NHÂN QUẢ
A. Dẫn nhập
Nhân quả là chân lý, là
định luật chi phối vũ trụ chúng sanh. Con người giàu nghèo, khổ đau, an vui đều
từ nhân quả mà ra.
B. Nội dung
Nhân Quả là gì?
Nhân là hạt, mầm móng, chồi trược, là nguyên nhân, là động lực phát
động.
Quả là trái, là kết quả, thành quả. Nguyên nhân gây thế nào, kết
quả ra thế ấy. Như trồng cam thì được cam, gieo lúa thì được lúa v.v… Nói chung
tùy theo nhân đã giao mà có kết quả tương xứng hoặc khổ đau hay an vui trong
hiện tại hay tương lai.
II. Trợ duyên Nhân
quả
Trợ duyên nhân quả là
những duyên phụ. Ví dụ khi trồng cây cam thì công người, thời tiết, phân bón
v.v… là những trợ duyên nhân quả.
III. Phân loại Nhân
quả
1. Nhân Đồng thời
Nhân quả đồng thời là nhân
quả có cùng một lúc, hay nói cách khác khi gieo nhân thì gặt quả liền, như ăn
là nhân no là quả, hay như đánh trống là nhân triếng phát ra liền là quả.
Những mẫu chuyện dẫn chứng nhân quả đồng thời
1. Thợ Săn Bị Bầy Chó Của Mình
Nuốt Sống (trích trong Kinh Pháp Cú)
Thế Tôn dạy câu này ở Kỳ Viên
liên quan đến thợ săn Koka.
Sáng sớm, thợ săn Koka
vào rừng với cung tên và bầy chó săn theo sau. Hắn trông thấy bên lề đường một
Tỳ-kheo đang vào làng khất thực. Hắn bực bội vì cho rằng gặp một kẻ xúi quẩy.
Không biết có phải vì thế không, mà anh ta sục sạo trong rừng cả ngày chẳng
được con thú nào. Còn Trưởng lão khất thực và thọ thực xong trở về tinh xá. Cả
hai gặp nhau, và thợ săn vẫn còn tức tối, lùa chó đến cắn Trưởng lão dù Ngài
van xin hắn. Ngài vội vã trèo lên cây, bầy chó vây quanh dưới gốc. Thợ săn cay
cú nói với theo:
- Ðừng tưởng thoát khỏi nanh
vuốt của ta nhé!
Rồi hắn lấy mũi tên đâm vào bàn
chân Trưởng lão. Ngài van xin nhưng hắn mặc kệ, cứ đâm hết nhát này tới nhát
kia, cho đến khi bàn chân Ngài nát bét. Ngài kéo chân đó lên và thò chân kia
xuống. Hắn lại đâm tiếp. Ngài lại kéo chân kia lên. Ngài quá đau nhức, như thể
ngồi trên ngọn đuốc, đến nỗi không còn chú ý đến chuyện gì hết, chiếc y ngoài
rơi xuống mà Ngài chẳng hay, và chiếc y chụp xuống đầu thợ săn trùm đến chân.
Bầy chó tưởng đó là Trưởng lão
rớt trên cây xuống, chúng luồn dưới chiếc y kéo ra nhai sống anh thợ săn đến
trơ xương. Chui ra khỏi đống y, chúng đứng đợi. Trưởng lão bẻ một cành cây khô
ném xuống. Thấy Trưởng lão chúng mới biết là đã ăn thịt chủ mình, liền cong
lưng chạy tót vào rừng.
2. Hai vợ chồng nghèo
(trích trong Kinh Hiền Ngu)
Một thời Đức
Thế Tôn ở nước Xá Vệ, tại tinh xá Kỳ Hoàn giảng thuyết cho bốn chúng tu tập.
Thuở đó có
ông Trưởng giả sinh được cô con gái, dong nghi tốt đẹp, vào bậc nhất nhì hạng
nữ lưu trong nước, lạ thay! Cô này sinh ra đã có miếng lụa trắng bọc quanh
người. Thấy thế cha mẹ cô cho là quái gở, mời thầy về coi, thầy nói:
- Ông bà
không lo, cô gái của ông bà có phước đức lớn, và tôi xin đặt tên cho cô là Thúc
Ly.
Thúc Ly lớn
thì miếng lụa cũng lớn theo. Cô xinh đẹp lại con nhà sang trọng, nên trong nước
nơi xa, nơi gần, đều đến cầu hôn, nhưng cô không ưng thuận một ai.
Hôm ấy cha
cô gọi thợ gốm về nhà làm các đồ nữ trang, cô hỏi:
- Thưa cha!
Cha làm những vật này để làm gì?
- Con đã lớn
tuổi, cha làm cho những vật này để gả chồng cho con.
- Thưa cha!
Vợ chồng chỉ có nhất thời, con xét vô ích, chỉ gây thêm cái đau khổ cho mình mà
thôi, ý con muốn xuất gia tu đạo giải thoát là hơn.
Ông bà chỉ
sinh được mình cô, nên tùy ý chứ không cưỡng ép.
Hôm sau ông
đi mua lụa sạch điệp về may áo, cô hỏi:
- Thưa cha!
Lụa này để may áo gì?
- Cha may áo
Ngũ Điều cho con đi xuất gia!
- Thưa cha!
Khỏi phải may nữa! Tấm áo con đương mặc đây đủ rồi, xin cha dẫn con đến nơi
Phật ngự!
Hôm sau cả
hai ông bà và cô cùng đi yết kiến Phật tới nơi cúi đầu làm lễ bạch rằng:
- Kính lạy
đức Thế Tôn! Thân người khó được, gặp Phật tại thế lại khó hơn, cúi xin Ngài từ
bi tế độ cho con được xuất gia tu đạo!
Phật dạy: Thiện Lai Tỷ
Khưu! Ngài nói dứt lời đầu cô rụng hết tóc, còn tấm lụa trên mình cô biến thành
áo Cà Sa Ngũ Điều. Phật giao cô cho bà Đại A驠Đạo Tỷ Khưu Ni dạy bảo
pháp tu, cô tu hành tinh tiến, chẳng bao lâu chứng quả A La Hán.
Tôi thấy thế
cho làm lạ nên tôi (A Nan) quỳ xuống thưa rằng:
- Kính lạy
Đức Thế Tôn! Thúc Ly Tỷ Khưu Ni xưa tu công đức gì, nay được sinh vào nhà tôn
quý, lại có mảnh lụa trắng sinh theo, xuất gia chưa được bao lâu đã chứng quả
La Hán, cúi xin chỉ giáo cho chúng con được rõ.
Phật dạy
rằng: - Này ông A Nan hãy nghe cho kỹ, tôi sẽ nói cho ông hay!
- Dạ con xin
chú ý nghe!
- A
Khi đó một
thầy Tỷ Khưu có lòng quảng đại, muốn tiếp phúc cho nhân dân, nên ngài chăm đi
khuyến hóa từng nhà, làm hạnh bố thí và nghe giảng thuyết chánh pháp của Như
Lai.
Thuở đó có một thiếu
phụ nhà rất nghèo khổ, hai vợ chồng chỉ có mảnh vải che thân, nếu chồng đi xin
thì chồng mặc, vợ trần truồng ngồi trong đống cỏ khô, nếu vợ đi xin thì vợ mặc,
chồng trần truồng ngồi trong đống cỏ khô.
Thầy Tỷ Khưu
đi qua ngó thấy cô, Ngài nói rằng:
- Cô nên
biết: Được sinh làm người là khó, gặp Phật tại thế lại khó hơn, hiện nay đức
Phật đang thuyết pháp, cô đi đến nghe thuyết pháp được phước vô lượng, con
người tham sẻn bị tội nghèo đói, chăm làm hạnh bốt thí được phước giàu sang.
- Dạ! Kính
bạch Đại Đức, con rất sung sướng được nghe lời của Ngài giáo hóa, xin Ngài hãy
đứng đây chờ con một chút!
Cô vào nhà
bảo chồng rằng:
- Anh ơi!
Ngoài ngõ có một vị Sa Môn khuyên chúng ta nên đến gặp Phật, để nghe Phật
thuyết pháp, và khuyên ta nên làm việc bố thí, là vì đời trước không biết bố
thí nên kiếp này bị nghèo cùng khổ não, bây giờ ta phải làm cách gì, để trồng
cái nhân lành, ngõ hầu kiếp sau mới có phần an hưởng.
Đáp: - Nhà
ta nghèo đói như thế này, được bữa hôm mất bữa mai, biết lấy gì mà bố thí.
- Anh ơi!
Đời trước tham sẻn, lại không biết làm hạnh bố thí cho nên đời này, bị nghèo
khốn, nếu kiếp này không làm nhân bố thí đời sau lấy phước gì để nương cậy? Bây
giờ anh hãy nghe tôi, tôi quyết định bố thí.
Người chồng thầm nghĩ:
"Hay là vợ ta có chút của riêng", thì cứ đồng ý đi:
- Phải em cứ
bố thí đi, việc đó anh rất vui lòng!
- Thưa anh!
Em muốn đem mảnh vải của em đang khoác đây ra để cúng dàng, anh có ưng thuận
không?
- Hai vợ
chồng chúng ta chỉ có một mảnh vải này, che thân để hằng ngày đi xin nuôi nhau,
bây giờ đem cúng dàng thì lấy gì che thân mà đi xin, ngồi nhìn nhau mà chết hay
sao?
- Anh ơi!
Con người ai cũng phải chết, không bố thí với bố thí, rồi cũng chết cả, thà bố
thí mà chết, đời sau còn có phước lành, hưởng quả báo giàu sang, không làm hạnh
cúng dàng bố thí sau rồi cũng chết, trái lại đời sau không có nhân lành trông
cậy.
Người chồng nghe vợ nói
phải, vui vẻ đáp:
- Em nói thế
hay lắm! Bây giờ chúng ta giữ lấy phần chết, đem cúng dàng cầu phước lành cho
đời sau!
Cô thấy chồng có lòng
cương quyết và vui vẻ, nên ra thưa rằng:
- Kính bạch
Đại Đức, xin Ngài trèo lên mái nhà, con có chút vật mọn dâng Ngài về cúng Phật.
- Muốn cúng
thì dâng trước mặt ta, để ta chú nguyện cho, trèo lên mái nhà làm chi?
- Bạch Đại
Đức, vợ chồng con chỉ có một mảnh vải này, trong nhà không có vật gì khác nữa,
sợ lõa lồ thân thể đàn bà xấu ác, tội nghiệp, nói xong vào nhà đóng cửa, cởi
mảnh vải vất qua cửa sổ cúng dàng.
Thầy Tỷ Khưu thấy vợ
chồng nhiệt tâm như vậy, mặc dầu bẩn cũng cứ nhận làm phép chú nguyện mang về
dâng Phật.
Vừa về tới Tinh Xá,
Phật hỏi ngay:
- Tỷ Khưu
mang mảnh vải ấy lại đây cho ta!
- Dạ! Kính
lạy đức Thế Tôn, nhận lòng thành cúng dàng của vợ chồng nhà nghèo.
Phật liền đỡ
lấy, và có vẻ thương!
Lúc đó có
ông vua, hoàng hậu, cung phi, thể nữ, quan đại thần, dân chúng đương ngồi nghe
Phật thuyết pháp, ai cũng có chút tâm lạ với Phật, vì Phật cầm cái mảnh vải đầy
nhơ bẩn cáu ghét tanh hôi. Phật biết tâm của đa số người như thế, ngài nói:
- Ta xem
trong đại hội này, phát tâm làm việc bốt thí lớn và thanh tịnh, thì không ai
hơn được người này!
Nghe Phật
nói, tất cả đại hội đều sợ, Bà Hoàng hậu vui vẻ cởi áo của mình và nữ trang,
vua cũng lấy áo và tiền bạc, sai người mang đến cho hai vợ chồng Đàn Ly Già, và
mời ngay đến chốn Phật nghe pháp.
Nhân thế đức Phật thuyết
về phước báu bố thí và tội keo sẻn trộm cắp cho đại chúng nghe, khi đó có rất
nhiều người phát tâm tu hạnh bố thí!
Tới đây Phật
nhắc lại rằng:
- A
Phật thuyết
xong, có rất nhiều người phát tâm cúng dàng, làm hạnh bố thí, ai nấy đều vui vẻ
lễ kính mà lui.
3.Vừa
Là Cha Vừa Là Mẹ (trích trong kinh Pháp Cú)
Thế Tôn dạy câu trên khi ngài
ngụ tại Kỳ viên trong Thành Xá-vệ, cho vị chưởng khố, tức trưởng lão Soreyya.
Chuyện bắt đầu tại thành Soreyya và kết thúc ở Xá-vệ.
Khi bậc Chánh Ðẳng Giác ngụ tại
Xá-vệ, thì ở thành Soreyya con của vị chưởng khố tên Soreyya,
ngồi trên xe kiệu với một người bạn thân và đám tùy tùng đông đảo, ra ngoài
thành đi tắm. Họ gặp trưởng lão Ðại ca-chiên-diên đang đắp đại y trước khi vào
thành khất thực. Thân thể vàng óng của trưởng lão đập vào mắt Soreyya khiến
anh không khỏi buột miệng: "Ồ! phải chi Trưởng lão này là vợ ta! Hoặc giả
vợ ta có nước da được như thế!" Ý muốn vừa dấy khởi thì anh biến thành đàn
bà. Bối rối và hổ thẹn, anh bước xuống xe và vụt bỏ chạy. Những người đi theo
không biết việc gì xảy ra nhao nhao lên:
- Thế nghĩa là gì? Thế nghĩa là
gì?
Soreyya mang thân phụ nữ bỏ đi về
phía Takkasilà. Người bạn chung xe kiếm anh khắp nơi không thấy.
Tắm xong mọi người về nhà. Họ lắp bắp trả lời với cha mẹ anh là anh đã về
trước. Ðến phiên cha mẹ anh đi tìm khắp nơi vẫn không thấy, hai ông bà khóc lóc
than van; cuối cùng cho là anh đã chết, họ làm đám tang.
Soreyya, bấy giờ là phụ nữ gặp đoàn
thương buôn cùng hướng về Takkasilà, bèn theo sát xe ông trưởng
đoàn. Trong đoàn chú ý đến cô, và thắc mắc không biết cô là con cái nhà ai. Cô
bảo họ cứ đi xe còn cô đi bộ theo. Ði hết một đoạn đường dài, cô lo lót họ với
chiếc nhẫn làm quà để xin một chỗ ngồi trên xe. Họ nghĩ, đến con trai chưởng
khố thành Xá-vệ chưa có vợ, và muốn làm mai cho cô, mong được quà cáp hậu hỷ.
Thấy cô hợp tuổi mình và quá đẹp, anh ta bằng lòng cưới cô.
(Ai cũng phải trải qua thân
phận khi làm đàn ông, khi làm đàn bà. Như ngài A-nan, người đầy đủ đức tính
toán hảo trong trăm ngàn kiếp, và là một Ðại đệ tử, đã từng là thợ rèn ở một
kiếp trong vòng luân hồi, phạm tội với vợ người khác bị đọa địa ngục, và sau đó
vì quả báo của hành động xấu chưa hết, Ngài phải trải qua mười bốn kiếp làm vợ
người khác cộng thêm bảy kiếp nữa mới dứt nghiệp. Mặt khác, không muốn làm đàn
bà nữa, và lập nghiệp được tái sanh làm đàn ông, sẽ được như ý. Ngoài ra, những
đàn bà vợ cư xử tốt với chồng sẽ tái sanh làm đàn ông. Nhưng Soreyya đã
dại dột mơ tưởng tới Trưởng lão, nên ngay trong kiếp này đã biến thành đàn bà).
Cô Soreyya có thai
và sau mười tháng sanh một bé trai. Khi đứa bé chập chững biết đi thì cô sanh
đứa thứ hai. Như thế Soreyya trước là cha hai đứa con sanh ở
thành Soreyya, nay là mẹ hai đứa nữa sanh ở thành Takkasilà,
tất cả là bốn đứa. Một hôm con vị chưởng khố, bạn đồng hành khi xưa của Soreyya,
rời thành Soreyya với năm trăm xe đi đến thành Takkasilà.
Lúc đó cô Soreyya đứng nơi cửa sổ trên lầu cao nhất trong lâu
đài nhìn xuống đường nhận ra anh bạn, liền sai tỳ nữ mời vào căn phòng lớn,
tiếp đãi kính trọng như thường lệ.
Khách nói với chủ nhà:
- Thưa bà, tôi chưa hề biết bà
nhưng bà đón tiếp tôi quá tốt. Bà biết tôi sao?
Chủ nhà từ tốn:
- Phải ông ạ. Tôi biết ông rất
rõ. ông không còn ở trong thành Soreyya à?
- Vâng, thưa bà.
Và bà chủ nhà hỏi thăm sức khỏe
cha mẹ vợ con mình lúc trước. Khách trả lời tất cả đều khỏe và chất vấn tiếp:
- Bà biết họ à?
- Vâng ông ạ, tôi biết họ rất
rành. Và này ông, họ có một anh con trai, hiện nay không biết ở đâu?
Khách buồn bã kể lại chuyện đau
lòng năm xưa, chủ thú thật:
- Này ông, chính tôi là anh ta
đấy!
- Thôi đi bà! Bà nói gì lạ thế?
Anh ta là bạn thân của tôi, anh ta như một thiên thần trẻ trung, là một người
đàn ông.
- Ấy thế đó! Nhưng tôi lại
chính là anh ta đấy, hoàn toàn đúng như thế.
- Thế là thế nào?
- Ngày đó, ông có nhớ là đã
trong thấy Trưởng Lão Ðại ca-Chiên-diên không?
- Vâng, tôi nhớ là có gặp Ngài.
- Bỗng dưng lúc đó tôi chợt
nghĩ phải chi Trưởng lão là vợ mình hoặc vợ mình có được nước da như Trưởng
lão. Tức khắc tôi biến thành đàn bà. Tôi liền bỏ chạy một mạch đến xứ này.
- Ồ thật là tai hại! Tại sao
anh không nói với tôi? Mà anh đã sám hối không?
- Ngài đang ở gần đây, ngay
trong thành này.
- Ngài đến đây ư? Tôi muốn cúng
dường vật thực cho Trưởng lão.
- Tốt lắm, hãy chuẩn bị đầy đủ.
Tôi sẽ thuyết phục Trưởng lão tha lỗi cho anh.
Rồi người bạn ngày xưa
của Soreyya đến chỗ Trưởng lão, đảnh lễ Ngài, cung kính ngồi
một bên xin Trưởng lão nhận lời cúng dường ngày mai. Ngài nhận lời. Sáng hôm
sau Ngài đến đứng trước cửa nhà. Con của chưởng khố dâng Ngài chỗ ngồi và những
thức ăn chọn lọc. Rồi ông dẫn người đàn bà đến phủ phục dưới chân Ngài kể lại
tự sự và xin được tha thứ.
Trưởng lão hoan hỷ:
- Tốt lắm, hãy đứng lên. Ta tha
thứ cho bà.
Trưởng lão vừa dứt câu, Soreyya
lập tức biến trở lại thành đàn ông. Người chồng cũ của Soreyya trấn
an anh:
- Bạn thân! Vì anh đã là mẹ
trong khi tôi là cha của hai đứa bé này. Chúng thật sự là con của cả hai chúng
ta. Vậy chúng ta vẫn tiếp tục sống lại đây. Ðừng khó chịu.
Soreyya:
- Này bạn, tôi trải qua hai lần
chuyển hóa trong một đời người. Trước tiên tôi là đàn ông, biến thành phụ nữ
giờ trở lại làm đàn ông. Ban đầu tôi là cha của hai đứa bé, mới đây là mẹ của
hai đứa nữa. Bạn đừng nghĩ rằng sau khi đã trải qua hai lần chuyển hóa trong
một kiếp sống, tôi bằng lòng sống đời tại gia nữa. Tôi sẽ đi tu theo Trưởng lão
của tôi. Bổn phận của bạn là nuôi dưỡng hai đứa bé này. Chớ xao lãng.
Nói xong Soreyya hôn
hai đứa con, ôm vào lòng và trao lại cho người cha, bước ra khỏi nhà, và trở
thành tu sĩ theo Trưởng Lão. Trưởng lão thuận cho anh vào Tăng đoàn, nhận cho
anh làm tròn bổn phận, dẫn anh cùng về thành Xá-vệ. Và anh trở thành Trưởng
lão Soreyya.
Dân cư trong xứ nghe chuyện rất
xúc động và xôn xao, đến hỏi Trưởng lão Soreyya có thật như
thế không, và tình cảm dành cho hai đứa con nào mạnh hơn. Trưởng lão trả lời
thương hai đứa gọi bằng mẹ hơn. Xong trưởng lão rút lui khỏi đám đông. Khi ngồi
thì ngồi một mình, khi đứng thì đứng một mình. Sống độc cư như thế, Ngài quán
chiếu về sự hoại diệt, và chúng A-la-hán cùng những thần thông. Kề từ đó có ai
hỏi Ngài thương hai đứa bé nào hơn thì Ngài trả lời rằng không đặt tình cảm lên
đứa nào cả. Các Tỳ-kheo nghe vậy cho là Ngài nói dối, và thưa chuyện đến Phật.
Phật trả lời:
- Các Tỳ-kheo! Ðệ tử ta không
nó dối. Tâm đệ tử Ta hoàn toàn chất trực từ khi ông ta thấy đạo. Không có cha
mẹ nào có thể mang đến lợi lạc cho mình mà chỉ có tâm hướng về chánh đạo làm
được điều tốt đẹp.
2. Nhân quả Dị thời
Nhân quả dị thời là nhân
quả trãi qua thời gian gồm có ba thời là quá khứ, hiện tại và vị lai. Nhân quả
nhị thời có ba loại báo là hiện báo, sanh, báo và hậu báo.
a. Hiện báo
Ðây là quả báo trong kiếp hiện tại; có nghĩa
hiện thế gây nhân thì hiện đời chịu quả. Quả báo nầy có tánh cách mau, ví như
trồng loại cà, ớt hay gieo giống lúa, chỉ trong vòng một mùa, một năm đã thu
được kết quả. Hiện báo còn gọi là Hoa báo, danh từ nầy hàm ý nghĩa mau lẹ, ảnh
hưởng không đợi đến thời kỳ sanh trái, mà đã phát lộ trong thời kết bông.
Những mẫu chuyện dẫn chứng
1. Làm nghề giết gà quả báo bị câm (trích trong sách Nhân
quả báo ứng)
Có một người làm nghề mổ
gà mướng, hàng ngày mổ không biết bao nhiêu là gà vịt, lâu dần chuyện mổ
gà con như là thú vui của mình.
Sau một thời gian ngắn, người này mắc bệnh
câm, nói năng không được.
2. Cô gái ăn mày cúng tiền (trích trong truyện cổ Phật giáo)
Có một cô gái nghèo khổ phải đi ăn xin. Cô
dành dụm được một ít tiền và phát tâm đem đến chùa cúng dường Tam bảo.
Cô đến một ngôi chùa nọ,
sau khi kể hoàn cảnh của mình và dâng lên cúng dường những đồng tiền xin được
được. Vị Hòa Thượng trong chùa cảm động tấm lòng chân thành nhiệt tâm của cô
nên đứng ra hồi hướng chúc phúc cho cô.
Sau khi cúng dường song,
cô ra về, đi một đoạn đường cảm thấy mệt, cô đến ngồi nghỉ ở gốc cây bên đường
và ngủ thiếp đi.
Vào thời này, hoàng hậu vị
vua đương kim đã qua đời, nhà vua muốn chọn một người đức hạnh có phước để lên
ngôi hoàng hậu. Vua cho vị quan đoán tướng đi khắp đất nước để chọn.
Hôm nọ, phái đoàn của vị
quan đi cùng trên con đường của cô gái ăn xin. Từ xa vị quan xem tướng thấy
trên ngọn cây cổ thụ có vần mây ngủ sắc, vị quan biết ở đó có người đức hạnh phước
đức nên hối hả cả đoàn đến đó. Nhìn dưới gốc cây thấy một cô gái trẻ đẹp đang
ngủ, biết cô này là người có phước đức nên trình bày mục đích của mình và rước
cô gái về cung lên ngôi hoàng hậu.
3. Vị Tỳ Kheo hủy báng Ngài Xá Lợi Phất bị quả báo mục nhọt (trích trong Kinh Tạng)
Có vị Tỳ kheo do tâm tật
đố với ngài Xá Lợi Phất nên vu khống ngài Xá Lợi Phất. Chư thiên, các bạn đồng
học, cho đến Đức Phật khuyên vị này bỏ tâm xấu ác đó nhưng vị này cũng không
bỏ. Sau, vị này bị một chứng bệnh là mụt nhọc lở đầy người rất đau khổ. chỉ một
thời gian ngắn vị này chết và bị đọa vào địa ngục.
b. Sanh báo
Sanh báo là gây nhân kiếp
nầy, đời kế sau mới chịu quả báo. Quả báo nầy có tánh cách hơi lâu.
Nhưng mẫu chuyện dẫn chứng
1. Chuyện Bà Thanh Đề (trích trong Kinh Báo Hiếu)
Mẹ ngài mục Kiền Liên do
tham lam keo kiệt và hủy báng tam bảo nên sau khi chết bị đọa vào đường ngạ quỷ
2. Chuyện hai anh em (trích trong Kinh Tạng)
3. Chuyện Hoàng Hậu vua Lương Võ Đế (trích trong Kinh Lương
Hoàng Sám)
c. Hậu báo
Hậu báo là gieo nhân đời
này mà đời tứ ba trỡ đi cho đến vô lượng kiếp sau mới lãnh quả báo.
Nhưng mẫu chuyện dẫn chứng
1. Chuyện Ngộ Đạt Quốc Sư (trích trong Kinh Thủy Sám)
Xưa kia, đời
Đường, triều vua Ý tông, có ngài Ngộ đạt quốc sư, pháp danh Tri huyền. Khi chưa
là quốc sư, tại kinh đô, tình cờ ngài gặp một tăng nhân, nhưng quên hỏi chỗ ở
của vị này. Vị này bị bịnh ca ma la (2) . Ai cũng gớm, chỉ ngài Tri huyền gần
gũi, luôn luôn thăm hỏi săn sóc, chưa bao giờ có một vẻ ghê chán. Vì vậy, khi
chia tay, vị ấy cảm cái nghĩa và tác phong của ngài, dặn rằng, sau này ngài sẽ
bị nạn, lúc đó hãy tìm nhau tại núi Trà lũng (3) ở Bành thành, thuộc Tây Thục,
chỗ có hai cây tùng làm dấu.
Sau đó, ngài
Ngộ đạt đến chùa An quốc, đạo đức rực rỡ. Ý tông thân hành đến pháp tịch của
ngài, ban pháp tọa bằng gỗ trầm hương và cung phụng rất hậu. Nhưng cũng từ đó,
đầu gối của ngài tự nhiên mọc cái mụt "mặt người", mắt mày răng miệng
đủ cả, thỉnh thoảng đút cho đồ ăn thức uống thì cũng há miệng nuốt như người
vậy. Danh y mời đủ cả mà ai cũng bó tay.
Ngài nhớ lại
lời dặn của vị tăng nhân ở chung ngày trước, nên vào núi tìm. Nhằm lúc trời đã
chiều tối, ngài bàng hoàng nhìn khắp bốn phía, thấy hai cây tùng ở trong chỗ
mây khói. Tin lời ước hẹn là đúng, ngài bước ngay đến chỗ ấy. Thì là lầu cao,
điện lớn, ánh sáng vàng và ngọc giao xen với nhau. Vị tăng nhân đã đứng đầu
cửa, đón tiếp niềm nở, và mời ngài ngủ lại. Ngài đem cái khổ của mình nói với
tăng nhân thì vị này bảo không hại gì, dưới núi này có một con suối, sáng ngày
xuống rửa là khỏi.
Sáng sớm,
đạo đồng dẫn ngài xuống suối, mới vốc nước, mụt ghẻ mặt người đã kêu lớn lên,
khoan rửa đã, ngài là kẻ biết nhiều, hiểu rộng, đọc hết cổ kim, vậy mà ngài đã
đọc cái chuyện Viên Án với Triệu Thố trong Tây Hán thư chưa? Đọc rồi, ngài Ngộ
đạt trả lời. Cái mụt lại bảo, đọc rồi mà ngài không biết Viên Án đã giết Triệu
Thố sao? Ngài là Viên Án, còn Triệu Thố là tôi đây. Triệu Thố bị chém ngang
lưng ở chợ phía đông, oan khốc đến mức nào. Nên bao đời tôi đã tìm cách báo
ngài. Nhưng ngài mười đời đều làm cao tăng, giới luật nghiêm tịnh, sự báo oán
của tôi không có cơ hội. Nay ngài hưởng sự đãi ngộ của vua chúa quáxa xỉ, lòng
danh lợi mống lên, cái đức có phần thương tổn, tôi mới hại ngài được. Ngày nay,
mong ơn tôn giả Ca nặc rửa cho tôi bằng nước "từ bi tam muội", từ nay
sắp đi, tôi không còn là kẻ oan gia của ngài nữa.
Ngộ đạt quốc
sư nghe mà cơ hồ hồn phách thoát khỏi cơ thể, luôn tay vốc nước mà rửa, đau
thấu xương tủy, ngất đi hồi lâu mới tỉnh. Coi lại thì mụt ghẻ mặt người đã
không còn nữa. Ngộ đạt quốc sư mới biết các vị hiền thánh xen lẫn dấu vết trong
dân gian là điều mà người phàm khó lường biết nổi. Muốn trở lại chiêm bái,
nhưng ngoái nhìn thì tự viện đã không còn. Vì vậy, Ngộ đạt quốc sư mới dựng
thảo am ngay nơi chỗ ấy, và sau này thành một tự viện. Tống triều ta đây, niên
hiệu Chí đạo, sắc tứ là Chí đức thiền tự, có vị cao tăng tên Tín, húy Cổ, viết
bài ký sự ghi lại việc này rất rõ.
Ngộ đạt quốc
sư, lúc ấy, cảm kích sự kỳ lạ của Ca nặc tôn giả, thấm thía rằng oan trái nhiều
kiếp phi gặp thánh nhân không làm sao cởi mở cho được. Nhân đó mà thuật lời
thánh giáo, viết ra sám văn này, để hôm sớm lễ bái trì tụng, và sau đó đã phổ
biến khắp cả nhân gian. Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước
từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy
sám, là Ngộ đạt quốc sư cảm sự kỳ lạ của Ca nặc tôn giả, nên chính xác cái tên
và nêu lên cái nghĩa như thế để báo đáp ơn ngài. Nay kể rõ sự thật từ ngày xưa,
nêu cao cống hiến của người trước, là mong những kẻ sau này, hoặc lễ bái hoặc
trì tụng, hễ dở sám văn ra là đã biết sự tích người xưa vốn có lý do, và nhân
quả nhiều đời vẫn không khuất mờ.
2. Chuyện họ Thích bị vua Tỳ Lưu Ly hại (trích trong Kinh Tạng)
Dòng họ thích
3. Chuyện Cá trăm đầu (trích trong Kinh Hiền Ngu)
Một thời đức
Phật ở nước Ma Kiệt Đề, tại vườn Trúc.
Một hôm đức Thế Tôn và
các vị Tỷ Khưu, sang nước Tỳ Xá Ly, ngồi nghỉ mát trên bờ sông Lê Việt. Trên bờ
có năm trăm người chăn trâu và năm trăm người đánh cá; những người đánh cá này,
họ có ba thứ lưới: một thứ hai trăm người kéo; một thứ ba trăm người kéo; một
thứ năm trăm người kéo.
Đức Như Lai
và các vị Tỷ Khưu ngồi cách họ cũng không xa, một lát thấy năm trăm người nọ,
kéo hết sức cũng không nổi, sau họ gọi bọn năm trăm người chăn trâu lại kéo
giùm, một lúc kéo lên được con cá rất lớn; trên mình cá có đủ trăm đầu thú: đầu
ngựa, đầu lạc đà, đầu hổ, đầu chó sói, đầu lợn v.v… cá lạ xúm nhau lại xem.
Thấy thế,
Phật sai tôi lại coi. Tôi vâng lời, lại nhìn thấy con cá lớn trên mình có đủ
trăm đầu thú khác nhau, tôi lại trở về bạch Ngài biết rõ căn nguyên.
Ngài cùng
đại chúng đi lại xem, khi tới nơi Ngài hỏi cá rằng:
- Cá, có
phải là Ca Tỳ Lê không?
Cá đáp: -
Thưa phải.
Ngài hỏi
tiếp:
- Kiếp này
làm cá, kiếp sau biết về đâu không?
- Thưa Ngài,
kiếp sau về địa ngục A Tỳ.
Tôi và đại chúng không
rõ tại sao, bèn hỏi Phật rằng:
- Kính lạy
đức Thế Tôn! Ngài gọi con cá này là Ca Tỳ Lê vì lý do gì, xin nói cho chúng con
được rõ?
Phật dạy: -
Các ông hãy lắng nghe tôi nói nguyên ủy con cá này cho biết: Trước đây, về thời
đức Phật Ca Diếp có một người Bà La Môn sinh được cậu con trai, đặt tên là Ca
Tỳ Lê; cậu này thông minh tài trí, đối với hàng văn hoa trí thức thời đó; anh
ta giỏi nhất. Tuy thế nhưng đối với trí tuệ học vấn của các vị Sa Môn thì anh
ta kém đặc.
Khi cha anh chết có dặn
anh rằng:
- Con chớ
đàm luận với các vị Sa Môn của đức Phật Ca Diếp; vì các vị có trí tuệ sâu rộng,
con không thể bì kịp.
Sau khi cha
anh chết: anh vẫn còn đi học; và anh được tiếng khen trong nước là người tài
biện luận, nhưng không bao giờ anh ngồi đàm luận với các vị Sa Môn, thấy con
khuyết diểm ấy, nên một hôm mẹ anh hỏi rằng:
- Con vốn là
người cao minh học vấn; đời nay có ai hơn được con không?
- Dạ! Thưa
mẹ, các vị Sa Môn hơn con nhiều lắm!
- Hơn con
thế nào?
- Thưa mẹ!
Nếu con có chỗ nào không biết, đến hỏi thì các vị giải đáp rõ ràng dễ hiểu; nếu
các vị hỏi lại thì con không đáp nổi, bởi vậy nên con biết kém!
- Vậy sao
con không đến học hỏi phương pháp ấy?
- Thưa mẹ!
Nếu học phương pháp ấy, thì phải làm Sa Môn, con là kẻ thế tục làm sao học
được!
- Con sẽ giả
làm Sa Môn, học tập cho giỏi, rồi lại trở về với mẹ có hại gì!
- Dạ, mẹ dạy
con nghe!
Cách một
thời gian, anh mang áo cầm bình giả làm Sa Môn, vào tu học, vì anh có trí thông
minh sẵn, chỉ một thời gian đã quán thông tam tạng, một hôm về nhà chơi, mẹ anh
hỏi: - Con học đã giỏi hơn các vị Sa Môn chưa?
- Thưa mẹ!
Học vấn con giỏi ngang, còn tọa thiền con kém.
- Tại sao
con biết kém?
- Thưa mẹ,
vì phép tọa thiền khó, lý thú siêu hình, con tập cũng không được, học cũng
không đạt, vì thế mỗi khi con đàm luận đều bị thua!
- Từ nay trở
đi, có đàm luận nếu thua, thì con cứ la mắng sỉ nhục!
- Thưa mẹ,
các vị Sa Môn tu đạo từ bi, có tội gì mà mẹ bảo con mắng!
- Vì con có
mắng, thì con được!
Ca Tỳ Lê nghe
lời mẹ dạy, cứ mỗi khi đàm luận với các vị Sa Môn bị thua, mắng liền: người là
kẻ ngu! Người là loài súc sinh hiểu biết gì? Rồi lại tỷ các vị như đầu con thú
này; đầu con thú khác, luôn luôn có thái độ ác liệt đối với cá vị Sa Môn!
Nói tới đây Phật nhắc
lại rằng:
- A
- Kính lạy
đức Thế Tôn, Ca Tỳ Lê bao giờ được thoát khỏi thân cá!
- A
Khi đó tôi
và các vị Tỷ Khưu nghe Phật nói xong, ai nấy đều rùng mình rởn gáy, bi thương
giao cảm! Đồng thanh nói: Tất cả chúng sanh thân, miệng, và ý nghĩ, phải nên
cẩn thận!
Thấy Phật và
đại chúng hỏi đáp như vậy, các người đánh cá và chăn trâu, đều chắp tay bái
Phật, xin xuất gia tu phạm hạnh.
Phật khen họ tốt và
nói:
- Thiện Lai
Tỷ Khưu!
Ngài nói dứt
lời, râu tóc họ rụng hết, áo mặc mình họ hóa ra áo Cà Sa, biến thành các vị Sa
Môn.
Theo Phật tu
học không bao lâu, đã hết lậu nghiệp, đắc quả A La Hán.
Vì đại
chúng, Phật giảng về Tứ Diệu Đế, tất cả mọi người được nghe diệu pháp đều phát
tâm hướng đạo vô thượng Bồ Đề, cúi đầu tạ lễ mà lui.
3. Nhân quả biến dị
Nhân quả biến dị là từ nhân đến
quả có sự thay đổi, hay nói cách khác thì quả không tương đồng với nhân.
4. Nhân quả dị loại
IV. Ứng dụng nhân quả
1. Nhân quả loài người: Nhân quả loài người là thọ
trì Tam quy Ngũ giới và làm các việc lành.
2.
Nhân quả chư thiên: Muốn sanh cõi trời thì
hành Thập thiện.
3.
Nhân quả Thanh văn: Tu hành Tứ diệu đế thì chứng quả Thanh văn ra khỏi sanh tử
luân hồi.
4. Nhân quả Duyên giác: Tu Thập nhị nhân duyên thì chứng quả
Duyên giác.
5.
Nhân quả Bồ Tát: Tu Lục độ ba la mật thì
chứng quả Bồ Tát, Bồ Tát có tâm từ bi rộng lớn luôn cứu độ chúng sanh.
6. Nhân quả
Phật: Tu Lục độ Vạn hạnh đến chổ cứu cánh
viên mãn thì chứng quả vị Phật.
V. Lợi ích của Nhân quả
1. Không than thân trách phận, oán thán trời đất
2. Mình tự quyết định cuộc đời của mình
3. Không mê tín dị đoan
VI. Giải quyết nghi vấn
1. Người ăn hiền ở lành sao lại gặp tai nạn
Người đời nay ăn hiền ở
lành mà gặp tai nạn là do quá khứ đã tạo nhân ác nên đời nay phải trả quả báo.
2. Còn người làm ác sao lại gặp nhiều chuyện tốt
Người đời nay làm ác mà gặp nhiều việc lành là
do quá khứ đã tạo nhiều việc lành nên quả báo đời này được hưởng.
C. Kết luận
Nói tóm lại, nhân quả là
giáo lý căn bản của đạo Phật, là chân lý của vũ trụ vạn vật, chúng ta hãy học
tập và thực tập, ứng dụng giáo lý nhân quả vào cuộc sống để được lợi lạc cho
mình và người.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét