau, vị này bị một chứng bệnh là mụt nhọc lở đầy người rất đau khổ. chỉ một thời gian ngắn vị này chết và bị đọa vào địa ngục.

   b. Sanh báo

Sanh báo là gây nhân kiếp nầy, đời kế sau mới chịu quả báo. Quả báo nầy có tánh cách hơi lâu.

Nhưng mẫu chuyện dẫn chứng

1. Chuyện Bà Thanh Đề (trích trong Kinh Báo Hiếu)

Mẹ ngài mục Kiền Liên do tham lam keo kiệt và hủy báng tam bảo nên sau khi chết bị đọa vào đường ngạ quỷ

2. Chuyện hai anh em (trích trong Kinh Tạng)

3. Chuyện Hoàng Hậu vua Lương Võ Đế (trích trong Kinh Lương Hoàng Sám)

   c. Hậu báo

          Hậu báo là gieo nhân đời này mà đời tứ ba trỡ đi cho đến vô lượng kiếp sau mới lãnh quả báo.

Nhưng mẫu chuyện dẫn chứng

1. Chuyện Ngộ Đạt Quốc Sư (trích trong Kinh Thủy Sám)

Xưa kia, đời Đường, triều vua Ý tông, có ngài Ngộ đạt quốc sư, pháp danh Tri huyền. Khi chưa là quốc sư, tại kinh đô, tình cờ ngài gặp một tăng nhân, nhưng quên hỏi chỗ ở của vị này. Vị này bị bịnh ca ma la (2) . Ai cũng gớm, chỉ ngài Tri huyền gần gũi, luôn luôn thăm hỏi săn sóc, chưa bao giờ có một vẻ ghê chán. Vì vậy, khi chia tay, vị ấy cảm cái nghĩa và tác phong của ngài, dặn rằng, sau này ngài sẽ bị nạn, lúc đó hãy tìm nhau tại núi Trà lũng (3) ở Bành thành, thuộc Tây Thục, chỗ có hai cây tùng làm dấu.

Sau đó, ngài Ngộ đạt đến chùa An quốc, đạo đức rực rỡ. Ý tông thân hành đến pháp tịch của ngài, ban pháp tọa bằng gỗ trầm hương và cung phụng rất hậu. Nhưng cũng từ đó, đầu gối của ngài tự nhiên mọc cái mụt "mặt người", mắt mày răng miệng đủ cả, thỉnh thoảng đút cho đồ ăn thức uống thì cũng há miệng nuốt như người vậy. Danh y mời đủ cả mà ai cũng bó tay.

Ngài nhớ lại lời dặn của vị tăng nhân ở chung ngày trước, nên vào núi tìm. Nhằm lúc trời đã chiều tối, ngài bàng hoàng nhìn khắp bốn phía, thấy hai cây tùng ở trong chỗ mây khói. Tin lời ước hẹn là đúng, ngài bước ngay đến chỗ ấy. Thì là lầu cao, điện lớn, ánh sáng vàng và ngọc giao xen với nhau. Vị tăng nhân đã đứng đầu cửa, đón tiếp niềm nở, và mời ngài ngủ lại. Ngài đem cái khổ của mình nói với tăng nhân thì vị này bảo không hại gì, dưới núi này có một con suối, sáng ngày xuống rửa là khỏi.

Sáng sớm, đạo đồng dẫn ngài xuống suối, mới vốc nước, mụt ghẻ mặt người đã kêu lớn lên, khoan rửa đã, ngài là kẻ biết nhiều, hiểu rộng, đọc hết cổ kim, vậy mà ngài đã đọc cái chuyện Viên Án với Triệu Thố trong Tây Hán thư chưa? Đọc rồi, ngài Ngộ đạt trả lời. Cái mụt lại bảo, đọc rồi mà ngài không biết Viên Án đã giết Triệu Thố sao? Ngài là Viên Án, còn Triệu Thố là tôi đây. Triệu Thố bị chém ngang lưng ở chợ phía đông, oan khốc đến mức nào. Nên bao đời tôi đã tìm cách báo ngài. Nhưng ngài mười đời đều làm cao tăng, giới luật nghiêm tịnh, sự báo oán của tôi không có cơ hội. Nay ngài hưởng sự đãi ngộ của vua chúa quáxa xỉ, lòng danh lợi mống lên, cái đức có phần thương tổn, tôi mới hại ngài được. Ngày nay, mong ơn tôn giả Ca nặc rửa cho tôi bằng nước "từ bi tam muội", từ nay sắp đi, tôi không còn là kẻ oan gia của ngài nữa.

Ngộ đạt quốc sư nghe mà cơ hồ hồn phách thoát khỏi cơ thể, luôn tay vốc nước mà rửa, đau thấu xương tủy, ngất đi hồi lâu mới tỉnh. Coi lại thì mụt ghẻ mặt người đã không còn nữa. Ngộ đạt quốc sư mới biết các vị hiền thánh xen lẫn dấu vết trong dân gian là điều mà người phàm khó lường biết nổi. Muốn trở lại chiêm bái, nhưng ngoái nhìn thì tự viện đã không còn. Vì vậy, Ngộ đạt quốc sư mới dựng thảo am ngay nơi chỗ ấy, và sau này thành một tự viện. Tống triều ta đây, niên hiệu Chí đạo, sắc tứ là Chí đức thiền tự, có vị cao tăng tên Tín, húy Cổ, viết bài ký sự ghi lại việc này rất rõ.

Ngộ đạt quốc sư, lúc ấy, cảm kích sự kỳ lạ của Ca nặc tôn giả, thấm thía rằng oan trái nhiều kiếp phi gặp thánh nhân không làm sao cởi mở cho được. Nhân đó mà thuật lời thánh giáo, viết ra sám văn này, để hôm sớm lễ bái trì tụng, và sau đó đã phổ biến khắp cả nhân gian. Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám, là Ngộ đạt quốc sư cảm sự kỳ lạ của Ca nặc tôn giả, nên chính xác cái tên và nêu lên cái nghĩa như thế để báo đáp ơn ngài. Nay kể rõ sự thật từ ngày xưa, nêu cao cống hiến của người trước, là mong những kẻ sau này, hoặc lễ bái hoặc trì tụng, hễ dở sám văn ra là đã biết sự tích người xưa vốn có lý do, và nhân quả nhiều đời vẫn không khuất mờ.

2. Chuyện họ Thích bị vua Tỳ Lưu Ly hại (trích trong Kinh Tạng)

Dòng họ thích

3. Chuyện Cá trăm đầu (trích trong Kinh Hiền Ngu)

Một thời đức Phật ở nước Ma Kiệt Đề, tại vườn Trúc.

Một hôm đức Thế Tôn và các vị Tỷ Khưu, sang nước Tỳ Xá Ly, ngồi nghỉ mát trên bờ sông Lê Việt. Trên bờ có năm trăm người chăn trâu và năm trăm người đánh cá; những người đánh cá này, họ có ba thứ lưới: một thứ hai trăm người kéo; một thứ ba trăm người kéo; một thứ năm trăm người kéo.

Đức Như Lai và các vị Tỷ Khưu ngồi cách họ cũng không xa, một lát thấy năm trăm người nọ, kéo hết sức cũng không nổi, sau họ gọi bọn năm trăm người chăn trâu lại kéo giùm, một lúc kéo lên được con cá rất lớn; trên mình cá có đủ trăm đầu thú: đầu ngựa, đầu lạc đà, đầu hổ, đầu chó sói, đầu lợn v.v… cá lạ xúm nhau lại xem.

Thấy thế, Phật sai tôi lại coi. Tôi vâng lời, lại nhìn thấy con cá lớn trên mình có đủ trăm đầu thú khác nhau, tôi lại trở về bạch Ngài biết rõ căn nguyên.

Ngài cùng đại chúng đi lại xem, khi tới nơi Ngài hỏi cá rằng:

- Cá, có phải là Ca Tỳ Lê không?

Cá đáp: - Thưa phải.

Ngài hỏi tiếp: 

- Kiếp này làm cá, kiếp sau biết về đâu không?

- Thưa Ngài, kiếp sau về địa ngục A Tỳ.

Tôi và đại chúng không rõ tại sao, bèn hỏi Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Ngài gọi con cá này là Ca Tỳ Lê vì lý do gì, xin nói cho chúng con được rõ?

Phật dạy: - Các ông hãy lắng nghe tôi nói nguyên ủy con cá này cho biết: Trước đây, về thời đức Phật Ca Diếp có một người Bà La Môn sinh được cậu con trai, đặt tên là Ca Tỳ Lê; cậu này thông minh tài trí, đối với hàng văn hoa trí thức thời đó; anh ta giỏi nhất. Tuy thế nhưng đối với trí tuệ học vấn của các vị Sa Môn thì anh ta kém đặc.

Khi cha anh chết có dặn anh rằng:

- Con chớ đàm luận với các vị Sa Môn của đức Phật Ca Diếp; vì các vị có trí tuệ sâu rộng, con không thể bì kịp.

Sau khi cha anh chết: anh vẫn còn đi học; và anh được tiếng khen trong nước là người tài biện luận, nhưng không bao giờ anh ngồi đàm luận với các vị Sa Môn, thấy con khuyết diểm ấy, nên một hôm mẹ anh hỏi rằng:

- Con vốn là người cao minh học vấn; đời nay có ai hơn được con không?

- Dạ! Thưa mẹ, các vị Sa Môn hơn con nhiều lắm!

- Hơn con thế nào?

- Thưa mẹ! Nếu con có chỗ nào không biết, đến hỏi thì các vị giải đáp rõ ràng dễ hiểu; nếu các vị hỏi lại thì con không đáp nổi, bởi vậy nên con biết kém!

- Vậy sao con không đến học hỏi phương pháp ấy?

- Thưa mẹ! Nếu học phương pháp ấy, thì phải làm Sa Môn, con là kẻ thế tục làm sao học được!

- Con sẽ giả làm Sa Môn, học tập cho giỏi, rồi lại trở về với mẹ có hại gì!

- Dạ, mẹ dạy con nghe!

Cách một thời gian, anh mang áo cầm bình giả làm Sa Môn, vào tu học, vì anh có trí thông minh sẵn, chỉ một thời gian đã quán thông tam tạng, một hôm về nhà chơi, mẹ anh hỏi: - Con học đã giỏi hơn các vị Sa Môn chưa?

- Thưa mẹ! Học vấn con giỏi ngang, còn tọa thiền con kém.

- Tại sao con biết kém?

- Thưa mẹ, vì phép tọa thiền khó, lý thú siêu hình, con tập cũng không được, học cũng không đạt, vì thế mỗi khi con đàm luận đều bị thua!

- Từ nay trở đi, có đàm luận nếu thua, thì con cứ la mắng sỉ nhục!

- Thưa mẹ, các vị Sa Môn tu đạo từ bi, có tội gì mà mẹ bảo con mắng!

- Vì con có mắng, thì con được!

Ca Tỳ Lê nghe lời mẹ dạy, cứ mỗi khi đàm luận với các vị Sa Môn bị thua, mắng liền: người là kẻ ngu! Người là loài súc sinh hiểu biết gì? Rồi lại tỷ các vị như đầu con thú này; đầu con thú khác, luôn luôn có thái độ ác liệt đối với cá vị Sa Môn!

Nói tới đây Phật nhắc lại rằng:

- A Nan, ông nên biết Ca Tỳ Lê vì ác tâm mắng các vị Sa Môn thuở đó, nay phải chịu báo làm con cá trăm đầu!

- Kính lạy đức Thế Tôn, Ca Tỳ Lê bao giờ được thoát khỏi thân cá!

- A Nan ông nên biết: như ta lấy Phật nhãn mà coi, hãy còn lâu lắm, trong đời hiền kiếp, một ngàn đức Phật đã quá khứ đi rồi, cũng chưa được thoát.

Khi đó tôi và các vị Tỷ Khưu nghe Phật nói xong, ai nấy đều rùng mình rởn gáy, bi thương giao cảm! Đồng thanh nói: Tất cả chúng sanh thân, miệng, và ý nghĩ, phải nên cẩn thận!

Thấy Phật và đại chúng hỏi đáp như vậy, các người đánh cá và chăn trâu, đều chắp tay bái Phật, xin xuất gia tu phạm hạnh.

Phật khen họ tốt và nói:

- Thiện Lai Tỷ Khưu!

Ngài nói dứt lời, râu tóc họ rụng hết, áo mặc mình họ hóa ra áo Cà Sa, biến thành các vị Sa Môn.

Theo Phật tu học không bao lâu, đã hết lậu nghiệp, đắc quả A La Hán.

Vì đại chúng, Phật giảng về Tứ Diệu Đế, tất cả mọi người được nghe diệu pháp đều phát tâm hướng đạo vô thượng Bồ Đề, cúi đầu tạ lễ mà lui.

           3. Nhân quả biến dị

Nhân quả biến dị là từ nhân đến quả có sự thay đổi, hay nói cách khác thì quả không tương đồng với nhân.

4. Nhân quả dị loại

IV. Ứng dụng nhân quả

                    1. Nhân quả loài người: Nhân quả loài người là thọ trì Tam quy Ngũ giới và làm các việc lành.

                  2. Nhân quả chư thiên: Muốn sanh cõi trời thì hành Thập thiện.

                    3. Nhân quả Thanh văn: Tu hành Tứ diệu đế thì chứng quả Thanh văn ra khỏi sanh tử luân hồi.

                    4. Nhân quả Duyên giác: Tu Thập nhị nhân duyên thì chứng quả Duyên giác.

                  5. Nhân quả Bồ Tát: Tu Lục độ ba la mật thì chứng quả Bồ Tát, Bồ Tát có tâm từ bi rộng lớn luôn cứu độ chúng sanh.

         6. Nhân quả Phật: Tu Lục độ Vạn hạnh đến chổ cứu cánh viên mãn thì chứng quả vị Phật.

V. Lợi ích của Nhân quả

1. Không than thân trách phận, oán thán trời đất

2. Mình tự quyết định cuộc đời của mình

3. Không mê tín dị đoan

VI. Giải quyết nghi vấn

1. Người ăn hiền ở lành sao lại gặp tai nạn

Người đời nay ăn hiền ở lành mà gặp tai nạn là do quá khứ đã tạo nhân ác nên đời nay phải trả quả báo.

2. Còn người làm ác sao lại gặp nhiều chuyện tốt

 Người đời nay làm ác mà gặp nhiều việc lành là do quá khứ đã tạo nhiều việc lành nên quả báo đời này được hưởng.

C. Kết luận

Nói tóm lại, nhân quả là giáo lý căn bản của đạo Phật, là chân lý của vũ trụ vạn vật, chúng ta hãy học tập và thực tập, ứng dụng giáo lý nhân quả vào cuộc sống để được lợi lạc cho mình và người.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét