Thứ Sáu, 15 tháng 4, 2022

 

LỤC HÒA

A.   Mở đề.

B. Chánh đề

              I. Định nghĩa.

    II. Phân tích nội dung

          1.  Thân hòa đồng trú ( trụ )

          2. Khẩu hoà vô tránh ( tranh )

          3. Ý hòa đồng duyệt

          4. giới hòa đồng tu

          5. Kiến hòa đồng giải

          6. Lợi hòa đồng quân

    III. Ứng dụng và lợi ích của pháp lục hoà

    IV. Những mẫu chuyện dạy về sự hòa hợp

1.     Câu chuyện Bó Đũa (chuyện Cổ Việt Nam)

          2. Chuyện đàn chim bất hòa (trích trong kinh Tiểu Bộ)

A.       Kết luận.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

LỤC HÒA

B.        Mở đề.

Lục hoà là sáu phương pháp Đức Phật chế ra cho  Phật tử ứng dụng để cho đời sống tu tập chung của Phật tử được hoà hợp, an ổn, nhất là đời sống Tăng già.

B. Chánh đề

          I. Định nghĩa.

Lục hoà là sáu nguyên tắc sống hoà hợp mà Đức Phật đã chế định, áp dụng trong mọi nếp sống sinh hoạt của Chư Tăng, ngõ hầu tạo hoà khí, nhất trí từ vật chất đến tinh thần trong nếp sống hàng ngày, lục hoà là pháp lợi lạc cả tự và tha, cái nhân và tập thể. Sáu nguyên tắc đó là: thân hoà đồng trụ, khẩu hoà vô tránh, ý hoà đồng duyệt, giới hoà đồng tu, kiến hoà đồng giải, lợi hòa đồng quân.

II. Phân tích nội dung

1.  Thân hòa đồng trú ( trụ )

Thân hòa hợp cùng ở chung. Ở đâu cũng vậy, sống chung trong một cộng đồng, một gia đình khó tránh khỏi đụng chạm bất hòa. Trong giáo pháp Đức Phật, dù cao quý như Thế Tôn, quý tộc như A nan, Đề Bà Đạt Đa; cho đến người thợ hớt tóc như Ưu Ba Ly, kẻ có quá khứ đầy tội lỗi như Vô Não, tất cả cùng hòa hợp sống với nhau như nước với sữa trong ngôi nhà chánh pháp nhờ áp dụng nếp sống lục hòa cộng trú. Bởi vì, như nước trăm sông đều suôi về biển cả, mà nước trong bốn biển đại dương chỉ có một vị là vị mặn, cũng vậy, giáo pháp của đức Phật chỉ có một vị là vị giải thoát. Câu Phật ngôn nổi tiếng: “Không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ, giọt nước mắt cùng mặn” đủ nói lên tinh thần này. Ca dao Việt nam cũng có câu :

“ Bầu ơi thương lấy bí cùng

Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”.

2. Khẩu hoà vô tránh ( tranh )

Sống chung hòa hợp không tranh cãi. Thông thường khi bất hòa người đời đả thương nhau bằng binh khí miệng lưỡi. Những lời nói cay độc khiến đối phương phải đau khổ, thậm chí tuyệt vọng, mất mạng. Thế nhưng làm như vậy kẻ thua đau khổ đã đành, người thắng cũng chẳng vui sướng gì. Chưa nói đến nghiệp quả mà người đó phải chịu do gieo lời nói ác. Các bậc cổ đức đã dạy: “Phù sỹ xử thế phủ tại khẩu trung, sở dĩ trảm thân do kỳ ác ngôn” (luận về con người ở đời, lưỡi búa nằm trong miệng, sở dĩ chém mình là do lời nói ác). Đạo nho cũng dạy: “Bịnh tùng khẩu nhập,  họa tùng khẩu xuất” (Bịnh từ miệng vào, họa từ miệng mà ra). Trong giáo pháp Thế Tôn hành giả dùng lời hòa ái để giải quyết những bất hòa xẩy ra. Nói nhẹ nhàng hòa ái mà không sai sự thật, nói “ trung ngôn” mà không “ nghịch nhĩ” túy là biết nói đúng lúc đúng thời, thậm chí là phải biết “Im lặng như chánh pháp”. Ca dao có câu:

“ Lời nói không mất tiền mua

Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”

3. Ý hòa đồng duyệt

Ý hòa cùng sống chung vui vẻ. Trong các cuộc họp, hội thảo, hay bàn luận về một vấn đề gì, người nói thường có xu hướng bảo thủ quan điểm của mình. Tục ngữ có câu: “chín người mười ý” từ đó xẩy ra bất hòa, xung đột, chia rẽ. Thực chất mỗi ý kiến đều có cái hay riêng, nếu biết lắng lòng nghe, tiếp thu, dung hòa các ý kiến khác lại với nhau, chúng ta có những bài học thiết thực trong cuộc sống. Tinh thần cầu học của người con Phật không phải “Chín người mười ý” mà “mười người, trăm người, thậm chí ngàn người một ý” qua tinh thần Yết ma của Tăng là tiêu biểu. Trong Trường Bộ Kinh, Phẩm Bảy Pháp, Đức Phật dạy một trong những điều kiện làm cho chánh pháp hưng thịnh tại thế gian thì chư Tăng phải: “Hội họp trong đoàn kết, giải tán trong đoàn kết và làm việc trong đoàn kết”. Nếu ý kiến mình đúng pháp với lòng thành và tâm xây dựng thì mọi người sẽ ủng hộ mình thôi.

4. giới hòa đồng tu

Cùng hòa hợp tu tập trong giới luật Phật chế. Đức Phật chế giới luật làm thanh tịnh tam nghiệp và chỉnh đốn Tăng già. Trong giới luật, mọi người đều bình đẳng như nhau, cá nhân nao nếu phạm giới cũng đều bị Tăng nghiêm xử không thiên vị. Cho nên, trong Tăng đoàn mọi thành viên cùng lãnh thọ giới pháp như nhau thì nên như pháp nhắc nhở nhau, dìu dắt nhau tu học. Mọi sự bất hòa đều xử theo luật. Giữ đúng giới pháp, tức ba nghiệp được thanh tịnh thì chuyện bất hòa, xung đột hiếm khi xẩy ra. Từ đó góp phần vào làm hưng thịnh Phật pháp, hòa hợp Tăng già. Vì: “ Giới luật là thọ mạng của Phật pháp, giới luật còn thì Phật pháp còn”.

5. Kiến hòa đồng giải

Cùng hòa hợp trong kiến giải tu tập. Trong cuộc sống tu tập, mỗi khi nghe một câu chánh pháp, hoặc một kiến giải hay, một câu kinh hay một Phật sự nào cần làm đều nên đem ra bàn bạc thảo luận giữa đại Tăng để tiếp thu ý kiến, sau đó tổng hợp lại, cô động thành thành ý tưởng hay và thiết thực nhất để áp dụng vào cuộc sống tu tập và làm Phật sự.

6. Lợi hòa đồng quân

Tài vật, lợi dưỡng chia đều không thiên vị. Của mười phương Đàn việt cúng cho Tăng thì mỗi thành viên của Tăng đều được quyền thọ dụng như nhau trong tinh thần hòa hợp của giới luật. Nếu ai đó lạm dụng hay cố ý phân chia không đồng đều và bình đẳng sẽ dẫn đến mất hòa hợp, đây là tội rất nặng, một trong ngũ nghịch tội, chắc chắn khi mạng chung phải đọa vào địa ngục.

Tài vật của một cộng đồng, một tập thể mà chia không đồng đều thì dễ sinh ra sự không hay, nhỏ thì tranh cải, lớn thì tranh đấu, lớn nữa thì sinh ra sự chiến tranh. Vì vậy, của chung thì phải chia cho đồng đều, dù nhỏ như miếng ăn. Thế gian có câu:

      Miếng ăn là miếng tồi tàn

Nhịn ăn một miếng lộn gan lên đầu

III. Ứng dụng và lợi ích của pháp lục hoà

Pháp lục hòa có lợi ích rất lớn. Pháp lục hào đem lại sợ hòa hợp, thanh tịnh cho Phật tử nói chung và Tăng đoàn nói riêng. Pháp lục hòa không những ứng dụng cho người Phật tử mà các đoàn thể, các tôn giáo khác ứng dụng thực hành được rất nhiều lợi ích.

IV. Những mẫu chuyện dạy về sự hòa hợp

1.     Câu chuyện Bó Đũa (chuyện Cổ Việt Nam)

Ngày xưa, có một người nhà giàu, sinh được năm người con. Vì được nuông chiều họ sinh ra lười biếng và ỷ lại. Khi đã trưởng thành, mỗi người đều có một cơ ngơi, nhưng luôn ganh tị lẫn nhau vì những của cải mà cha mẹ cho. Người cha cố gắng để khuyên can họ nhưng vô ích, vì vậy ông rất đau lòng.

 Ít lâu sau, người cha bị bệnh nặng, biết mình không qua khỏi, một hôm ông gọi năm người con đến và bảo gia nhân đem ra một bó đũa. Năm người con ngơ ngác  không hiểu người cha có ý định gì, ông cầm lấy bó đũa và bảo từng người hãy bẻ đi, người con nào cũng gắng hết sức mình nhưng không sao bẻ nổi, lúc đó người cha lại bảo "các con hãy bẻ từng chiếc một xem sao", lập tức năm người con bẻ một cách dễ dàng. Lúc đó người cha mới nói:

- Các con ạ, bó đũa ví như năm anh em các con đó, nếu mỗi người các con đều chung tay gánh vác mỗi người một việc thì không kẻ thù nào làm các con gục ngã, còn nếu các con chỉ biết đến bản thân mình thì sẽ trở nên lẻ loi và bị thất bại trong cuộc đời. Nếu các con đoàn kết và thương yêu lẫn nhau thì cha mới có thể yên tâm mà nhắm mắt.

 Nghe xong, năm anh em mới hiểu lời người cha dạy, họ rất hối hận  những việc đã làm. Từ đó họ sống hoà thuận và đoàn kết, thương yêu lẫn nhau.

2. Chuyện đàn chim bất hòa (trích trong kinh Tiểu Bộ)

Vào một kiếp xa xưa, Bồ-tát (tiền thân đức Phật) sanh làm một con chim cút, thủ lĩnh của hàng ngàn con chim cút sống ở trong rừng. Bấy giờ, một người bẫy chim vì muốn bắt chim cút nên tìm đến nơi đàn chim sống. Ông ta thường bắt chước tiếng kêu chim cút để dụ chúng đến. Rồi chờ khi bầy chim kéo đến tập họp lại một chỗ, ông ta tung lưới chụp lên chúng và rút các mép lưới lại, tóm tất cả vào một mối, sau đó nhét chúng vào trong một cái giỏ, mang về nhà bán kiếm tiền sinh sống.

Một hôm, Bồ-tát nói với bầy chim:

– Thưa chư vị, người bẫy chim này đang tàn sát thân tộc của chúng ta. Ta có một phương kế khiến ông ta không thể bắt được chúng ta nữa. Từ nay trở đi, mỗi khi ông ta tung lưới lên, các vị hãy thò đầu của mình qua các lỗ lưới và sau đó cùng mang lấy cái lưới bay đến một nơi mà các vị muốn, và ở đó, hãy hạ cái lưới xuống trên một bụi cây gai. Làm như vậy, tất cả chúng ta sẽ thoát khỏi nhiều mẻ lưới.

Kế sách thật hay. Cả bầy chim cùng đồng ý.

Ngày hôm sau, khi người bẫy chim chụp lưới lên bầy chim, chúng đã làm theo những gì mà Bồ-tát đã dặn. Chúng mang cái lưới bay lên và hạ lưới xuống trên một bụi cây gai rồi trốn thoát từ phía dưới, làm cho người bẫy chim phải đứng đấy gỡ lưới mãi cho đến khi chiều tối, sau đó trở về nhà mà trong tay chẳng có thứ gì. Bầy chim sử dụng mưu kế ấy liên tiếp nhiều ngày sau đó. Và như thế, người bẫy chim cứ phải chịu cái cảnh loay hoay gỡ lưới cho đến chiều tối và trở về nhà tay không. Thấy chồng trở về nhà tay không hoài như vậy, người vợ tức giận nói:

– Ngày nào ông cũng trở về tay không. Tôi nghĩ là do ông nuôi dưỡng một cơ sở thứ hai nào đó.

Người bẫy chim nói:

– Không đâu bà ơi, tôi không nuôi dưỡng một cơ sở thứ hai, thứ ba nào cả. Sự thật là do những con chim cút đó bây giờ đã cùng hợp tác làm việc. Khi tôi tung lưới lên chúng, cả bầy cùng mang cái lưới đi, để lại nó trên một bụi cây gai và bỏ trốn. Nhưng chúng sẽ không thể sống mãi trong hòa hợp được đâu. Bà đừng lo, khi nào chúng bắt đầu cãi vã nhau, tôi sẽ bắt hết cả bọn chúng. Rồi bà sẽ vui cười cho coi.

Nói vậy xong, ông ta đọc cho bà vợ nghe mấy câu thơ:

Khi hòa hợp có mặt

Chim mang lưới bay xa

Khi tranh cãi xuất hiện

Chúng rơi vào tay ta.

Không lâu sau đó, một con chim cút khi đậu xuống bãi đất kiếm mồi đã vô ý đạp lên đầu một con chim cút khác. Con chim cút này kêu lên một cách giận dữ:

Kẻ nào đạp lên đầu ta thế.

Ôi! Xin lỗi bạn. Tôi đấy. Nhưng không phải tôi cố ý đâu. Xin đừng giận tôi nhé! - Chim cút thứ nhất thành khẩn nói.

Nhưng không thèm đếm xỉa đến câu trả lời phân trần này, chim cút thứ hai cứ ôm lòng sân hận, tiếp tục nói:

Ngươi nghĩ là một mình ngươi có thể nhấc bổng cái lưới kia lên được sao?

Và thế là chúng bắt đầu lời qua tiếng lại, lớn tiếng mắng nhiếc lẫn nhau.

Khi nhìn thấy chúng cãi vã nhau như vậy, Bồ-tát nghĩ: “Mỗi khi đã có tranh cãi thì không có an toàn. Giờ thì bầy chim sẽ không còn nhấc nổi cái lưới lên được nữa rồi, và do đó chúng sẽ nhận lấy sự đại diệt vong. Gã săn chim rồi sẽ tìm được cơ may của mình. Thôi, ta không nên ở đây nữa”. Nghĩ là làm, Bồ-tát cùng với đàn chim của mình bay đến một chỗ khác.

Đúng như dự đoán, một vài ngày sau, gã bẫy chim lại đi đến chỗ đó. Trước tiên gã dụ đàn chim lại bằng cách giả tiếng chim cút, sau đó gã tung lưới lên chúng. Thế rồi một con chim cút nói:

Nghe nói khi ngươi nhấc bổng lưới lên thì lông trên đầu của ngươi rơi xuống cả. Bây giờ có ngon thì hãy nhấc lưới lên đi!

Con chim kia đáp trả:

Khi ngươi nhấc lưới lên, nghe nói lông cánh của ngươi đều rụng cả. Bây giờ hãy nhấc lên thử coi!

Trong khi chúng đang còn đề nghị nhau nhấc lưới như vậy, thì người bẫy chim đi đến, rút các mép lưới lại và nhấc lên, tóm chúng lại thành một mối và nhét vào trong giỏ mang về nhà. Bà vợ thấy vậy thì cười sung sướng.

C.       Kết luận.

Pháp lục hoà đem lại nhiều lợi ích cho Phật tử nhất là đời sống Tăng già. Vậy chúng ta hãy ứng dụng, thực hành pháp này để cộng đồng Phật giáo chúng ta ngày một hoà hợp, lớn mạnh

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét