CÁC BÀI GIẢNG MẪU
PHÁP THÂN
Tiếng Phạn
là Dharma kaya, Trung Hoa phiên âm là Tỳ-lô-giá-na, dịch nghĩa là biến nhất
thiết xứ, tức là một tập hợp các chơn pháp trong trạng thái siêu tồn tại, là
chân thân của Phật, là thật tướng thanh tịnh, thường trụ, biến mãn và phổ quát.
a. Pháp thân theo quan điểm của Phật giáo Nguyên Thuỷ.
Tức chánh pháp, thành Phật là thành
tựu 5 phần pháp thân là:
- Giới pháp thân: như tam giới thanh tịnh, siêu việt sắc ấm.
- Định pháp thân: tâm thể Như Lai tịch tỉnh, siêu việt thọ ấm.
- Tuệ pháp thân thân: trí tánh Như Lai linh minh diệu giác, toàn triệt
pháp giới tánh, siêu việt tưởng ấm.
- Giải thoát pháp thân: thân tâm Như Lai an trú cảnh giới vô chướng ngại
tức Niết Bàn, siêu việt hành ấm.
- Giải thoát tri kiến pháp thân: thân Như Lai vô chấp vô trụ đối với
pháp tu, pháp chứng, siêu việt thức ấm.
b. Pháp thân theo Phật giáo Phát Triễn.
Pháp: được hiểu là pháp giới siêu
tồn tại. Hoa Nghiêm tông chia 5 loại pháp thân.
- Pháp tánh sanh thân: thân Như Lai sanh ra từ chân thật pháp.
- Công đức pháp thân: thân Như Lai được thành tựu bỡi vô lượng công đức.
- Biến hoá pháp thân: Như Lai tuỳ hiện hình theo sỡ cầu của chúng sanh.
- Thật tướng pháp thân: Như Lai thân vô tư vô vi.
- Hư không pháp thân: Như Lai thân biến mãn viên dung.
ĐẠO PHẬT
I. Định danh:
Đạo Phật là con đường chơn chánh,
nếu đem ra thực hành sẽ đưa đến sự toàn giác tối thượng, thể nhập chân lý tuyệt
đối, viên mãn các công hạnh tự lợi, lợi tha, tự giác, giác tha, chứng nhập
chánh trí giác ngộ, đưa đến an lạc giải thoát Niết Bàn.
II. Sự xuất hiện của đạo Phật.
a. Về phương diện bản thể.
Đạo Phật là chân lý và là con đường
thực hành chân lý, đã là chân lý thì mang tính phổ biến khắp nơi không hạn cuộc
bỡi một không gian và thời gian nào. Cho nên xét về mặt bản thể thì đạo Phật
vối có từ vô thỉ và tồn tại đến vô chung.
b. Về phương diện lịch sử.
Người sáng lập ra đạo Phật là Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni; Ngài đản sanh vào ngày 15 tháng 4 năm 623 trước CN tại
vương thành Ca-tỳ-la-vệ, nay thuộc nước Nepal Đông Bắc Ấn Độ, là thái tử con
vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Gia, tên là Tất Đạt Đa thuộc dòng dõi Thích Ca
giai cấp Sát-đế-lợi. Năm 19 tuổi xuất gia, 30 tuổi thành đạo, 80 tuổi Ngài nhập
Niết-bàn.
Như vậy, về phương diện lịch sử,
đạo Phật xuất hiện từ khi Phật thành đạo năm 554 TCN, từ khởi điểm đó Đức Phật
chuyển pháp luân tuyền dạy giáo lý trong nhân gian.
III. Nội dung của đạo Phật.
a. Mục đích của đạo Phật.
Tự điều phục tự thân và tha nhân,
đặt sự thanh bình an lạc, giải thoát là trên hết.
b. Tính chất của đạo Phật.
Tính dân chủ, tự do tư tưởng.
Tính khởi nguồn tự lực của mỗi con
người.
Tính thực tiễn.
Tinh thân từ bi hỉ xã.
Tính khẳng định khả năng vô tận ở
mỗi con người.
Tính khách quan biện chứng.
IV. Sự tuyền bá đạo Phật trên thế giới.
Tuy xuất phát từ Ấn Độ, nhưng về
sau Phật giáo lại phát triễn mạnh ở một số nước châu Á chia làm hai nhánh như
sau:
a. Phật giáo Bắc tuyền gồm các nước: Trung Quốc, Mông Cổ, Tây Tạng,
Nhật Bản, Triều Tiên, Bu Tan, Việt Nam v.v...
b. Phật giáo Nam truyền gồm các nước: Tích Lan, Mi An Ma, Thái Lan, Lào,
Cam Pu Chia.
Ngoài ra hiện nay Phật giáo cũng
đang được tuyền bá khắp thế giới.
TAM VÔ LẬU HỌC
A. Nhẫn nhập:
Tam vô lậu học là ba môn học vô lậu.
Lậu có nghĩa là phiền não cũng có nghĩa là rơi rớt trong tam giới. Như vậy, Tam
vô lậu học là ba môn học đoạn trừ lậu hoặc, chứng nhập quả vị giải thoát hoàn
toàn, không còn nằm trong sự kiềm toả của tam giới và không dừng lại ở phước
báu sanh thiên. Ba môn học đó là Giới, Định, Tuệ.
B. Nội dung Tam vô lậu học.
Giới vô lậu học.
I. Định nghĩa.
Còn gọi là tăng thượng giới học. Giới
Phạn ngữ là Sila, dịch âm là Thi-la, dịch nghĩa là giới, thanh lương, nghĩa là
phòng ngừa ngăn cấm sự sai quấy của thân và tâm. Giới cũng có nghĩa điều phục
và chế ngự ba nghiệp gọi là Tỳ-nai-da hay Tỳ-ny. Giới cũng có nghĩa là Biệt
giải thoát tức là giữ giới phần nào giải thoát phần đó, hay tuỳ thuận giải
thoát. Giới vô lậu học nghĩa là giữ giới phần não thì giải thoát phần đó.
II. Nội dung của giới.
Trong kinh Tăng Chi Đức Phật dạy 10
mục đích hình thành giới bổn như sau.
- Để tăng chúng được cực thịnh.
- Để tăng chúng được an ổn.
- Để chặn đứng các vị khó điều
phục.
- Để các vị Tỳ kheo tốt được sống
an ổn.
- Để chế ngự các lậu hoặc trong
hiện tại.
- Để chặn đứng các lậu hoặc trong
tương lai.
- Để đem lại niềm tin thanh tịnh
chính đáng cho những người chưa tin.
- Để làm tăng trưởng niềm tin thanh
tịnh chính đáng cho những người đã có niềm tin.
- Để cho chánh pháp được tồn tại.
- Để cho giới luật được chấp nhận.
Giới được chia ra nhiều loại như:
1. Tam tụ tịnh giới gồm.
- Nhiếp luật nghi giới: thuật thi các điều giới cụ thể theo thứ bậc tu
chứng.
- Nhiếp thiện pháp giới: lấy việc tu hành tất cả mọi thiện pháp là giới
luật.
- Nhiếp chúng sanh giới: là lấy việc làm lợi ích chúng sanh làm giới.
2. Giới thế gian và giới xuất thế gian.
- Giới thế gian: là giới của người tại gia như 5 giới, 10 giới.
- Giới xuất thế
gian: giới của người
xuất gia như Tỳ kheo giới, Bồ Tát giới.
III. Tính chất và nền tảng của giới.
- Tính chất của giới: giới được đặt trên căn bản thanh tịnh ba nghiệp. Giới
trong đạo Phật mang tính linh động tuỳ duyên.
- Nền tảng của giới: giới được đặt trên nền tảng tự lợi và lợi tha,
thanh tịnh bản thân đồng thời thanh tịnh cộng đồng và quốc độ.
IV. Lợi ích của giới.
Giới luật chính là bậc thang đầu
của đạo pháp giác ngộ, là nền tảng của thiền định, trí huệ, là ngọc anh lạc để
trang nghiêm pháp thân, là thuyền bè đưa người qua biển khổ sanh tử, là kho
tàng vô lượng công đức.
Định vô lậu học.
I. Định nghĩa.
Tiếng Phạn là Samadhi, dịch âm là
Tam-muội, Tam-ma-đề. Định thường để chỉ
thiền định nên thường gọi chung là thiền định, trong đó thiền dịch âm từ tiếng
Phạn là Dhyana (Thiền na) dịch nghĩa là tỉnh lự hay tư duy tu. Định chỉ cho
trạng thái tâm ý chuyên chú tập trung vào một đề mục, một đối tượng, một biểu
thức nhất định ngõ hầu tâm giới không bị xao động, nhiễu loạn, phân tán do
những tác động chủ quan và khánh quan. Định vô lậu học là môn học về định là
nền tảng phát sanh trí tuệ vô lậu.
II. Nội dung.
a. Tiến trình thành tựu định học.
Điều kiện tiên quyết để thực hành
thiền định là ly dục, ly ác bất thiện pháp. Định học được thành tựu theo tiến
trình cơ bản sau: dức tạp niệm chỉ còn thuần chánh niệm, dức tư tưởng chánh tà
chỉ còn tâm định tỉnh, xã bỏ cả ý niệm định tỉnh đạt tâm vô trụ.
b. Phân loại định.
1. Định cận hành và định an chỉ.
- Định cận hành: là định do sử dụng các phép quán mà có.
- Định an chỉ: là trạng thái dừng tâm vọng tưởng mà có.
2. Định thế gian và định xuất thế gian.
- Định thế gian: là sự dức tâm mà có được do một số biên pháp tu tâm nhưng
không có tác dụng liễu thoát sanh tử.
- Định xuất thế gian: là định của bậc Thánh giúp hành giả tu tập thoát
khỏi sanh tử.
c. Lợi ích của định.
Cơ thể khoẻ mạnh, hoá giải được
những cấu nhiễm trong tâm, thoát ly mọi sự sợ hãi, nếm được pháp lạc, phát sanh
trí tuệ, hình thành cả năng lực thường và phi thường, đạt được giải thoát giác
ngộ.
Tuệ vô lậu học.
I. Định nghĩa.
Tuệ tiếng Phạn là Panna phiên âm là
Bát-nhã, dịch nghĩa là Trí tuệ, thông đạt sự tướng hữu vi hay biết rõ tục đế
gọi là trí, thông đạt không tướng vô vi hay biết rõ chân lý gọi là tuệ, gọi
chung là trí tuệ. Tuệ vô lậu học là môn học lấy trí tuệ vô lậu làm cứu cánh. Tuệ
vô lậu học cũng là pháp ngữ chỉ cảnh giới chư Phật, Bồ Tát và A La Hán.
II. Phân tích.
1. Nội dung.
Kinh Chuyển Pháp Luân 2 thuộc Tương
Ưng 5 chỉ ra nội dung tuệ là thấu rõ tường tận tứ đế. Kinh Phật Tự Thuyết thuộc
Tiểu Bộ chỉ rõ trí tuệ là sự thấu rõ lý duyên dinh. Vậy Tuệ vô lậu học là nhìn
đúng quy luật, sự thật nhân sinh vũ trụ nhờ vào sự thể nghiệm thiền tập.
2. Phân loại.
a. Về bình diện giải thoát: có tuệ hữu lậu là trí phàm phu
ngoại đạo, trí tuệ vô lậu là tuệ của Chư Phật, Bồ Tát, Thanh Văn.
b. Về tính chất, tuệ vô lậu có hai loại.
- Căn bản trí: là trí tuệ có sẵn hay gọi là giác tánh hằng hữu.
- Hậu đắc trí: là trí tuệ khởi lập sau căn bản trí, là trí phản ảnh hiện
tượng của thế gian.
c. Về mức độ tu chứng có.
- Chánh biến tri: là trí của Thanh Văn, Duyên Giác.
- Đạo chủng trí: là trí tuệ của Bồ Tát.
- Nhất thiết chủng trí: là trí tuệ của Phật.
d. Về tiến trình tu tập có.
- Văn tuệ: tuệ do nghiên cứu học tập mà có.
- Tư tuệ: tuệ do tư duy quán chiếu mà có.
- Tu tuệ: tuệ do tu tập thực chứng mà có.
3. Lợi ích của tuệ.
Trí tuệ đoạn trừ được phiền não,
đạt được pháp vị giải thoát. Kinh Di Giáo Phật dạy: “Này các tỳ kheo, người có
trí tuệ thì không có tham trước, thường tự tỉnh giác, không để sanh ra tội lổi
thế là trong pháp của ta có được giải thoát tử”.
C. Kết luận.
Tam vô lậu học là ba môn học then
chốt của đạo Phật. Học và tu chính là học và tu Tam vô lậu học.
NIẾT BÀN
Tiếng Phạn là Nirvāna, dịch nghĩa là Diệt, Diệt tận, Diệt độ, Tịch
diệt, Bất sinh, Viên tịch, Giải thoát, Vô vi, An lạc. Niết-bàn là sự đoạn triệt
Luân hồi, tận diệt gốc rễ của ba nghiệp bất thiện là tham, sân và si. Ðồng thời
Niết-bàn có nghĩa là không còn chịu sự tác động của Nghiệp, không còn chịu qui luật nhân duyên,
Vô vi (đặc tính của nó là thiếu vắng sự
sinh, thành, hoại, diệt).
Niết Bàn được chia thành nhiều loại, theo Nam
tông (Tiểu thừa) chia làm hai loại:
Hữu dư Niết-bàn:
Niết-bàn còn tàn dư, Niết-bàn trước khi tịch diệt. Niết-bàn này là trạng thái
của các bậc thánh nhân đã dứt bỏ mọi Phiền não, không còn tái sinh. Các vị này
còn sống trên đời nên vẫn còn Ngũ uẩn, còn có nhân trạng nên gọi “hữu
dư”. Trong Hữu dư Niết-bàn hành giả còn khổ vì còn chịu nghiệp cũ. Có lúc hành
giả thoát được cái khổ đó một cách tạm thời trong một số tình trạng thiền định
nhất định.
Vô dư Niết-bàn:
Là Niết-bàn không còn Ngũ uẩn, Mười hai xứ, mười tám Giới và các Căn. Niết-bàn vô dư đến với một vị A-la-hán sau khi chết, không còn tái sinh.
Loại Niết-bàn này cũng được gọi là Niết-bàn toàn phần hay Bát-niết-bàn.
Theo Bắc tông (Đại thừa) chia làm bốn loại gồm: 1.
Bản lai tự tính thanh tịnh Niết-bàn; 2. Hữu dư Niết-bàn (giống như Hữu dư
Niết-bàn trên); 3. Vô dư Niết-bàn (giống Vô dư Niết-bàn trên); 4. Vô trụ xứ
Niết-bàn.
Bản lai tự tính thanh tịnh Niết-bàn: Chân tâm, tự tính của chúng sanh vốn thanh tịnh, sáng
suốt, như như. Do chúng sanh quên chân tâm, bản tánh của mình mà nhận lầm vọng
trần hư dối nên làm chúng sanh. Chư Bồ Tát, chư Phật giác ngộ, trỡ về sống với
bản tánh thanh tịnh , sáng suốt ấy nên mới thành Bồ Tát, thành Phật. Tuy bản
tánh này ở trong chúng sanh nhưng thể của nó vẫn luôn thanh tịnh, sáng suốt,
như như nên gọi là Niết-bàn.
Vô trụ xứ Niết-bàn: Chư Bồ Tát, chư Phật các ngài đã chứng Niết-bàn, nhưng vì lòng đại từ,
đại bi các ngài không nhập Niết-bàn mà vẫn luôn luôn thị hiện vào đời để cứu độ
chúng sanh, tâm nguyện của các ngài là khi nào độ hết tất cả chúng sanh thì các
ngài mới nhập Vô dư Niết-bàn.
NHÂN
QUẢ
Nhân Quả là gì? Nhân là nguyên nhân,
Quả là kết quả, nguyên nhân gây thế nào, kết quả ra thế ấy. Nói theo lối khác,
Nhân là hại giống, Quả luận với tánh cách rộng hơn, là hoa trái. Gieo trồng hạt
giống thuộc hoa trái nào, tất sẽ được hoa trái ấy.
Về phương diện nghiệp nhân, trong
kiếp sống, loài hữu tình khi gây Nhân có ba điều khái yếu: Phước nghiệp, Phi
phước nghiệp và Bất động nghiệp. Phước nghiệp là những nhân lành như kính thờ
Tam Bảo, bố thí, phóng sanh... Phi phước nghiệp là những nhân ác, như khinh
báng Tam Bảo, bất hiếu với song thân, cùng những điều giết, trộm, dâm, vọng...
Bất động nghiệp là những nhân thiền định, như thế gian thiền, ngoại đạo thiền,
xuất thế gian thiền...
Ba nghiệp nhân trên phát sanh từ
thân, ngữ, ý. Nhân lành của thân là giữ những giới không sát sanh, không trộm
cướp, không tà dâm, đoan chính trong các oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, mắt
không đắm sắc, tai không nhiễm thanh... Nhân lành của ngữ là không nói dối,
không nói thêu dệt, không nói đôi chiều, không nói thô ác, không nói vô ích,
không nói lời hí hước, không khen mình chê người, thường dẫn chuyện nhân quả
với tánh cách nêu gương để khuyên nhắc kẻ khác. Nhân lành của ý là không tham
lam bỏn sẻn tật đố, không giận dữ hờn oán sâu độc, không si mê tà kiến. Nếu thân,
ngữ, ý không làm những việc như trên, lại tạo thêm các điều thiện, gọi là ba
nghiệp lành. Trái lại, là ba nghiệp ác. Tóm tắt, về phần "Nhân", nơi
phát sanh không ngoài thân, ngữ, ý, và chỗ tạo tác không ngoài Phước, Phi phước
cùng Bất động nghiệp.
Như trên đã nói khái quát về phần
Nhân, kế lại xin bàn tổng quát về phần Quả. Quả báo tuy nhiều, song có thể tóm
tắt trong mười hai điểm:
1.
Hiện báo:
Ðây là quả báo trong kiếp hiện tại; có nghĩa
hiện thế gây nhân thì hiện đời chịu quả. Quả báo nầy có tánh cách mau, ví như
trồng loại cà, ớt hay gieo giống lúa, chỉ trong vòng một mùa, một năm đã thu
được kết quả. Hiện báo còn gọi là Hoa báo, danh từ nầy hàm ý nghĩa mau lẹ, ảnh
hưởng không đợi đến thời kỳ sanh trái, mà đã phát lộ trong thời kết bông.
2.
Sanh báo:
Sanh báo là gây nhân kiếp nầy, đời kế
sau mới chịu quả báo. Quả báo nầy có tánh cách hơi lâu.
3.
Hậu báo:
Ðây là nói sự gây nhân trong đời nầy, đến ba,
bốn, trăm, ngàn hay vô lượng kiếp sau mới thọ quả báo. Hậu báo có tánh cách lâu
hơn sanh báo
4.
Ðịnh báo:
Ðịnh báo là quả báo nhứt định phải chịu, không
thể chuyển biến được, bởi sức nghiệp đã quá thuần thục, trong mười phần thành
tựu cả mười. Ví như cái nhà hư hao chút ít hay nửa phần, còn có thể sửa chữa
được; nếu kèo cột tường nóc đều hư mục, tất phải chờ cho nó hư hoại để làm ngôi
khác.
5.
Bất định báo
Ðây là nghiệp báo có thể chuyển biến sửa đổi
được. Như có người trước đã tạo nghiệp lành, đáng lẽ phải hưởng phú quý trọn
đời. Nhưng trong lúc làm quan, nếu kẻ ấy tham mê tài sắc, ăn của lót, cưỡng
hiếp, hãm hại người, thì phước lộc lần lần tiêu giảm, có thể bị tù ngục, ô
danh, hoặc chết bất đắc kỳ tử. Và như kẻ kiếp trước kém nhân lành, nên đời này
thân phận nghèo khổ, hèn hạ. Song nếu người ấy biết xét lẽ nhân quả tội phước,
gắng sửa đổi tâm tánh, hết sức làm việc phước thiện, thì tội chướng lần tiêu
giảm, phước đức lần tăng thêm, có thể trong hiện tại chính mình hay con cháu sẽ
tiến đến cảnh vinh quang.
6.
Cộng báo:
Cộng báo là quả báo chung, như cùng một gia
đình, cùng một đất nước hay cùng một thế giới. Nói hẹp thì những người có cùng
nghiệp báo nên mới sanh chung trong một gia đình, nói rộng thì nhiều người có
những nghiệp tương đồng nên mới sanh vào một quốc gia, một thế giới để cùng
chịu khổ hay an lạc tuỳ theo gia đình hay đất nước ấy.
7.
Biệt báo:
Ðây cũng gọi Bất cộng báo, là quả báo
riêng của mỗi cá loại trong loài người hay loài vật. Như cùng trong một gia
đình mà có người thông minh, người khờ dại, người mạnh khoẻ, người hay đau ốm.
8.
Cận tử báo:
Cận tử báo là quả báo lúc sắp chết. Con người
khi già yếu sắp chết, những nghiệp thiện ác từ kiếp này hoặc kiếp trước dồn
lại, ảnh hưởng mạnh mẽ hơn lúc bình thường. Nếu là nghiệp thiện thì khiến cho
người ấy vui vẻ hòa nhã hiền lương, mắt tai không lờ lãng, khi lâm chung xả báo
an lành. Như thuộc về nghiệp ác, thì kẻ đó trở nên nóng nảy, ưa buồn giận khó
khăn, tâm trí lờ lẫn, lúc sắp chết đau yếu mê man.
9.
Thục vị thục báo:
Ðiều này là trạng thái của nghiệp báo
lúc chưa thuần thục và đã thuần thục. Nghiệp báo lúc chưa thuần thục thì chưa
trổ quả, còn khi nghiệp báo đã thuần thục thì quyết định sẽ trổ quả tuỳ theo
nghiệp đã tạo.
10.
Chuyển báo:
là quả báo biến chuyển, thay đổi tuỳ theo sự
tu tập, làm thiện, làm ác của người. Như có người kiếp trước đã tạo nhiều
nghiệp nặng, nhưng do đời nay ăn năng sám hối, tu tập, làm nhiều việc thiện thì
những nghiệp nặng trước kia sẽ chuyển thành nghiệp nhẹ.
11.
Thế gian báo:
Ðây là những quả báo khổ vui trong ba
cõi: Dục, Sắc và Vô sắc
12.
Xuất thế gian báo:
Xuất thế gian báo là quả báo của tứ thánh:
Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát và Phật.
Nói tóm lại, nhân quả là giáo lý
căn bản của đạo Phật, là chân lý của vũ trụ vạn vật, chúng ta hãy học tập và
thực tập, ứng dụng giáo lý nhân quả vào cuộc sống để được lợi lạc cho mình và
người.
NGHIỆP BÁO
A. Định nghĩa.
Nghiệp, tiếng
Sanskrit gọi là karma, Pàli gọi là kamma, có nghĩa là hành động có tác ý
(volitional action). Nói cách khác, nghiệp luôn luôn được bắt nguồn từ những
tạo tác của tâm (ý) thông qua những hoạt động của thân, miệng và ý, gọi chung
là tam nghiệp. Do đó, một hành động (tạo tác) nếu không phát sinh từ tâm thì
không thể gọi là nghiệp, mà hành động ấy chỉ được gọi là hành động hay hành
động duy tác (kriyà). Và như vậy, định nghĩa của nghiệp là: hành động có tác
ý, hay hành động được phát sinh từ tâm.
B. Nội dung của nghiệp
Thông thường, nói đến nghiệp là nói
đến vấn đề thiện, ác trong vòng sinh diệt và tương tục của đời sống con người.
Thông qua việc tạo nghiệp (thiện hay ác) mà con người tự xây dựng cho mình một
định nghiệp - một đời sống khổ đau hay hạnh phúc. Nhưng khổ đau hay hạnh phúc
là những cảm nhận của riêng mỗi con người khác nhau và nó là những pháp sinh
diệt, tương tục trên cơ sở tâm lý khác nhau.
Theo Phật
giáo, nghiệp được chia rất nhiều loại, sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu các loại
nghiệp này.
1.Theo trình tự, trước hết, giáo lý về nghiệp được
chia thành hai loại:
a. Nghiệp thiện:
Tư duy và hành động về các điều lành như thực
hành Ngũ giới và Thập thiện giới.
b. Nghiệp ác:
Tư duy hành động về các điều ác như
thực hành những điều trái ngược với Ngũ giới và Thập thiện giới.
Từ hai loại nghiệp trên, chúng ta
phải xét đến quá trình tạo tác, tư duy và hành động để hình thành nên nghiệp
(thiện hay ác). Do đó, nếu xét về tiến trình của nghiệp (process of karma) thì
nghiệp lại được chia thành hai loại nữa:
a. Nghiệp nhân:
Những tư duy, hành động tạo nghiệp
chưa đưa đến một kết quả.
b. Nghiệp quả:
Những tư duy, hành động tạo tác sau
một tiến trình đã tạo thành nghiệp, còn gọi là nghiệp quả hay nghiệp báo.
2.Xét theo tiến trình (từ nhân đến quả) của nghiệp thì
có hai loại nghiệp cơ bản:
a. Ðịnh nghiệp:
Là nghiệp được lưu chuyển trong
thời gian ổn định và từ nhân đến quả thống nhất với nhau. Ví dụ, trứng gà sau
khi được ấp trong một thời gian sẽ nở ra con gà. Nói chung, các nghiệp nhất
định sẽ đưa đến kết quả (như ăn thì sẽ no) thì được gọi là định nghiệp.
b. Bất định nghiệp:
Là nghiệp không dẫn đến kết quả,
hoặc kết quả sẽ thành tựu trong thời gian bất định, hoặc có thể giữa kết quả và
nguyên nhân không hoàn toàn thống nhất với nhau, thì được gọi là bất định
nghiệp.
3.
Nếu căn cứ theo thời gian, chúng ta
nhận ra hai loại nghiệp, một đã chín muồi và một đang và sẽ diễn tiến trong
dòng nghiệp tạo tác:
a. Nghiệp cũ:
Là nghiệp đã được tích lũy từ nhiều
đời sống quá khứ, và hiện tại nó đã chín muồi. Chẳng hạn thân thể của ta (cao,
thấp, mập, ốm, thông minh, ngu đần, hạnh phúc hay bất hạnh v.v...) ngày nay là
do cái nghiệp đã gieo từ trong vô thủy. Các nghiệp quả (y báo và chánh báo) của
thân này là quả dị thục của các nghiệp nhân từ vô thủy. Ngoài thân này, không
hề có một cái nghiệp riêng lẻ, cũ xưa nào khác.
b. Nghiệp mới:
Nếu như thân thể này là nghiệp cũ thì mọi tạo
tác đang làm và sẽ làm của chính thân thể này là nghiệp mới. Ví dụ, sự thành
đạt của ta ngày hôm nay là do các tạo tác trước đó. Và sự thành đạt của ngày
mai như thế nào sẽ tùy thuộc vào tư duy và hành động của ngày hôm nay. Kinh
Tương Ưng IV, Ðức Phật dạy: “Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý là nghiệp cũ. Các
hành động của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý trong hiện tại là nghiệp mới”.
4. Phân loại theo tính chất:
Như đã trình bày, nghiệp báo là sự chín muồi (quả dị thục)
của các nghiệp thuộc về bất thiện. Do đó, khi nói đến nghiệp báo (nghiệp quả)
là nói đến tiến trình nhân - quả của nghiệp. Theo giáo lý về nghiệp, một nhân
không thể tạo thành một quả, mà phải có các duyên phụ trợ. Cho nên, nói đủ phải
nói là nhân - duyên - quả. Duyên là các nhân phụ làm cho nhân chính thành quả;
như nước, phân, đất, sự cần mẫn chăm bón của con người (là các duyên) làm cho
hạt giống thành tựu nẩy nở. Vì thế, khi tìm hiểu về quả dị thục (sự chín muồi)
của nghiệp, ta phải tìm hiểu về 3 đặc tính sau:
a. Dị thời nhi thục:
Thời gian chín muồi của nghiệp quả khác với
thời gian tạo nghiệp (nghiệp nhân). Ví dụ như trái xoài, thời điểm khi sinh ra
cho tới khi nó chín muồi là khác nhau (khác thời mà chín).
b. Dị loại nhi thục
Kết quả bị biến chất (dị loại) so với thời
gian mới tạo nghiệp. Ví dụ, trái xoài khi nhỏ thì chua, nhưng khi chín thì ngọt
(biến chất rồi mới chín).
c. Biến dị nhi thục:
Kết quả bị biến thái và biến tướng
(biến dị) so với thời gian mới tạo nghiệp. Ví dụ trái xoài non thì màu xanh,
đến khi chín thì màu vàng.
5.Phân
loại theo năng lực:
Năng lực của nghiệp được hình thành theo từng loại nghiệp
khác nhau trong một tiến trình tâm lý rồi đưa đến sự hình thành các đặc tính
của nghiệp.
a. Tập quán nghiệp:
Là nghiệp được huân tập bởi một thói quen
trong đời sống hàng ngày. Có thể đó là thói quen thuộc tâm lý, hành vi, cách
ứng xử v.v... Ví dụ, hút thuốc lá là một tập quán nghiệp.
b. Tích lũy nghiệp:
Là các nghiệp được tích lũy dần như
rót nước vào thùng, có thể xem thân của ta như là một tích lũy nghiệp từ vô
thủy.
c. Cực trọng nghiệp:
Là các nghiệp gây ấn tượng xấu ác
cực mạnh và sâu trong tâm lý của con người như phạm các tội ngũ nghịch (giết
cha, mẹ (giết người) v.v...).
d. Cận tử nghiệp:
Là nghiệp lúc sắp chết hay những sức mạnh tâm
lý của con người trước lúc tắt thở. Nghiệp này cực kỳ hệ trọng trong việc hướng
dẫn nghiệp thức đi tái sinh. Những tư tưởng cuối cùng của người sắp chết sẽ tạo
nên một cận tử nghiệp (thiện hoặc bất thiện). Một người có thể suốt đời làm ác,
nhưng trước lúc tắt thở, nỗ lực sinh khởi ý thức về thiện pháp, về những điều
thiện trong đời, và nhờ ý lực đó có thể tái sinh vào cõi tốt đẹp (tương tự như
vậy đối với trường hợp ngược lại). Từ đó, qua những kinh nghiệm cận tử, chúng
ta cần huân tập các thiện nghiệp trong đời sống của mình để tạo thành một sức
mạnh (ý lực) đoạn trừ các ác nghiệp ngay trong đời sống hàng ngày và cả đến giờ
phút lâm chung.
6.Một
số danh từ về nghiệp mà ca cần biết như:
- Bạch nghiệp (nghiệp trắng): các nghiệp thiện
- Hắc nghiệp (nghiệp đen): các nghiệp ác
-Phi hắc phi bạch nghiệp: các hành động duy tác (không thiện không ác)
- Biệt nghiệp: nghiệp riêng của mỗi người
- Cộng nghiệp: nghiệp chung của tập thể (gia đình)
- Thánh nghiệp: nghiệp đưa đến thánh đạo
- Duy tác nghiệp: nghiệp không có sanh y (không có quả)
- Chướng nghiệp: nghiệp cản trở sự kết thành của quả
- Ðoạn nghiệp: nghiệp tiêu diệt các năng lực sanh nghiệp
-Phi hắc phi bạch nghiệp: các hành động duy tác (không thiện không ác)
- Biệt nghiệp: nghiệp riêng của mỗi người
- Cộng nghiệp: nghiệp chung của tập thể (gia đình)
- Thánh nghiệp: nghiệp đưa đến thánh đạo
- Duy tác nghiệp: nghiệp không có sanh y (không có quả)
- Chướng nghiệp: nghiệp cản trở sự kết thành của quả
- Ðoạn nghiệp: nghiệp tiêu diệt các năng lực sanh nghiệp
C. Thái độ tâm lý tiếp thọ
nghiệp
Ðây là một vấn đề vô cùng quan
trọng trong giáo lý nghiệp báo. Vì mỗi người đều có cái nghiệp riêng do vô
minh, ái thủ đã tạo nên, do đó đương nhiên phải đối diện với quả báo của mình.
Sự trốn tránh nghiệp lực là điều vô ích.
Vì thế, vấn đề quan trọng được đặt
ra đối với người đang trên đường tu tập không phải là nghiệp báo mà chính là
thái độ tâm lý tiếp thọ nghiệp. Kinh Nipata, Ðức Phật dạy rằng: Người đã tiêu
diệt ảo kiến, phá tan lớp tối tăm dày đặc trong tâm sẽ không còn thênh thang đi
mãi. Ðối với người ấy, vấn đề nhân quả (nghiệp báo) không còn nữa.
D. Kết luận
Ðức Phật dạy rằng: “Không ai làm
cho ta nhiễm ô, cũng không ai làm cho ta trong sạch; trong sạch hay ô nhiễm là
tự nơi ta, chỉ có ta làm cho ta ô nhiễm, chỉ có ta làm cho ta trong sạch”. Lời
dạy trên đã mở ra cho con người một hướng đi rất chủ động trong việc tạo nên một
đời sống an lạc giải thoát ngay tại cuộc đời này.
TAM PHÁP ẤN
I. Định
nghĩa.
Tam pháp ấn
có nghĩa là ba đấu ấn của chánh pháp, ấn có nghĩa là khuông dấu, là yếu tố xác
tín và khẳng định. Ba dấu ấn của chánh pháp là ba chuẩn mực xác định tính chánh
thống và đích thực của giáo lý đạo Phật. Những kinh văn luận thuyết nằm ngoài
ba chuẩn mực này nhất định không phải của Phật giáo, ba đấu ấn đó là Vô thường,
Khổ, Vô ngã.
II. Nội dung.
1. Pháp ấn thứ nhất Vô thường.
Đây là nội dung chủ đạo trong kinh
tạng Phật giáo. Đức Phật thuyết lý vô thường, chỉ cho chúng sanh thấy vạn vật,
con người từ thân tâm đến ngoại cảnh đều luôn biến động, chỉ ra các pháp tu tập
trước quy luật đó. Bất cứ học thuyết luận cứ nào có nội dung ngược lại với
nguyên lý trên thì dù có mệnh danh là Phật giáo cũng là ngoại đạo.
2. Pháp ấn thứ hai là Khổ.
Nếu vô thường là nguyên lý toàn vũ
trụ thì khổ là nguyên lý phổ biến của nhân sinh, khổ là một thực tại trong cuộc
sống, Phật pháp chỉ ra khổ, giúp con người nhận ra chân tướng cuộc đời để thức
tỉnh và không chạy theo ảo giác hạnh phúc giả tạm trần thế mà cầu pháp xuất ly
khổ ách. Mọi luận thuyết trái với nguyên lý trên đều không thuộc Phật giáo.
3. Pháp ấn thứ ba Vô ngã.
Vô thường nhìn sự vật hiện tượng
trong tiến trình thời gian còn vô ngã là hệ quả của sự quán sát sự vật qua cả
thời gian và không gian. Mọi sự vật đều vô ngã vì qua thời gian nó không còn là
nó và hiện tại nó không có chủ thể. Kinh pháp Phật giáo đều tuyên thuyết giáo
lý vô ngã, giúp chúng sanh ý thức về vô ngã tính của vạn pháp, thoát ly ý niệm
ngã và ngã sở.
III. Kết luận.
Tam pháp ấn là ba nội dung chủ đạo
trong nền tảng giáo lý đạo Phật.
Tam pháp ấn trỡ thành ba chuẩn mực
giá trị để khẳng định các công trình trước tác.
Tam pháp ấn là ba khởi điểm trong
nhận thức để tu tập.
VU LAN
I. Khái niệm.
Vu lan bồn
Phạn là Ulamtoana, Trung Hoa phiên âm là Ô-lam-bà-nao, dịch âm là Vu lan bồn,
dịch nghĩa là đảo huyền, cứu đảo huyền, giải đảo huyền, nghĩa đen là cứu giải
những tội nhân bị treo ngược, nghĩa rộng chỉ pháp kỳ siêu bạt độ chư hương linh
ra khỏi ác đạo, đoạ xứ.
Vu lan bồn
chỉ cho thắng lể ngày rằm tháng bảy (còn gọi là xá tội vong nhân) liền sau mùa
an cư của Chư Tăng; lấy pháp cúng dường Tam bảo, sức chú nguyên của Chư Tăng để
cứu độ vong linh cha mẹ nhiều đời, cha mẹ bảy đời, cha mẹ quá vãng và kỳ an
song thân hiện tiền nên còn gọi là mùa báo hiếu.
II. Duyên khởi pháp Vu lan bồn.
Bà Thanh Đề,
thân mẫu của Tôn giả Mục Kiền Liên do sinh tiền tạo ác nghiệp, lâm chung thọ
thân quỷ đói, Đức Mục Kiền Liên thỉnh giáo Đức Thế Tôn và Ngài chỉ dạy pháp cứu
độ gọi là Vu lan bồn.
III. Ý nghĩa pháp Vu lan bồn.
- Thể hiện
nét nhân văn, thiện mỹ của người Phật tử trong các mối quan hệ (báo hiếu, báo
ân).
- Tính đặc
trưng cao cả của đạo Phật: báo hiếu, báo ân trên ba phương diện: kỉnh điền:
cúng dường Tam bảo Chư Tăng, bi kiền: siêu độ tất cả hương linh, bố thí kẻ
nghèo đói, ơn điền: báo hiếu cha mẹ.
- Tính nhân
duyên, mối tương quan mang tính trợ duyên.
- Tính tuyền
thống: đây là giá trị mang tính sống động vĩnh cữu chỉ đạo Phật mới có và đã
được xã hội trân trọng hưởng ứng.
LỤC HOÀ
I.
Định nghĩa.
Lục hoà là
sáu nguyên tắc sống hoà hợp mà Đức Phật đã chế định, áp dụng trong mọi nếp sống
sinh hoạt của Chư Tăng, ngõ hầu tạo hoà khí, nhất trí từ vật chất đến tinh thần
trong nếp sống hàng ngày, lục hoà là pháp lợi lạc cả tự và tha, cái nhân và tập
thể. Sáu nguyên tắc đó là: thân hoà đồng trụ, khẩu hoà vô tránh, ý hoà đồng
duyệt, giới hoà đồng tu, kiến hoà đồng giải, lợi hòa đồng quân.
II. Nội dung.
1. Thân hoà đồng trụ (thân hoà đồng ở).
Nghĩa là
cùng sinh sống, cùng làm việc dưới một mái nhà, một trú xứ, cùng chia sẽ trách
nhiệm về nơi ăn chốn ở, đồng nhất trong các thời khoá sinh hoạt tạo nên tương
kính, đưa đến hoà hợp nhất trí không tranh chấp.
2. Khẩu hoà vô tránh (ngôn ngữ hoà hợp
không tranh cải).
Nghĩa là
trong giao tiếp dùng những lời lẽ từ ái, hoà nhã, ôn tồn, tế nhị tuyệt đối
không manh độc, thô thiễn, tạo nên sự tương kính, tương ái đưa đến hoà hợp nhất
trí không tranh chấp.
3. Ý hoà đồng duyệt (ý hoà cùng vui).
Nghĩa là tâm
ý luôn luôn hoan hỉ cùng nhau, không sanh tâm kiêu mạn, tật đố, lập nhị, mặc
cả, thanh lọc tâm ý bằng pháp hỉ xã tạo nên sự tương ái tương kính đến đến hoà
hợp nhất trí không tranh chấp.
4. Giới hoà đồng tu (giới hoà cùng tu
tập).
Nghĩa là
cùng tôn trọng và thực hành những điều giới đã lãnh thọ theo giới pháp, đồng
thời cùng tuân giữ những nội quy cụ thể được chế định cho mọi người trong một
trú xứ, đồng sách tấn nhau không bị để ô nhiễm huỷ phạm đưa đến sự tương ái
tương kính, hoà hợp nhất trí không tranh chấp.
5. Kiến hoà đồng giải (kiến hoà cùng
giải bày).
Nghĩa là
cùng phân tích để lý giải, cùng đóng góp mọi quan điểm lập luận đến mọi vấn đề,
từ đơn giản đến phức tạp, từ những chuyện sinh hoạt thường nhật, đến vấn đề
Phật pháp cao siêu, tất cả đều đặc trên cơ sỡ chánh kiến, ngõ hầu tạo sợ thông
cảm đi đến sự tương ái, tương kính hoà hợp từ ái không tranh chấp.
6. Lợi hoà đồng quân (lợi hoà đồng
chia đều).
Nghĩa là đối
với các lợi dưỡng nhận được đúng pháp đều được phân chia hay cùng thọ hưởng một
cách quân bình linh động theo thứ tự tôn ti, không được lạm dụng của chúng. Như
thế mới đưa đến sự tương ái, tương kính hoà hợp nhất trí không tranh chấp.
III. Ý nghĩa và lợi ích của pháp lục
hoà.
Sự chia rẽ
đố kị phân biệt mất đoàn kết là nguyên nhân dẫn đến sự tan rã của một tập thể
Tăng đoàn. Sự hoà hợp thông cảm gắn bó thống nhất đoàn kết là yếu tố cực kỳ
quan trọng để một tập thể tồn tại vững bền và phát triễn vược bậc. Trong tinh
thần đó, Đức Phật đã chế định pháp lục hoà để mọi Phật tử trong Tăng đoàn làm
cẩm nang trong mọi hành xử với nhau.
Thực hành
sáu pháp hoà kính, mỗi người được an tịnh thân tâm, tự thân và hội chúng đều
được an ổn và tiến bộ.
Tuy Phật chế
định pháp lục hoà để Tăng chúng y cứ thực hành, nhưng bất cứ một đoàn thể nào
áp dụng cũng đều mang lại lợi lạc và tiến bộ.
TỨ NHIẾP PHÁP
I.
Định nghĩa.
Tứ nhiếp
pháp là bốn pháp phương tiện lợi tha có công năng nhiếp hoá chúng sanh, ứng
dụng trong bất cứ môi trường hoàn cảnh nào, ngõ hầu từng bước cảm hoá chúng
sanh, đưa họ thăng hoa gần đến giác ngộ Phật pháp. Bốn pháp đó là: Bố thí
nhiếp, Ái ngữ nhiếp, Lợi hành nhiếp và Đồng sự nhiếp.
II. Nội dung.
1. Bố thí nhiếp.
Là dùng pháp
bố thí để nhiếp hoá, bố thí gồm ba phương thức sau.
a. Tài thí: Là bố thí tài sản, vật thực để giúp chúng sanh khỏi cảnh
khổ về vật chất.
Tài thí gồm
có ngoại tài là của cải ngoại thân, tiền bạc các thứ để ăn mặc, nơi ở, thuốc
thang và nội tài là những gì thuộc trong thân như thân mạng, sức lực v.v...
b. Pháp thí: Thế gian: là giúp phương cách,
phương tiện tự nuôi sống, dạy nghề, giúp vốn làm ăn.
Xuất thế
gian: là đem sự an ổn về thân tâm cho người, giúp người học được pháp xuất thế.
c. Vô uý thí: là đem sự không sợ hãi để bố thí,
đem lại sự an ổn về thân tâm cho người. Ví dụ: giúp vật chất để họ thoát khỏi
sợ đói kém, bảo vệ họ nỗi sợ xâm hại, cứu giúp họ trong tai nạn khủng khiếp.
2. Ái ngữ nhiếp.
Là dùng ngôn
ngữ khoan hoà, chân thật, từ ái và thân mật để nhiếp độ người. Căn bản của ái
ngữ nhiếp thuộc về bốn nghiệp thiện của khẩu trong thập thiện. Chung quy có ba
cách:
- Nói lời
trong sáng, đầy lý trí, khế hợp với chân lý, giúp người thăng hoa trí tuệ.
- Nói lời
hoà nhã, lịch thiệp, bao nhung để cảm hoá khuyên răng người.
- Nói lời
chân thật không xáo ngôn ỷ ngữ để gây tín tâm cho ngữ đối với tam bảo.
3. Lợi hành:
Là dùng tất
cả những hành vi cụ thể, tích cực đem lại lợi ích cho cho chúng sanh để nhiếp hoá
họ gồm hai cách:
- Dùng công
việc lợi ích để nhiếp độ như thực hiện những việc công ích xã hội.
- Dùng sự
tinh tấn trong tu tập để làm gương.
4. Đồng sự nhiếp.
Là cùng hoà
đồng với chúng sanh trong một hoàn cảnh sống để tuỳ căn cơ, hoàn cảnh, hoài
bảo, nghề nghiệp, vị thế của họ mà cùng sinh hoạt để nhiếp hoá, có bốn phương
diện:
- Đồng sự
trong công việc như: học tập, lao động, kinh doanh buôn bán.
- Đồng sự
trong hoàn cảnh như: giàu, nghèo, sang, hèn.
- Đồng sự
trong địa vị như quyền cao chức trọng hay thứ dân.
- Đồng sự
trong tư tưởng như ba hạng thượng trung hạ.
Đồng sự là
một cách nhiếp hoá chúng sanh bằng cách tiếp xúc, thâm nhập đời sống của họ mà
chư Bồ Tát đã dùng phương pháp thị hiện để hoá độ.
III. Ý nghĩa và lợi ích của Tứ nhiếp
pháp.
Tứ nhiếp
pháp là một biểu trưng toàn bích cho hạnh lợi sanh được lưu xuất từ tâm từ bi,
một niệm chính yếu của đạo Phật. Cũng chính vì mục đích độ sanh mà chư Phật thị
hiện trong cỏi đời, cho nên có thể nói Tứ nhiếp pháp là pháp môn cụ thể hoá ý
chí và phương pháp quảng độ quần sanh của chư Phật.
Người tu
hạnh Tứ nhiếp pháp sẽ hoàn thiện tự thân, cải hoá gia đình, xã hội và đem lại
cho người khác những lợi ích sau;
- Bố thí
nhiếp giải thoát chúng sanh thoát khỏi nỗi khổ về thân tâm và nghiệp quả.
- Ái ngữ
nhiếp giúp chúng sanh tự nguyện hoan hỉ tu tập để tiêu tan sầu khổ thành tựu
công đức.
- Lợi hành
nhiếp giúp chúng sanh tăng tưởng phước thiện trong hành vi, tăng tưởng đức độ
trong tâm ý.
- Đồng sự
nhiếp giúp chúng sanh thành tựu hai
pháp: hành nghiệp chơn chánh và tập quán thiện mỹ.
LỤC ĐỘ
I. Khái niệm.
Trong đạo
Phật (Bodhiattva) là đại đạo tâm chúng sanh, đại giác hữu tình, tức là một chúng
sanh đạt giác ngộ rộng lớn (hữu tình giác) và giác ngộ kẻ khác. Lục độ là một
phương tiên trợ tâm để tự tha lưỡng lợi, đồng thành đại giác. Hành lục độ là
phương tiện của các Bồ Tát đang tấn tu công hạnh trước khi đăng nhập Phật vị.
II. Nội dung.
1. Định nghĩa Lục độ Ba la mật.
Ba la mật
tiếng Phạn là Paramita phiên âm là Ba-la-mật-đa, Hán dịch là cứu cánh giải
thoát, đáo bỉ ngạn, độ vô cực, Việt dịch là qua bờ bên kia, gọi tắc là độ. Vậy
Lục độ Ba la mật là sáu phần công hạnh của Bồ Tát, sáu pháp này trước hết để tự
mình cao đăng giác lộ và thứ đến giúp người rốt ráo giải thoát trên cơ sở bi
trí song vận. Sáu pháp đó là bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định
và trí huệ.
2. Khái quát Lục độ Ba la mật.
a. Bố thí.
Tiếng Phạn
là Dana Paraita, phiên âm là Đàn-ba-la-mật hay Đàn-na-ba-la-mật. Trong đó bố là
ban phát cho người tài vật của mình, thí là bớt phần mình cho người, độ tức là
đến bờ kia, hàm nghĩa tối thượng. Bố thí độ là đem cho người những gì mình có
trên tinh thần Tam luân thanh tịnh. Bố thí để độ người đó tức là từ bi, bố thí
trong tinh thần ý thức trách trách nhiệm, siêu xuất mọi ý tưởng hạn cuộc thế
gian mới là Ba la mật
b. Trì giới.
Trì tức là
nắm giữ, kềm chế, giới là điều khoản thực hành để phòng phi chỉ ác, tác thiện.Trì
giới độ tiếng Phạn là Sila Paramita, phiên âm là Thi la Ba la mật. Trì giới là
nhiếp phục chuyển hoá ba nghiệp từ cấu uế thành thanh tịnh, từ phàm phu trỡ
thành đời sống thanh tịnh.
Trì giới Ba
la mật là thực hành giới vô chấp, vô nhiễm. Trì giới là tự hoàn thiện mình, gốc
độ đầu tiên là lợi mình, lợi người đó là từ bi, cấp độ cao nhất là thành tựu
nhân cách trên mọi nhân cách đó là Ba la mật.
c. Nhẫn nhục.
Là sự kham
nhận trước mọi hoàn cảnh thuận nghịch chủ quan hay khách quan, tiếng Phạn là
Khanti Paramita, phiên âm là Sằn đề Ba la mật, nhẫn nhục không còn thấy ranh
giới của vui khổ thuận nghịch nhân duyên đó là Ba la mật.
d. Tinh tấn.
Tiếng Phạn
là Panvirga Paramita, sự diệt ác hưng thiện không ngừng nghỉ, tự chiến thắng
mình, tối hậu là thành tựu ưu việt năm ba la mật kia.
e. Thiền định.
Dòng tâm
thức là sóng lượng, ngoại cảnh đổi thay là gió, thiền định chính là trời yên bể
lặng để mặt trời chân lý đăng quan đó chính là thiền định.
g. Trí tuệ.
Trí là thông
đạt mọi pháp, tuệ là dức hoặc chứng lý, đạt vô ngại dung thông đó là Ba la mật.
III. Kết luận.
Sáu pháp Ba
la mật này có quan hệ lẫn nhau.
Lục độ như
chiếc cầu bắt qua chiếc cầu sanh tử, bên này là chúng sanh giới, bên kia là
giác ngạn cao siêu.
NGŨ UẪN
I. Nội dung Ngũ uẫn.
Ngũ uẩn là giáo lý phổ
biến, căn bản Đức phật dạy về thân phận
chúng sanh mà cụ thể là con người. Ngũ uẫn là năm pháp cấu tạo nên chúng sanh, con
người, năm pháp đó là sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Chữ uẫn chỉ cho sự nhóm
họp, hội tụ v.v... Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu năm pháp này.
1. Sắc uẫn: gồm có bốn yếu tố:
đất, nước, gió, lửa, và các sắc do bốn yếu tố ấy làm nên (tư tưởng được gồm vào
đây). Sắc này do thức ăn nuôi dưỡng. Khi thức ăn tập khởi thì sắc tập khởi; khi
thức ăn đoạn diệt thì sắc đoạn diệt. Bát Thánh đạo dẫn đến yếm ly, ly tham,
giải thoát và tri kiến giải thoát là con đường tu tập đưa đến đoạn diệt sắc.
2. Thọ uẩn: gồm có thọ do nhãn xúc sanh, thọ do nhĩ xúc
sanh, thọ do tỉ xúc sanh, thọ do thiệt xúc sanh, và thọ do ý xúc sanh. Do có
xúc sanh khởi nên thọ sinh khởi; do xúc đoạn diệt nên thọ đoạn diệt. Con đường
đưa đến thọ đoạn diệt là Bát Thánh đạo dẫn đến yếm ly, ly tham, giải thoát và
tri kiến giải thoát.
3. Tưởng uẩn: gồm có sắc tưởng, thanh tưởng, hương tưởng, vị
tưởng, xúc tưởng và pháp tưởng. Do xúc tập khởi nên Tưởng tập khởi, do xúc đoạn
diệt nên Tưởng đoạn diệt. Con đường dẫn đến Tưởng đoạn diệt là Bát Thánh đạo
đưa đến yếm ly, ly tham, giải thoát và tri kiến giải thoát.
4. Hành uẩn: gồm có sáu tư (hay hành): sắc tư, thanh tư,
hương tư, vị tư, xúc tư và pháp tư. Ðây gọi là Hành uẩn. Do xúc khởi nên tư
khởi, do xúc diệt nên tư diệt. Bát Thánh đạo là con đường đưa đến tư (hành)
đoạn diệt, dẫn đến yếm ly, ly tham, giải thoát và tri kiến giải thoát.
5. Thức uẩn: gồm có nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt
thức, thân thức, và ý thức. Do danh sắc (hoặc hành) tập khởi nên thức tập khởi;
do danh sắc đoạn diệt nên thức đoạn diệt. Con đường đưa đến thức đoạn diệt là
Bát Thánh đạo dẫn đến yếm ly, ly tham, giải thoát và tri kiến giải thoát.
II. Mê lầm Ngũ uẩn.
Thông thường chúng ta
do mê lầm năm uẫn, cho năm uẫn là ta, là thân ta rồi tham lam, bảo thủ, giữ gìn
nó. Do vì cho nó là ta rồi tham lam nó, bảo thủ nó nên chúng ta lo cho nó đủ thứ, rồi
tạo vô số nghiệp để nghiệp lực này dẫn dắc chúng ta đi trong sanh tử luân hồi
chịu nhiều khổ đau.
III. Tu tập để thoát khỏi sự ràng buột của
Ngũ uẫn.
Muốn thoát khỏi sự sanh
tử luân hồi thì chúng ta phải tu tập để đạt được Ngũ uẫn vô ngã. Vậy sự tu tập
trước tiên là chúng ta phải tu tập thiền định, trí tuệ, quán chiếu Ngũ uẩn với
trí trí Ba la mật để thấy được tường tận bản chất Ngũ uẫn. Sau đây là những
đoạn kinh Đức Phật dạy sự tu tập, quán chiếu về Ngũ uẫn.
Trong Kinh Tương Ưng Bộ
III, Thế Tôn dạy: “Không liễu tri Năm uẩn thì không thể đoạn tận khổ đau. Do vậy
cần phải liễu tri Năm uẩn: Sự đoạn tận tham, sự đoạn tận sân, sự đoạn tận si
được gọi là liễu tri”. (tr. 32).
Cũng trong Kinh Tương
Ưng Bộ III khi đề cập đến Thiền định, Thế Tôn tuyên bố: "Này các Tỷ-kheo,
hãy tu tập Thiền định. Vị Tỷ-kheo tu tập Thiền định thì hiểu biết một cách như
thật. Hiểu biết gì một cách như thật? Sắc tập khởi và sắc đoạn diệt, thọ tập
khởi và thọ đoạn diệt, tưởng tập khởi và tưởng đoạn diệt, hành tập khởi và hành
đoạn diệt, thức tập khởi và thức đoạn diệt".
Có lần Đức Phật cảm
hứng nói lên bài kệ về Năm uẫn như sau:
" Năm uẩn là gánh
nặng
Kẻ gánh nặng là người;
Cầm lấy gánh nặng lên
Chính là khổ ở đời.
Còn đặt gánh nặng xuống
Tức là lạc ở đời.
Ðặt gánh nặng xuống rồi,
Không mang thêm gánh khác.
Nếu nhổ khát ái lên,
Tận cùng đến gốc rễ
Không còn đói và khát,
Ðã giải thoát, tịnh lạc". (Sđd, tr. 26).
Kẻ gánh nặng là người;
Cầm lấy gánh nặng lên
Chính là khổ ở đời.
Còn đặt gánh nặng xuống
Tức là lạc ở đời.
Ðặt gánh nặng xuống rồi,
Không mang thêm gánh khác.
Nếu nhổ khát ái lên,
Tận cùng đến gốc rễ
Không còn đói và khát,
Ðã giải thoát, tịnh lạc". (Sđd, tr. 26).
Thế Tôn đã giải thích
rằng nắm giữ tham ái là cầm gánh nặng lên, đoạn diệt tham ái là đặt gánh nặng
xuống. Như vậy khổ đau không phải do chính Năm uẩn, cũng không do vì Năm uẩn vô
thường, mà là do chính lòng khát ái Năm uẩn: "Năm uẩn là khổ đau. Chính
khát ái (dục ái, hữu ái và vô hữu ái) là cội gốc của khổ đau".
VI. Kết luận.
Ngũ
uẫn là pháp Đức Phật phân tích, giảng rõ thân phận của chúng sanh nhất là con
người, sau khi đã phân tích, giảng rõ nó Đức Phật kết luận nó là một tập hợp
giả tạm do nhân duyên sanh. Từ đó Đức Phật chỉ cho chúng ta phương pháp tu tập
để thoát khỏi Ngũ uẫn, những phương pháp tu tập này là giới, định và tuệ. Vậy
chúng ta hãy ứng dụng tu tập ba phương pháp này để đạt đến Ngũ uẩn vô ngã thì
chúng ta sẽ được giảng thoát.
SÁM HỐI
I. Mỡ đề.
Đức Phật dạy: "Phàm còn xuống
lên ba cõi, lặn lội trong sáu đường, thì không một loài nào được hoàn toàn
trong sạch, không một giống nào dứt hết tội lỗi".
Thật thế, cõi đời này đã được gọi
là cõi trần, thì làm sao trong sạch được? trong kinh Địa Tạng Phật nói: “Ta xem
thấy chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề mỗi cử chỉ động niệm không gì là không
tội”. Ở đời người ta thường nói: "ở
bầu thì tròn, ở ống thì dài"; vậy thì ở trong bụi tất cả phải lấm bụi. Bụi
đời đã lâu đời lâu kiếp phủ lên thân, lên đầu chúng ta, và trong buồng gan lá
phổi của chúng ta. Nó làm cho chúng ta mờ mắt không thấy được đường chánh; nó
làm cho chúng ta dục lòng, không thấy được chân tâm.
Nếu chúng ta muốn sống mãi trong
cảnh bụi nhơ, muốn đắm mình trong tội lỗi, thì không nói làm gì. Nhưng khi
chúng ta đã muốn được trong sạch thảnh thơi, muốn trút bỏ tội lỗi cho lòng được
nhẹ nhàng, thư thới, thì tất nhiên chúng ta phải tìm phương pháp để trừ cho hết
bụi bặm, tẩy trừ cho hết tội lỗi. Trong đạo Phật, phương pháp tẩy trừ ấy gọi là
Sám Hối.
II. Định nghĩa.
Chữ "Sám", tiếng Phạn gọi
là Samma; Tàu dịch là "Hối quá". Kinh nói: "Sám giả sám kỳ tiền
khiên, Hối giả hối kỳ hậu quá". Nghĩa là Sám là ăn năn lỗi trước, còn hối
là chừa bỏ lỗi sau. Nếu dùng một chữ Sám hay một chữ Hối không, thì chưa đủ ý
nghĩa, nên các Tổ xưa ghép hai chữ lại thành danh từ "Sám hối", dịch
theo tiếng Việt là "ăn năn chừa lỗi".
Như thế trong chữ Sám hối có hàm
nghĩa ăn năn, hối hận vì những lỗi lầm trong quá khứ; bất luận là lâu mau, và
bây giờ cho đến về sau, mình nguyện là không tái phạm nữa. Nếu biết lỗi cũ là
bậy, bây giờ mình xin chuộc lỗi, mà sau này vẫn còn làm lại, thì không phải là
đúng nghĩa Sám hối trong đạo Phật.
III. Cách sám hối.
Đức Phật dạy rằng: Tội lỗi do tâm
của người tạo ra, không ai có quyền thưởng phạt. Kẻ gieo giống xấu thì ăn trái
dở, người trồng giống quý thì hưởng quả ngon. Tội lỗi đã từ tâm tạo, thì cũng
từ tâm mà sám. Lời nói thật rõ ràng, chí lý, hợp với thực nghiệm. Vậy chúng ta
muốn hết tội, phải y theo những pháp Sám Hối chân chánh của Đạo Phật mà thật
hành. Trong đạo Phật, có 4 pháp Sám Hối sau đây, có pháp thuộc về sự, có pháp
thuộc về lý:
·
Tác
pháp sám hối (sự);
·
Thủ
tướng sám hối (sự);
·
Hồng
danh sám hối (sự);
·
Vô
danh sám hối (lý).
a) Tác Pháp Sám Hối.
Pháp sám hối này thuộc về sự; phải
lập giới đàn và thỉnh thanh tịnh Tăng chứng minh, nên gọi là tác pháp. Khi vào
giới tràng, mình phải thành thật tỏ bày tội lỗi một cách thành khẩn, chí tâm ăn
năn và nguyện về sau không tái phạm nữa. Một lòng thành kính sám hối như vậy,
khi giới thể được thanh tịnh, tức là hết tội.
b) Thủ Tướng Sám Hối.
Pháp này thuộc về sự và khó hơn
pháp trước. Phật chế pháp này, là pháp sám hối thuộc quán tưởng, cho những người
tu hành có trình độ cao.
Muốn tu pháp này, hành giả phải đến
trước tượng Phật hay Bồ Tát, thành tâm lễ bái, trình bày những tội lỗi đã phạm,
và nguyện ăn năn chừa bỏ. Làm như thế từ một ngày, ba ngày, bảy ngày, 49 ngày,
và mãi cho đến khi nào thấy được hảo tướng: như thấy hào quang, hoa sen báu,
thấy Phật, Bồ Tát đến xoa đầu v.v.. thì mới thôi.
c) Hồng Danh Sám Hối.
Pháp Hồng Danh Sám Hối này cũng
thuộc về sự, do Ngài Bất Động Pháp Sư đời Tống bên Trung Hoa soạn ra. Ngài rút
53 danh hiệu Phật trong Kinh "Ngũ Thập Tam Phật " tức là từ đức Phật
Phổ Quang cho đến Phật Nhứt Thế Pháp Tràng Mán Vương, và rút 35 hiệu Phật trong
Kinh "Quán Dược Vương, Dược Thượng" với pháp thân đức Phật A Di Đà,
sau thêm vào kệ Phổ Hiền Đại Nguyện, thành nghi sám hối này, tổng cộng là 108
lạy, để ám chỉ trừ 108 phiền não.
Nghi thức sám hối này, nếu ai chí
thành kính lễ, thì sẽ diệt trừ những phiền não và tội lỗi đã tạo, trong đời
hiện tại cũng như nhiều đời về quá khứ. Đức Phật Tỳ Bà Thi nói: "Nếu chúng
sanh nào nghe danh hiệu 53 vị Phật này, thì trăm ngàn ức kiếp không đọa vào ba
đường ác". Đức Phật Thích Ca nói: "Thuở xưa, đời Phật Diệu Quang, ta
đi tu nhằm đời mạt pháp, nhờ được nghe danh hiệu 53 vị Phật này, và thành tâm
lễ bái, mà tránh khỏi những đau khổ trong đường sanh tử luân hồi nhiều
kiếp". Còn 35 danh hiệu Phật sau, từ đức Phật Thích Ca cho đến đức Phật
Bửu Liên Hoa Thiện Trụ Ta La Thọ Vương, thì trong Kinh Bửu Tích nói: "Nếu
tất cả chúng sanh, hoặc phạm tội ngũ nghịch hay thập ác, đến muôn kiếp không
thể sám hối, chỉ xưng danh hiệu 35 vị Phật này và lễ bái, thì bao nhiêu tội
chướng đều tiêu trừ".
d) Vô sanh Sám Hối.
Pháp này thuộc về lý sám hối rất
cao và khó, bực thượng căn mới có thể thực hành được. Có hai cách sám:
- Quán tâm vô sanh: Nghĩa là quan sát tự tâm mình hiện tiền không sanh.
Như trong Kinh Kim Cang nói: "Tâm quá khứ không thể được, tâm hiện tại
chẳng có, tâm vị lai cũng không ". Quán trong ba thời gian đều không có
tâm, thì vọng niệm không từ đâu mà có, thì các tội lỗi cũng không. Kinh nói:
"Tội từ nơi tâm sanh ra mà cũng từ nơi tâm diệt. Nếu tâm này không sanh,
thì tội kia cũng chẳng còn, thế mới thật là sám hối".
- Quán pháp vô sanh: Nghĩa là quan sát thật tướng (chơn tánh) của các
pháp không sanh. Chữ "thật tướng", nghĩa là cái tướng ấy không sanh
không diệt, không hư dối; từ xưa đến nay nó vẫn thường như thế, không bị thời
gian thay đổi, hay không gian chuyển dời, suốt xưa thấu nay, nên gọi là
"thật tướng" (tướng chân thật). Nó cũng có tên là chơn như hay chơn
tâm...
Khi nhận được thật tướng rồi, thì
các giả tướng đều không còn. Lúc bấy giờ những tội lỗi (giả tướng) kia, không
còn gá nương vào đâu mà tồn tại. Trong Kinh Quán Phổ Hiền có chép: "Muốn
sám hối, phải quán thật tướng của các pháp, thì tội mới hoàn toàn tiêu
diệt".
Làm nhiều việc lành để tiêu trừ tội
lổi.
Ngoài những
phương pháp sám hối trên, chúng ta làm tất cả việc lành cũng là một cách sám
hối. Ngày xưa do chúng ta không hiểu đạo, không biết nhân quả thiện ác nên
chúng ta là nhiều tội ác. Hôm nay chúng ta hiểu đạo, biết được nhân quả thiện
ác thì bây giờ chúng ta làm nhiều việc lành để bù đắp lại những sai lầm tội lổi
ngày xưa. Việc làm lành tránh ác là một cách sám hối thiết thực nhất.
IV. Kết luận.
Như chúng ta đã thấy ở các đoạn
trên, người thế gian hay các tôn giáo đều có những cách thức ăn năn ngừa lỗi
cả. Song, chỉ có pháp sám hối của đạo Phật mới dứt trừ được tội lỗi, do chỗ lấy
sự cải ác, tùng thiện làm cốt yếu.
Trong 4 pháp sám hối của đạo Phật,
có pháp về Sự, có pháp về Lý, có pháp cao, có pháp thấp. Vậy phải tùy theo căn
cơ và hoàn cảnh của mỗi người mà áp dụng. Người thượng căn, thì quán pháp Vô
Sanh Sám Hối. Người không gặp cảnh thuận tiện, không có giới đàn, không gặp cao
Tăng, thì dùng pháp Thủ Tướng Sám Hối. Người được cảnh thuận tiện có giới đàn
thanh tịnh, có cao Tăng đại đức thì dùng pháp Tác Pháp Sám Hối. Còn thấy mình
tội chướng nặng nề, và thấy các pháp trên khó thực hành được, thì cứ mỗi đêm,
hay những bữa ăn chay và ngày sóc vọng, tùy tiện đến chùa hoặc ở nhà chí tâm lạy
Hồng Danh Sám Hối hoặc tiểu sám hối cũng tốt.
Trong các pháp sám hối của Đạo
Phật, mặc dù có lạy có quỳ, có lễ bái, nhưng không phải để cầu cạnh van xin
được tha tội đâu. Trong cái lạy cái quỳ ấy, có chứa không biết bao nhiêu ý
nghĩa và ích lợi. Vẫn biết lạy và quỳ, nhứt là trong pháp Hồng Danh Sám Hối,
thật là hao hơi mệt xác thân, có cái vui tinh thần, trong cái sự tướng bên
ngoài có hàm cái lý nghĩa bên trong.
Thật vậy, tuy có lạy nhiều, niệm
lâu, nhưng vẫn không ra ngoài những mục đích sau:
1. Tìm cách thiết thực làm cho tâm
tánh con người được trong sạch, hết sự lỗi lầm ở trong đời hiện tại, mà cũng
tiêu trừ những tội ác trong đời quá khứ.
2. Tìm cách phát triển những hạnh
cao cả, noi theo những gương mẫu sáng suốt của các bực Thánh Hiền.
Tóm lại, các pháp sám hối của đạo
Phật, nếu thực hành một cách đứng đắn, sẽ đem lại những kết quả quí báu sau
đây:
·
Làm
phát triển tánh thành thật.
·
Trao
dồi đức tánh cương quyết trong sự diệt trừ tánh xấu.
·
Dứt
được tội, sanh phước.
·
Mau
thắng đến chỗ giải thoát an vui.
Nhờ pháp sám hối của đạo Phật, con
người có thể cải hóa lòng mình tốt đẹp hơn. Nhờ pháp sám hối, con người có thể
làm cho đời sống cá nhân được hạnh phúc, và đời sống xã hội được hòa bình, an
lạc.
Vậy ai là người muốn lấ hết tội
lỗi; ai là người yêu chuộng chân lý, hãy cùng nhau nghiên cứu và thực hành các
pháp sám hối của Đạo Phật cho kỹ lưỡng, để trước là cải thiện đời sống của
giống hữu tình được bớt đau khổ, và thêm an vui.
TỨ DIỆU ĐẾ
A. Duyên khởi.
Chân lý Tứ
diệu đế được Đức Phật giảng đầu tiên tại vườn Nai ngoại thành Ba la nại. Thính
chúng trong hội là năm anh em Kiều Trần Như, bạn đồng tu cũ Đức Phật, ngoài năm
anh em Kiều Trần Như còn có vô lượng chư thiên ở các cõi trời cũng đến nghe.
Sau khi nghe pháp Tứ đế cả năm vị đều đắc quả A la hán, trỡ thành năm vị đệ tử
xuất gia đầu tiên của Đức Phật hình thành Tăng bảo đầu tiên ở thế gian.
C. Nội dung.
I. Khổ đế.
Khổ đế hay
chân lý về sự khổ, tiếng Phạn là Dukkha, duk nghĩa là kkó, hạ liệt đáng khinh,
kha nghĩa là chịu đựng, cũng có nghĩa là trống rổng. Vậy khổ đế là chân lý về
mọi nổi khổ thế gian, hàm chứa ý nghĩa khổ thọ (khó chịu đựng) và nêu lên một
sự thật: khổ trong chúng sanh là hư vô trống rổng không dám để bám víu. Theo
kiến quan Phật giáo khổ có nhiều loại nhưng có loại khổ Đức Phật hay nói là bát
khổ. Sau đây chúng ta tìm hiểu loại khổ này.
Bát khổ.
1. Sanh khổ: khổ khi sanh ra, khổ trong cuộc sống đời người.
2. Già khổ: khổ khi tuổi già, thân suy lực
kiệt, tâm trí lu mờ.
3. Bệnh khổ: khổ do bệnh tật gây nên, thân thể
bất an, nhằn vật khổ sỡ.
4. Tử khổ: khổ khi phải đối diện với cái chết, thân thể hãi hùng thể
xác đau đớn.
5. Ái biệt ly khổ: khổ vì phải xa lìa những người
mình thương yêu quý mến do ly tán hay kẻ còn người mất.
6. Cầu bất đắc khổ: khổ do mọi sỡ cầu không được toại
ý (tình trường, công danh sự nghiệp, kế sanh giai).
7. Oán tắng hội khổ: khổ do tâm sân hận tiềm ẩn bức bách khi phải chung đụng
người mình căm nghét.
8. Ngũ ấm xí thạnh khổ: ngũ ấm hay ngũ uẫn chỉ cho một cơ thể sống gồm: sắc
thọ tưởng hành thức, khổ phát sanh vì thân lúc hưng lúc suy và vì bị ngũ dục
chi phối, vì chấp thân này là thật có.
II. Tập đế.
Tập đế tiếng
Phạn là Samudaya là chân lý chắc thật về nguyên nhân của mọi khổ đau, căn bản
là do khát ái, chấp thủ. Những điều kiện này tích tụ chứa nhóm qua nhiều thời
gian quá khứ và gây khổ đau trong hiện tại. Nói cách khác Tập đế là cội gốc của
sanh tử.
Tập đế chính
là những phiền não và nghiệp, những phiền não gồm:
1. Khái ái: khát ái gồm có ba thứ là.
- Dục ái: sự tham ái say mê cõi dục.
- Hữu ái: sự tham ái say mê cõi sắc.
- Vô hữu ái: sự tham ái say mê cõi vô sắc.
2. Mười căn bản phiền não gồm: tham, sân, si, mạn, nghi, thân
kiến, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, tà kiến.
3. Nghiệp: nghiệp có nhiều loại như nghiệp ác, nhiệp thiện, tập quán
nghiệp, tích luỹ nghiệp, cận tử nghiệp v.v...
III. Diệt đế.
Diệt đế hay
diệt thánh đế tiếng Phạn nói đó là Dukkha nirodha urya sacca, Trung Hoa phiên
âm là Ni-lâu-dà, dịch nghĩa là khổ diệt thánh đế, là chân lý chắc thật về sự
tận diệt, đoạn trừ các tập khí, thoát khổ thuần an lạc. Vậy diệt đế cũng đồng
nghĩa với Niết bàn.
1. Thứ lớp đọan hoặc.
a. Kiến đạo sở doạn hoặc: giai doạn phá trừ được những quan
diểm sai lầm, cố chấp do lý trí ngộ nhận.
b. Tu đạo sở đoạn hoặc: giai đoạn phá trừ được phiền não
xâu dày qua công phu nổ lực.
2. Các cấp độ tu chứng.
a. Tứ gia hạnh: gồm có 4 vị là noãn vị, đảnh vị, nhẫn vị, thế đệ nhất vị.
b. Tu đà hoàn: Dự lưu quả, đã đoạn kiến hoặc song
còn chấp ngã, còn phiền não.
c. Tư đà hàm: Nhất lai quả, đã đoạn kiến hoặc và
sáu phần tư hoặc ở cõi dục giới.
d. A na hàm: Bất lai quả, đã ra khỏi cỏi dục
giới không còn kiến hoặc và tư hoặc nhưng vẫn còn vi tế hoặc của cỏi sắc và vô
sắc.
f. A la hán: Vô sanh quả, quả vị đã đoạn sạch
ngã chấp phiền não.
3. Niết bàn.
Diệt đế cũng
có nghĩa là Niết bàn. Niết bàn tiếng Phạn là Nirvana, phiên âm là Nê-bạc,
Nê-hoàn. Niết bàn nghĩa là ra khỏi rừng mê, là bất sanh, giải thoát, tịch diệt.
IV. Đạo đế.
Tiếng Phạn
là Dukkha nirodha magga ariya sacaa Trung Hoa dịch là Khổ diệt đạo thánh đế,
nói gọn là đạo đế, nghĩa là chơn lý chắc thật về về con đường đưa đến khổ diệt
tức Niết bàn.
Đạo đế được phương tiện hoá thành
ba mươi bảy trợ đạo phẩm gồm:
1. Tứ niệm xứ: là bốn pháp quán niệm về thân, thọ, tâm và pháp.
2. Tứ chánh cần: là bốn phương pháp tu hành tinh tấn gồm:
a. Tinh tấn ngăn ngừa việc ác chưa
phát sanh.
b. Tinh tấn đoạn trừ việc ác đã
phát sanh.
c. Tinh tấn làm phát sanh việc
thiện chưa sanh.
d. Tinh tấn làm tăng tưởng việc
thiện đã phát sanh.
3. Tứ như ý túc.
- Dục như ý túc.
- Tinh tấn như ý túc.
- Nhất tâm mhư ý túc.
- Quán như ý túc.
4. Ngũ căn.
- Tín
căn.
- Tấn căn.
- Niệm căn.
- Ðịnh căn.
- Huệ căn.
5. Ngũ lực.
- Tín
lực.
- Tấn lực.
- Niệm lực.
- Ðịnh lực.
- Huệ lực.
6. Bảy giác chi.
- Trạch
pháp.
- Tinh tấn.
- Hỷ.
- Khinh an.
- Niệm.
- Định.
- Xả.
8. Tám thánh đạo.
- Chánh kiến.
- Chánh tư duy.
- Chánh tinh tấn.
- Chánh ngữ.
- Chánh nghiệp.
- Chánh mạng.
- Chánh niệm.
- Chánh định.
D. Kết luận.
Tứ diệu đế là giáo lý căn bản nhất
của Phật giáo, phản ảnh đúng quy luật của dòng sống nhân sinh, khẳng định vai
trò vô minh trong mọi hình thái khổ đau.
Đức Phật dạy ai thấy rõ lý Tứ đế là chánh kiến, trí huệ. Do vậy ý nghĩa của Tứ
đế được coi là nền tảng, là thắng pháp trong hệ thống giáo lý đạo Phật.
QUÁN TỪ BI
A. Mở Ðề.
Trong các nguyên nhân gây ra đau khổ cho
mình và cho người, tánh nóng giận là một nguyên nhân lớn, chẳng kém gì lòng
tham lam và tánh ngu si. Từ vô thỉ đến nay sự xây dựng của loài Người lớn lao
vô kể; nhưng sự phá hoại vì lòng giận dữ của họ, cũng lớn lao vô cùng. Loài
người xây rồi phá, phá rồi xây không ngừng, chẳng khác gì những đứa trẻ xây nhà
trên cát, xây xong rồi đạp đi, để rồi xây lại. Và nguyên nhân của sự phá hoại
ấy là lòng nóng giận. Có những sự nóng giận nho nhỏ trong nhà giữa vợ chồng làm
đổ vỡ chén bát; có những sự nóng giận giữa anh em làm u đầu sưng trán; có những
sự nòng giận giữa bạn bè làm đoạn tuyệt đường đi lối về; có những sự nóng giận
giữa tình địch, hay đồng nghiệp kinh doanh cần phải thanh toán bằng lưỡi dao,
mũi súng hay lọ át xít; có những sự nóng giận lớn lao hơn, giữa nước này với
nước khác, màu da này với màu da nọ, chủ nghĩa này với chủ nghĩa kia, mà kết
liễu là những thấy ma nằm ngổn ngang trên bãi chiến trường, những kẻ tật nguyền
trong các bệnh viện, và những chiếc khăn tang trên đầu các cô nhi quả phụ...
Tất cả những tai họa trên đều do sân hận
mà ra. Sân hận nằm sẵn trong lòng mỗi người, như những ngọn lửa âm ỉ cháy, như
những ngòi thuốc súng sẵn sàng bùng nổ bất luận lúc nào. Lửa gặp lửa, thuốc
súng gặp thuốc súng, không nói, chẳng ai cũng biết tai hại do chúng gây ra lớn
lao như thế nào !
B. Chánh Ðề
I. Ðịnh Nghĩa.
Từ bi là một
tình thương đẹp đẽ, cao cả của đạo Phật. Đạo Phật nhờ có từ bi từ hơn hai năm
năm trăm năm nay không gây đau khổ cho ai mà ngược lại lại cứu độ được rất
nhiều người. Đây là một đoạn Đức Phật dạy về từ bi: "Từ năng dữ nhứt thiết chúng sinh
chi lạc; Bi năng bạt nhứt thiết chúng sinh chi khổ". Nghĩa là Từ cho vui
tất cả chúng sinh; Bi là diệt trừ cái khổ cho tất cả mọi loài. Diệt khổ và cho
vui đó là tất cả nguyện vọng và hành động lợi tha, cứu đời của người có lòng từ
bi.
Hết khổ và được vui tức là khía cạnh của
cuộc đời, nhưng không thể rời bỏ nhau được. Khi được vui một phần nào, tức là
đã bớt khổ một phần nào, ấy là trong Từ có Bi; và trái lại, khi bớt khổ một
phần nào, tức là đã được vui một phần ấy như thế là trong Bi có Từ. Cũng như
một đứa bé đang khổ sở vì đi lạc đường, bỗng có ai chỉ đường cho nó, nó liền
vui mừng và hết khổ.
Vậy từ bi là lòng thương rộng lớn vô biên,
nó xui khiến người ta vận dụng tất cả khả năng, tâm tư, phương tiện để làm cho
mọi người, mọi vật thoát khổ được vui.
Nhưng không phải
khi không ai cũng có tâm từ bi, muốn có tâm từ bi thì chúng ta phải tu phép
quán từ bi. Sau đây là phương pháp quán từ bi.
IV. Phương Pháp Quán Từ Bi
Một trong những phương pháp hiệu nghiệm để
huấn tập được lòng từ bi là "Quán từ bi". Quán Từ bi có ba từng bậc
thấp cao, tùy theo căn cơ của ba hạng tu hành:
1.
Chúng sinh duyên từ: Pháp
quán này thường dành cho người Tiểu căn thực hành.
Chúng sinh duyên từ, nghĩa là lòng từ bi
do quán sát cảnh khổ của chúng sinh mà phát khởi.
Chúng sinh tức là muốn nói đến những hạng
còn đang say mê, chìm đắm trong bể khổ sanh tử, còn đang trói mình trong vòng
phiền não nhiễm ô. Chẳng hạn như loài địa ngục bị hành phạt đủ điều, ngạ quỷ bị
đói rách bứt bách, súc sanh bị cảnh dao thớt hành hình, A tu la đấu tranh, chém
giết. Ðến như chúng sinh ở cõi trời tuy vui thú, nhưng vẫn còn bị ngũ suy tướng
hiện, luân hồi, đọa lạc như thường. Mà vẫn hơn hết là loài người, cũng chịu
không biết bao nhiêu là cảnh khổ, từ vật chất đến tinh thần, từ cá nhân đến
đoàn thể. Nhất là đối luật vô thường: sanh, già, bịnh, chết, chưa ai thoát khỏi
được. Ðã không thoát được mà lại còn vô tình đi gây chuốc thêm khổ, lắm khi cứ
quên mất cái tuổi già, mỗi ngày mỗi chồng chất, thật đáng thương hại !
Vậy, đứng trước những cảnh khổ của chúng
sinh, người Phật tử phải làm như thế nào? Phải phát lòng từ bi! Nhưng làm sao
cho lòng từ bi ấy được phát?
Ðức Phật có dạy chúng ta phải quán sát tất
cả chúng sinh trong lục đạo, mười phương đều như bà con thân thuộc.
Ðây là phương pháp đầu tiên để hòa hợp với
mọi chúng sinh. Dùng cảm tình mà tập quán Từ bi. Trước kia, chúng ta có thói
quen là cái gì ngoài "ta" thì ít khi quan tâm đến. Giờ đây, quán từ
bi tức là chúng ta đã phá bỏ cái vỏ ích kỷ hẹp hòi ấy mà giác ngộ và nhận định
rằng:
Thế giới của loài người chúng ta đang ở
đây, tỷ như một cái nhà lớn, nơi sum họp và đoàn kết của đại gia đình. Vẫn biết
rằng nhân loại khác nhau về màu da, chủng tộc; những cái khác đó chẳng qua là
khác về bề ngoài, chứ đã là người thì ai ai cũng có một thân hình xương thịt
như nhau cũng đồng sợ khổ ưa vui, biết xấu biết tốt v.v... Vì thế đối với người
lớn tuổi, ta phải kính trọng như ông bà cha mẹ; người ngang hàng hay tuổi xấp
xỉ, xem như anh chị em ruột thị; người nhỏ tuổi hơn nữa xem như con cái cháu
chắt...
Rộng ra một tầng nữa, đối với chúng sinh
trong năm loại, chúng ta hãy xem như những thành phần của đại gia đình là chú,
bác, cô, dì... Vẫn biết rằng về hình thức, loài người khác với loài khác, và
nhiều khi ta không gặp mặt nữa, nhưng xét cho cùng, đã là chúng sinh, thì tất
nhiên đồng chung một nguồn sống, và đã có sống thì tất nhiên đều ham sống sợ
chết, đều biết cảm nỗi vui sướng và khổ đau. Gần với chúng ta nhất mà chúng ta
có thể thấy, gặp và nhờ cậy được là loài súc sinh. Tuy chúng không biết nói như
chúng ta, nhưng nếu chúng ta đối đãi tử tế, chúng cũng biết thương mến và trung
thành với ta. Tuy không có học thức, chúng vẫn biết nghe lời ta và giúp đỡ ta trong
nhiều công việc nặng nề. Chẳng qua vì nghiệp nặng, nên đời này chúng làm súc
vật, nhưng biết đâu đời trước, chúng không phải là anh em của ta? Và sau này,
biết đâu chúng lại không sẽ là bà con quyến thuộc của ta?
Phương pháp tu tập của người Tiểu căn này
tuy chưa phá được ngã chấp, những cũng đã mở rộng được phạm vi hẹp hòi của cái
ngã nhỏ và thể nhập vào cái ngã to hơn là đại gia đình; rồi từ cái ngã to tình
cảm ấy, sẽ chuyển dần sang giai đoạn lý trí cao siêu hơn, bằng phép quán
"Pháp duyên từ" sau đây.
2.
Pháp duyên từ: Pháp duyên
từ là lòng từ bi do duyên "Pháp tánh" mà phát khởi. Ðây là pháp quán
dành cho các bậc Trung căn.
Hành giả trong khi tu pháp môn này, quán
sát thấy tất cả chúng sinh, cùng mình đều đồng một "pháp giới tánh",
nên chúng sinh đau khổ là mình đau khổ; vì vậy hành giả khởi lòng từ bi cứu khổ
ban vui cho tất cả chúng sinh. Ðến địa vị này, các Ngài không còn phân biệt là
nam hay nữ, không còn quan niệm mình khác với người, không nghĩ rằng đó là bà
con quyến thuộc, chỉ thấy mình cùng người đồng một "pháp giới tánh"
mà thôi. Bồ Tát đã nhận chúng sinh và mình đồng một bản thể, nên khi cứu khổ,
không cần biết đó là ai, và khi làm, không chấp mình đã làm. Chúng sinh có khổ
thì Bồ Tát có Bi. Sự thông cảm tự nhiên ấy như tình thiêng liêng giữa mẹ và
con, hễ có cảm là có ứng, như tánh sốt sắng của vị y sĩ có lương tâm nhà nghề,
hễ thấy bịnh thì liền trị. Với ý nghĩa này, trong kinh Trung A Hàm có tỷ dụ:
Trước một nạn nhân bị trúng tên độc thì thầy thuốc liền lấy ra lập tức. Ông
không cần phải hỏi người ấy tên gì, ở đâu, con ai, cũng không cần coi cây tên
ấy làm bằng gì, ai bắn v.v...
Sự cứu khổ cho chúng sinh, đối với các vị
Bồ Tát đã chứng được "pháp duyên từ" này cũng như thế, chỉ nhằm mục
đích làm sao cho kẻ khác hết khổ được vui mà thôi.
3.
Vô duyên từ: Là pháp tu
tập cho người Đại căn.
Vô duyên từ, là lòng từ bi không có tâm
năng duyên và cảnh bị duyên, không còn dụng công, không còn quan sát, đối đãi
giữa mình với người, mình và vật như hai thứ từ bi trước. Lòng từ bi này xứng
theo thể tánh chơn tâm mà tự khởi ra bao la, trùm khắp, không thiên lệch một
nơi nào. Cũng như ánh sáng mặt trời chiếu khắp cả gần xa, không phân biệt thấp
cao, không chú ý một nơi nào, chiếu soi tất cả một cách vô tư và không dụng
công.
V. Lợi ích của pháp Quán Từ Bi.
Khái lược theo kinh Tăng Nhất A Hàm thì Quán Từ bi sẽ được những
lợi ích như sau:
a. Khi thức hay ngủ đều được an vui.
b. Hiện tại được nhiều người thương.
c. Sống trong đời không bị tai nạn trộm
cướp.
Nhưng thực hành pháp quán từ bi, không
phải chỉ để cho chúng ta cầu những quả báo lợi ích riêng cho mình, và có bấy
nhiêu đó. Mục đích chúng ta tu là cốt làm sao chúng ta và mọi chúng sinh trong
lục đạo đều khỏi khổ được vui. Lẽ tất nhiên, trong khi tu chúng ta sẽ:
Trừ được lòng sân hận độc ác.
Dẹp được ngã chấp hẹp hòi.
Ðoàn kết được với mọi người.
Ðời sống cá nhân và đoàn thể nhờ thế được
vui vẻ, có ý nghĩa.
C. Kết Luận
Từ bi là một phương thuốc trị tâm sân hận.
Sân hận là đầu mối sát hại ghê ghớm, là cái chìa khóa của tất cả kho tội lỗi. Trừ
được nó tức là trừ được chết chóc, và dập tắt được cái ngòi biến loạn. Bao
nhiêu súng đạn và nhất là bom nguyên tử sẽ trở thành vô dụng. Trong nhân loại,
không còn ai là cừu địch không còn có giai cấp bóc lột, đấu tranh. Ai cũng là
người đáng thương, đáng giúp đỡ. Giữa người và người, giữa người và vật sẽ có
một sự liên lạc, đoàn kết mật thiết. Con người sẽ vô cùng sung sướng khi thấy
xung quanh mình đều là bà con quyến thuộc, bốn biển đều là anh em và cùng chan
hòa trong Phật tánh.
QUÁN
VÔ NGÃ
Hầu hết người đời đều tin rằng, mỗi người
từ khi mới lọt lòng mẹ cho đến chết và cả sau khi chết nữa, đều có một linh hồn
duy nhứt, bất biến làm chủ tất cả ý nghĩa, hành động của mình. Nói theo thuật
ngữ Phật giáo thì tin như thế gọi là "ngã chấp", nghĩa là tin có một
ngã riêng biệt, tồn tại bất biến...Từ cái ngã chấp ấy, mà sinh ra "ngã
ái", nghĩa là thương yêu, chăm sóc, gìn giữ cái ngã, bất chấp phải trái,
hay dỡ; ngã mạn, nghĩa là ngạo mạn, cho "cái ta" của mình là cao quý,
tốt đẹp hơn bao nhiêu "cái" khác, đối lập với tất cả những gì không
phải là ta hay trái ý với ta.
Do sự chấp ngã ấy mà cuộc sống đáng lẽ
phải rộng rãi vô biên, trường tồn bất diệt, lại bị ngăn cách chia xẻ, giam hãm
trong những cái vỏ cứng là "cái ta" riêng biệt; và người đời, hay nói
rộng hơn, tất cả chúng sinh đều phải sống, chết, quay cuồng, điêu cứng, khổ đau
vì cái ta riêng biệt mà họ tưởng là thuần nhất, bất biến ấy.
Nhưng thật ra, có một cái "Ta"
như thế không? Nếu có, thì cái Ta ấy ở đâu? Trong sáu căn hay trong sáu trần,
hay trong sáu thức? Muốn hiểu rõ vấn đề này một cách tường tận, chung ta phải
quán thân này vô ngã mà phương pháp tu đó là quán Giới phân biệt là một trong
Ngũ đình tâm quán.
B. Chánh Ðề
I. Ðịnh Nghĩa
Quán Giới phân biệt: Giới có ý nghĩa là
giới hạn, là phạm vi phân chia phần này với phần khác, bộ phận này với bộ phận
khác. Chẳng hạn như trong vật chất người ta phân chia ra nhiều loại: loại màu
sắc, loại âm thanh, loại mùi vị v.v... Hay trong con người, các bộ phận tiếp
xúc với ngoại cảnh, như mắt, tai, mũi, lưỡi... là những Giới riêng biệt.
Trong thế giới Ta Bà gồm những vật hữu
hình và vô hình này, mặc dù có thiên hình vạn trạng, nhưng theo triết lý của
đạo Phật, thì có thể chia ra làm mười tám giới (loại, phạm vi). Vận dụng trí
tuệ để quan sát, nhận định từng phạm vi, từng giới một trong mười tám giới ấy,
để xét xem thử có một cái ngã trường tồn bất biến, duy nhất hay không, đó tức
là quán Giới phân biệt.
II Phân giải 18 giới:
Mười tám giới có thể phân ra ba loại lớn:
Sáu căn, sáu trần và sáu thức.
1.
Sáu căn: Căn tức là chỗ
nương tựa, làm gốc cho những cái khác nẩy nở, phát sinh. Sáu căn ở đây tức là:
nhãn căn, nhĩ căn, tỹ căn, thiệt căn, thân căn và ý căn.
a)
Nhãn căn: tức là hai con
mắt, bộ phận để làm chỗ nương tựa cho sự nhận thấy của người được rõ ràng, khi
tiếp xúc với cảnh vật chung quanh.
b)
Nhĩ căn: tức là hai lỗ
tai, bộ phận làm chỗ phát sinh cho sự nghe biết của người được rõ ràng, khi
tiếp xúc với tiếng động ở chung quanh.
c)
Tỹ căn: tức là lỗ mũi, bộ
phận làm chỗ nương tựa cho sự ngửi biết được xác thực, khi tiếp xúc với các mùi
như thơm, thúi ở chung quanh.
d)
Thiệt căn: tức là cái
lưỡi, bộ phận làm chỗ nương tựa của sự nếm biết của người được rõ ràng khi tiếp
xúc với các chất như chua, mặn v.v... ở ngoại cảnh.
đ)
Thân căn: tức là da bao
bọc thân người, bộ phận làm cho nhận biết được cảm giác, nóng, lạnh, cứng, mềm
của các vật chung quanh.
e)
Ý căn: tức là bộ phận để
cho sự phân biệt phát sinh, tức là thức thứ Bảy. Phần này rất tinh tế thuộc về
phần tinh thần. Cho nên không có hình sắc như năm căn trước.
2.
Sáu trần: Trần, nghĩa đen
là bụi. Bụi thì nhơ nhớp luôn luôn dời đổi lăng xăng, tụ tán không chừng. Nghĩa
bóng, trần tức là chỉ cho phần vật chất, cảnh vật chung quanh con ngươi. Sáu
trần là: sắc trần, thanh trần, hương trần, vị trần, xúc trần và pháp trần.
a)
Thanh trần: là sáu sắc,
đường nét hình dáng, những gì mà mắt có thể thấy được.
b)
Thanh trần: là tiếng do
vật hữu hình hay vô hình phát ra, nghĩa là những tiếng mà tai nghe được.
c)
Hương trần: là mùi do vật
hữu hình hay vô hình bốc lên, tỏa ra, vật mà mùi ngửi được.
d)
Vị trần: là chất trong
vật hữu tình hay vô tình, vậy mà lưỡi nếm được.
đ)
Xúc trần: là những thứ
mềm, cứng, trơn, nhám của vật hữu tình hay vô tình, những vật mà thân tiếp xúc
được.
e)
Pháp trần: là những hình
ảnh, màu sắc, hương vị trừu tượng của năm trần lưu lại sau khi đã năm căn
duyên, chính là cảnh bị duyên của ý căn. Màu sắc tiếng tăm, hương vị ở đây
không phải là vật thật của ngoại cảnh mà chỉ là những hình bóng, âm vang của
ngoại cảnh sau khi đã lọt qua năm giác quan, và đang bị ý căn duyên.
3.
Sáu thức: thức là sự phân
biệt, hiểu biết, phán đoán do sáu căn tiếp xúc với sáu trần mà phát sinh. Nó
thuộc về tâm pháp (vô hình). Sáu thức là: nhãn thức, nhĩ thức, tỹ thức, thiệt
thức, thân thức và ý thức.
a)
Nhãn thức: là sự phân
biệt, hiểu biết do nhãn căn tiếp xúc với sắc trần mà phát sinh.
b)
Nhĩ thức: là sự phân biệt
hiểu biết do nhĩ căn tiếp xúc với sắc trần phát sinh.
c)
Tỹ thức: là sự phân biệt
hiểu biết do tỹ căn tiếp xúc với hương trần mà phát sinh.
d)
Thiệt thức: là sự phân
biệt do thiệt căn tiếp xúc với vị trần mà pháp sinh.
đ)
Thân thức: là sự phân
biệt, hiểu biết do thân căn tiếp xúc với xúc trần mà phát sinh.
e)
Ý thức: là sự phân biệt,
hiểu biết, phê phán do ý căn tiếp xúc với pháp trần mà phát sinh.
III. Phương Pháp Quán.
Sau khi chúng ta đã biết được rõ ràng phạm
vi và công năng của mỗi giới trong mười tám giới rồi, đến đây, chúng ta có thể
bắt đầu tập phương pháp quán. Pháp quán này gồm có hai phần: Quán sát sự liên
hệ giữa căn, trần và thức; và quán sát sự giả dối của căn, trần và thức.
1.
Quán sát sự liên hệ giữa căn, trần và thức.
Vẫn biết căn là một nội sắc, nhưng chúng
ta rất quan hệ mật thiết. Căn là phần chủ động, có khả năng duyên được với
trần, còn trần là phần bị động "được duyên" với căn. Nhờ có căn phù
trần và tịnh sắc, nên con người mới có thể nhận biết các cảnh vật chung quanh
trong sự sống hằng ngày.
Nếu không có căn, dĩ nhiên không có thức,
thì con người không phải là con người. Họ không sáng tác, xây dựng, cải cách,
tiến hóa, và thế giới này phải là thế giới "chết", mờ mịt không có ý
nghĩa.
Nếu không có trần, con người cũng không
sống nổi. Ngoại cảnh là trường hoạt động của con người. Nó dạy khôn dạy khéo
cho con người trong cuộc sinh hoạt và làm cho con người có ý thức về cuộc sống
của mình.
Thức lại tác động vào căn và trần làm cho
cuộc sống càng thêm tiến bộ, sung túc thịnh vượng.
Mười tám giới này, như đoạn đầu đã nói,
gồm cả thế giới và nhân sinh, cả vật vô tình và vật hưũ tình. Một khi chúng đã
không tự lập, thì trong vũ trụ này, không có một vật gì, kể cả con người, cả
cái ngã, do chúng cấu tạo ra lại có thể biệt lập, thuần nhất được.
2.
Quán sát sự giả dối của căn, trần và thức.
Phần trên, chúng ta thấy cái ngã không thể do
tổng hợp của căn, trần và thức mà có được một cách thuần nhứt. Ðến đây, chúng
ta sẽ đi sâu vào một tầng nữa, quán sát xem cái ngã có thể có trong một phần
nào của căn, trần và thức năng?
a.
Sáu căn là ngã chăng?
Trước tiên, chúng ta hãy xét bản chất của sáu căn là gì? Chính là một khối
xương da máu thịt, hợp lại có trật tự, có tổ chức, chứ không gì khác. Mà đã là
thịt da, xương máu thì không có gì là bền bỉ, thuần nhất. Từ "khi trắng
răng đến thuở bạc đầu", thử xem con người đã mấy lần thay đổi. Và sau một
trăm năm, thử hỏi thể xác ấy sẽ còn lại gì, ngoài "nắm cỏ khâu xanh
rì"?
Giả sử có một cái ngã ở sáu căn, thì thử
hỏi: Nếu cái ngã ở nơi mắt, thì năm căn kia
không phải là ngã. Nếu cái ngã ở nơi tai, thì năm căn kia không phải là ngã.
Lần lượt xét cả sáu căn, chúng ta không thể nói được cái ngã ở một phần nào
trong sáu căn.
Nếu cho rằng sáu căn đều là ngã, thì thành
ra con người có đến sáu cái ngã. Nói thế chắc không ai công nhận được.
Còn nếu bảo rằng: Do sáu căn hòa hợp mà có
cái ngã, thì với trái với định nghĩa về cái ngã, là thuận nhất, bất biến. vả
lại khi đã cho rằng cái ngã do nhiều thứ hợp lại, thì cũng phải công nhận luôn
là cái ngã ấy là không thật, là giả hợp.
Do đó, Duy thức học bảo "nhân vô
ngã".
b.
Sáu trần là ngã căn? Trần
với căn không khác gì mấy. Căn đã không tự tại trong cuộc sinh tồn, thì trần
làm sao đứng vững, còn hoài.
Giả sử, "ngã" nằm trong sắc, thì
trên thế giới này phải không có sự đổi trắng, thay đen. Như hoa nở rồi tàn, hết
ngày rồi đêm, bãi bể biến thành vườn dâu, cuộc đổi thay đã bày rành rành ra
trước mắt.
Vậy "ngã" nằm trong thanh chăng?
Cũng không có lý. Thanh không bao giờ tự nhiên mà có. Nếu có không do vật hữu
tình phát ra, thì cũng do sự va chạm của những vật vô tình mà có. Như thế,
thanh rõ ràng là một pháp hữu vi, có tạo tác. Mà đã là hữu vi, thì thế nào cũng
vô thường. Vả lại, vật sinh ra nó là sắc kia đã là vô ngã, vô thường, thì nó
không thể nào thường, là ngã được.
Cho đến hương, vị, xúc, pháp cũng đều là
vô thường, vô ngã như sắc, thanh cả. Chúng chỉ như làn gió thoảng qua, như màn
sương phảng phất, đã vô hình lại bất định, nên sự vô ngã của chúng lại càng rõ
rệt hơn sắc, thanh nhiều.
c.
Sáu thức là ngã căn? Như
đoạn trên đã nói, thức là sự nhận biết do căn và trần đối nhau mà có. Ðiều ấy
đã chứng minh rằng thức không thật có. Nói một cách đơn giản thì thức là do căn
và trần đối nhau mà thành, nhưng nếu chia chẽ một cách rốt ráo theo duy thức
học, thì thức sỡ dĩ có được còn là nhờ nhiều nhân duyên khác nữa.
IV. Hiệu Quả của Pháp Quán Giới Phân
Biệt
Pháp quán giới phân biệt có công năng phá
tan cái ngã không còn manh giáp. Cái ngã đã bị tấn công đủ mọi mặt, từ ngoài
vào cho đến tận sào huyệt, và cuối cùng, bị phân tán, chia xẻ, phanh phui cho
đến mảy mún. Từ trước đến nay, cái ngã chấp sỡ dĩ hoành hành được là nhờ núp
vào bóng tối của si mê. Từ nay phán quán giới phân biệt như là một ngọn đèn pha
chiếu sáng cả vòm trời u tối làm cho cái hình bóng giả dối là cái ngã cũng tan
biến như mây khói. Ngã chấp đã không còn, thì ngã ái, ngã mạn cũng không biết
nương tựa vào đâu để tồn tại. Nói một cách khác, phiền não, ác nghiệp, khổ đau,
do ngã chấp mà sanh. Nay ngã chấp đã bị diệt, thì phiền não khổ đau cũng sẽ
hết. Phiền não, khổ hết thì an vui, tự tại.
C. Kết Luận
Chúng ta đã thấy rõ công năng, diệu dụng
và hiệu quả tốt đẹp của pháp Quán giới phân biệt. Nhưng thấy được, mặc dù dã là
quý, mà làm được mới thật là quý hơn. Vậy chúng ta hãy thực tập tu hành phương
pháp này để đoạn trừ bản ngã của của mình để được tự do tự tại giải thoát giác
ngộ.
THÀNH
ĐẠO
I. Nhẫn nhập.
Cách
đây hơn 2500 năm tại xứ Ấn Độ, có bậc vĩ nhân ra đời đó là thái tử Tất Đạt Đa. Cuộc
sống của ngài sống trong nhung lụa, cung vàng điện ngọc nhưng Ngài vẫn luôn ưu
tư trăn trỡ về cuộc sống của mình và mọi người, con người từ đâu sanh ra, chết
rồi đi về đâu. Do những ưu tư ấy mà Ngài quyết định xuất gia tmì đạo.
II. Xuất gia học đạo.
Sau
khi xuất gia học đạo, Ngài đã đi tìm thầy học đạo, Ngài đã học hết các vị thầy
danh tiếng đương thời nhưng Ngài vẫn chưa thoả mãn, vẫn chưa tìm ra chân lý.
Cuối cùng Ngài quyết định tự tu tập một mình hầu mong sớm tìm ra chân lý.
Ngài đã ngồi nhập định 49 ngày đêm dưới
gốc Bồ Ðề. Trong 49 ngày ấy Ngài đã chiến đấu với bọn giặc phiền não ở nội tâm
như tham, sân, si, nghi, mạn... và chiến đấu với giặc Thiên Ma do Ma Vương Ba
Tuần chỉ huy.
Sau khi thắng cả giặc ở nội tâm cả ngoại
cảnh, tâm trí được khai thông, Ngài hốt nhiên đại ngộ.
Trong đêm thứ 49, vào canh hai, Ngài chứng
được quả "Túc Mệnh Minh", thấy rõ được tất cả các kiếp quá khứ của
mình và người trong tam giới. Ðến nữa đêm, Ngài chứng được quả "Thiên Nhãn
Minh", thấy được tất cả bản thể của vũ trụ và nguyên nhân cấu tạo của nó.
Ðến canh tư, Ngài chứng được quả “Lậu tận minh”, diệt trừ hết tất cả vô minh
phiền não.
Từ ngày ấy, Ngài được Ðạo vô thượng, thành
bậc "Chánh Ðẳng Chánh Giác", hiệu là Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngày thành
đạo của Ngài tính theo âm lịch là ngày mồng 8 tháng 12 năm 554 TCN, vào lúc sao mai mọc. Lúc ấy Ngài được 30
tuổi.
III. Ý Nghĩa Cao Cả Trong Sự Xuất Gia Tìm Ðạo Của Ðức Phật.
III. Ý Nghĩa Cao Cả Trong Sự Xuất Gia Tìm Ðạo Của Ðức Phật.
Những chiến sĩ chiến thắng quân địch ở
ngoài chiến trường, thường được ca tụng là anh hùng. Càng chiến thắng được
nhiều quân địch càng được hoan hô là anh hùng cái thế. Nhưng những kẻ anh hùng
cái thế ấy cũng chưa phải là bậc vĩ đại mà chính những người tự hàng phục,
chiến thắng mình mới là vĩ đại nhất. Ðức Phật đã thắng cả ngoại cảnh lẫn nội tâm,
đã thắng được giặc Ma Vương, dục vọng. Ðức Phật thật xứng đáng với danh hiệu
Ðại Hùng Ðại Lực là bậc vĩ đại nhất.
Ngài không phải vì quyền lời riêng mình mà
chiến đấu. Ngài chiến đấu vì tình thương. Mà tình thương ở đây cũng không phải
chỉ nhằm tình thương trong phạm hẹp hòi của gia đình: thương cha mẹ, vợ con,
bạn bè. Tình thương ở đây là tình thương chúng sanh, tất cả cõi đời. Tình
thương ấy nó rộng sâu như trời bể, thiết tha như tình mẹ thương con. Ðức Phật
thật xứng đáng với danh hiệu Ðai Từ Ðại Bi.
Lại tình thương ấy, Ngài đã hoan hỷ lìa bỏ
ngôi báu cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, đàn hay múa đẹp, mùi ngon vị lạ
để sống một đời kham khổ, đạm bạc, thiếu thốn, giữa rừng thiêng nước độc. Một
khi mà rời bỏ thứ mà người đời cho là qúy báu nói trên, Ngài không một phút
giây nào hối tiếc, muốn quay về để hưởng thụ lại. Bằng cớ là Ma Vương đã sai
con gái mình giả làm nàng Gia Du đến kêu gọi van xin Ngài trở về cung, mà Ngài
không một chút bận tâm thối chuyển. Ngài xứng đáng với danh hiệu là Ðại Hỷ Ðại
Xả.
Cho nên ngày nay, mỗi khi xưng tán danh
hiệu Ngài, chúng sanh không thể không suy gẫm cái ý nghĩa sâu sắc và đúng đắn
mà người đời từ xưa đến nay đã tôn xưng Ngài là Ðại Hùng, Ðại Lực, Ðại Từ, Ðại
Bi, Ðại Hỷ, Ðại Xả.
IV. Kết Luận.
Ngày thành đạo của Đức Phật đánh
đấu một lịch sử quan trọng, từ đây đã mở ra một chân trời giác ngộ, giải thoát
cho muôn loài. Chúng ta ngày hôm nay, nhờ có Đức Phật ra đời, xuất gia thành
đao, Ngài đem giáo lý giác ngộ giải thoát đó truyền bá chỉ dạy mà hôm nay chúng
ta mới được thừa hưởng gia tài pháp bảo quí báu này. Vậy chúng ta hãy cố gắng
tu tập và tuyền bá chánh pháp để đền đáp ơn phật.
THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN
I. Dẫn nhập.
Giáo lý
duyên khởi là giáo lý về quy luật nhân duyên. Nhân duyên là gì? Khi cái này có
mặt, cái kia có mặt; khi cái này không có mặt, cái kia không có mặt. Vậy “cái
này được gọi là nhân của cái kia”. Nhân của một pháp là nhân tố quyết định được
sự có mặt của pháp ấy.
II. Định nghĩa.
Trong tương
ưng bộ kinh 2, Đức Phật định nghĩa duyên khởi: “Do vô minh có hành sinh; do
hành có thức sinh; do thức có danh sắc sinh; do danh sắc có lục nhập sinh; do
lục nhập có xúc sinh; do xúc sinh có thọ sanh; do thọ có ái sinh; do ái có thủ
sinh; do thủ có hữu sinh; do hữu có sinh sinh; do sinh có lão tử, sầu, bi, khổ,
ưu, não sinh hay toàn bộ khổ uẫn sinh. Đây gọi là duyên khởi”.
“Do đoạn
diệt tham ái, vô minh một cách hoàn toàn, hành diệt, do hành diệt thức diệt;
... sầu, bi, khổ, ưu, não diệt đó là toàn bộ khổ uẫn diệt. Này các Tỳ Kheo như
vậy là đoạn diệt”.
Như vậy, khi
12 duyên khởi sinh khởi hay đoạn diệt cũng đồng nghĩa sự sanh khởi hay đoạn
diệt của khổ uẫn, đó gọi là duyên khởi.
Trong Tiểu
bộ kinh Như Lai tóm tắc lý duyên khởi như sau:
“Do cái này
có mặt nên cái kia có mặt.
Do cái này
không có mặt nên cái kia không có mặt.
Do cái này
sinh nên cái kia sinh.
Do cái này
diệt nên cái kia diêt”.
III. Nội dung 12 nhân duyên.
1. Vô minh: không hiểu rõ Tứ đế gọi là vô
minh. Cũng có nghĩa là không hiểu rõ duyên khởi vô ngã.
2. Hành: gồm có thân hành, khẩu hành và ý hành.
3. Thức: gồm
nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức.
4. Danh sắc: danh sắc gồm thức, tác ý, thọ,
tưởng và tư (hay thọ tưởng hành thức). Sắc là tứ đại và các pháp từ tứ đại tạo thành.
5. Lục nhập: là sáu nội xứ: nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý. Sáu ngoại xứ
là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
6. Xúc: có sáu xúc là nhãn xúc, nhĩ xúc, tỉ xúc, thiệt xúc, thân
xúc và ý xúc.
7. Thọ: có sáu thọ là thọ do nhãn xúc sanh, thọ do nhĩ xúc sanh,
thọ do tỉ xúc sanh, thọ do thiệt xúc sanh, thọ do thân xúc sanh và thọ do ý xúc
sanh.
8. Ái: gồm có sắc ái, thanh ái, hương ái, vị ái, xúc ái và pháp ái.
9. Thủ: gồm dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ và ngã luận thủ.
10. Hữu: gồm dục hữu, sắc hữu và vô sắc hữu.
11. Sinh: cái gì thuộc về các loài chúng sanh bị sanh, xuất sanh,
giáng sanh, đảo sanh, xuất hiện các uẫn, thành tựu các xứ gọi là sanh.
12. Lão tử: cái gì thuộc các loại chúng sanh bị già, yếu, suy nhược,
răng rụng , tóc bạc, da nhăn, tuổi thọ cao, các căn chín muồi thì gọi là già.
Cái gì thuộc các loại chúng sanh bị từ bỏ, huỷ hoại, tiêu mất, các uẫn tàn rụi,
thân thể vứt bỏ, tử vong thì gọi là chết.
IV. Tu tập 12 nhân duyên.
Đức Phật dạy
lý 12 nhân duyên cho Phật tử tu tập. Người ứng dụng pháp 12 nhân duyên tu tập
được giải thoát , giác ngộ gọi là Duyên giác cao hơn Thanh văn một bậc.
Cách tu tập
theo pháp 12 nhân duyên là quán chiếu để đoạn trừ 12 mắc xích nhân duyên này, hay đoạn trừ một trong 12 mắc xích này thì
toàn bộ 12 nhân duyên cũng cũng lần lần bị đoạn trừ theo.
V. Kết luận.
Giáo lý mười
12 nhân duyên là giáo lý uyên thâm của đạo Phât. Giáo lý này chỉ cho chúng ta
biết sự hình thành và hoại diệt của vũ trụ và chúng sanh, nhất là nói về sự
hiện hữu của chúng sanh. Nếu chúng ta mà thấy rõ được giáo lý này thì chúng ta
đã giác ngộ, trong kinh Đức Phật có nói: “Ai thấy duyên khởi là thấy pháp, ai
thấy pháp là thấy ta”. Vậy chúng ta là Phật tử thì hãy học tập và ứng dụng tu
tập giáo lý này để giải thoát luân hồi khổ đau.
THẬP THIỆN
I. Dẫn nhập.
Thập thiện nghiệp là cội gốc của
tất cả pháp lành của thế gian và xuất thế gian. Người tu hành muốn đời sau được
được làm người giàu có , sung sướng, an lạc thì tu Nhân thừa. Nếu muốn tiến xa
hơn nữa, muốn đời nay được an lạc và đời sau được sanh lên cỏi trời hưởng phước
thì phải tu Thập thiện. Còn những người muốn thoát ra khỏi luân hồi thì tu
Thanh văn thừa, Bồ Tát thừa, Phật thừa, nhưng dù có tu thừa nào đi nữa thì cũng
không thể bỏ qua Nhơn thừa và Thiên thừa vì hai thừa này là căn bản, là nền
móng , là nấc thang để tiến lên những thừa cao hơn. Vì vậy mà nói Thập thiện là
cội gốc pháp lành của thế gian và xuất thế gian.
II. Định nghĩa.
Thập thiện nghiệp là 10 nghiệp lành. Nghiệp là gì? Nghiệp là tiếng người Trung Hoa dịch từ
chữ Phạn Karma mà ra. Nó có nghĩa là tạo tác, hành động. Nghiệp có thể chia ra
ba tánh cách: lành, dữ, hoặc không lành không dữ (vô ký). Lành, theo đạo Phật,
nghĩa là có lợi ích cho chúng sinh trong hiện tại cũng như trong tương lai. Dữ,
nghĩa là có hại cho chúng sinh trong hiện tại cũng như trong tương lai.
III.
Nội dung.
Nhưng nghiệp pháp xuất từ đâu, nghiệp phát
xuất từ ba chổ đó là thân, khẩu và ý mà danh từ Phật học thường nói là Tam
nghiệp. Chính từ ba nghiệp này mà phát xuất ra tất cả các nghiệp thiện ác của
thế gian và xuất thế gian. Sau đây chúng ta tìm hiểu mười nghiệp thiện.
1. Không sát sinh.
Không sát sanh
là không giết thân mạng chúng sanh, trong Luật có câu: “Trên từ Chư Phật thánh
nhân, thầy cùng cha mẹ, dưới đến bò bay máy cựu vi tế côn trùng chỉ có mạng ấy
thì không được giết”. Trong Luật dạy Phật tử giữ giới sát sanh tuyệt đối như
vậy. Tuy nhiên là Phật tử tại gia thọ trì Tam quy Ngũ giới và tu Thập thiện thì
trong giới sát sanh điều quan trọng nhất là chúng ta không được giết người và
những loài động vật lớn như trâu, bò heo , chó, gà, vịt v.v... còn những loài côn
trùng khác thì chúng ta tránh được chừng nào hay chừng đó. Chẳng những không
sát sanh mà ngược lại còn phải phóng sanh cứu mạng.
2. Không trộm cướp.
Không trộm cắp
là không lấy tài vật của cải của người. Trong Luật có câu dạy về giới trộm cắp
như sau: “Vật lớn như vàng bạc châu báu, vật nhỏ như cây kim ngọn cỏ người ta
không cho cũng không được lén lấy”. Vậy không trộm cắp là không được lấy của
cải của người từ vật lớn cho đến những thứ nhỏ như trái cà, trái ớt cũng không
được lấy. Ngược lại người tu thập thiện phải cúng dường, bố thí, giúp đỡ mọi
người.
3. Không tà dâm.
Không tà dâm nghĩa là cuộc sống gia đình
tinh khiết, không lang chạ làm mất hạnh phúc gia đình mình và người. Người giữ
tu tập thập thiện còn khuyến khích mọi người không tà dâm để gia đình, xã hội
được bình an.
4. Không nói dối.
Không nói dối
nghĩa là không nói dối trá, chuyện không nói có, chuyện có nói không mà phải
nói lời chân thật, nói đúng sự thật.
5. Không nói thiêu dệt.
Không nói thiêu
dệt nghĩa là không nói thêm nói bớt, không nói lời nịnh hót hay lời nói sáo ngữ
mà phải luôn luôn nói sự thật, có sao nói vậy không thêm bớt.
6. Không nói lưỡi hai chiều.
Nói lưỡi hai
chiều là nói hàng hai, lại người này nói
thế này, lại người kia nói thế khác làm mất sự hòa hợp của mọi người. Nay không
nói hai chiều mà ngược lại phải nói lời tốt đẹp đối với mọi người để tạo sự hoà
hợp, tin tưởng lẫn nhau trong tập thể, gai đình và xã hội.
7. Không nói lời hung ác.
Nói hung ác là
nói những lời khó nghe, những lời cộc cằn thô lỗ, nói những lời giết mắng mạ
luỵ người. Nay không nói những lời ấy mà nói những lời tốt đẹp, nói lời nói dễ
nghe, lời nói ngọt ngào, êm dịu.
8. Không tham lam.
Không tham lam
nghĩa là không tham lam những thứ không chính đáng như tham lam của cải của
người, ham muốn tài sắc danh lợi thái quá. Ngược lại người tu thập thiện phải
biết thiểu dục, tri túc để cho thân tâm được thanh tịnh, thanh khiết.
9. Không giận hờn.
Giận hờn là một
thứ phiền não hay đốt cháy công đức của người tu, nay không giận hờn nghĩa là
phải thường xuyên nhẫn nhục, vui vẻ, tha thứ, không cố chấp, tâm luôn luôn vui
vẻ hỉ xã.
10. Không si mê.
Si mê là không
hiểu giáo lý Phật pháp như không hiểu giáo lý Nhân quả, Tứ đế, Duyên khởi
v.v..., vì vậy sống trong mê lầm, điên đảo. Nay muốn thoát khỏi si mê thì phải học
tập Phật pháp để thấy được chân lý hầu phá sự si mê của mình từ vô thỉ đến nay.
Vậy không si mê nghĩa là không mê lầm điên đảo mà sáng suốt luôn sống trong
chánh kiến.
III. Lợi ích của mười điều thiên.
Mười điều thiện
có lợi ích rất lớn, nó giúp cho con người thoát khỏi tam đồ ác đạo. Mười điều
thiện nó làm cho gia đình, xã hội được bình an, hạnh phúc. Mười điều thiện làm
tăng trưởng cõi trời và là nền tảng cho con đường giải thoát giác ngộ.
III. Kết luận.
Thập thiện là pháp
tu căn bản của Phật giáo, dù người tại gia hay xuất gia gì cũng thực hành pháp
này. Người Phật tử tại gia tu pháp thập thiện để mong cuộc đời hiện tại an lạc,
tương lai được sanh lên cỏi trời. Người xuất gia tuy tu nhân giải thoát ra ba
cỏi nhưng cũng không thể không tu thập thiện, vì pháp này là nền tảng, căn bản
để tiến lên những pháp cao hơn. Vậy chúng ta hãy ứng dụng, tu tập pháp này để
được an lạc cho mình và cho người trong hiện tại và tương lai.
VÔ THƯỜNG
I.
Định nghĩa.
Vô thường tiếng Phạn là Anityala, một
từ ngữ Phật học chỉ cho sự dời đổi liên tục bất tận của muôn pháp trong thực
tại vạn hữu. Vô thường nghĩa là không thường hằng, không cố định bất biến. Vạn
pháp quanh ta luôn tồn tại trong trạng thái động, luôn thay đổi biến thiên theo
thời gian chung quy qua bốn gian đoạn: thành (sự xuất hiện của một pháp hay gọi
là sanh), trụ (sự tồn tại ổn định tương đối), hoại (sự biến đổi rõ rệt theo
hướng tan rã còn gọi là dị), không (sự biến mất của một pháp hay hoàn toàn biến
thành pháp khác gọi là diêt).
II.
Phân tích.
Tất cả các pháp có hình tướng, có phát
sanh thì đều vô thường, chung quy biểu hiện qua ba lĩnh vực: con người, xã hội,
thiên nhiên.
1.
Con người vô thường.
a.
Thân vô thường.
Có được gọi là tuổi thọ của một cái
thể sống (hữu tình) là một khoảng thời gian có thể chịu sự chi phối của bốn
giai đoạn sinh, trụ, dị, diệt. Tính chất ấy được cụ thể hoá bằng sanh, lão,
bệnh, tử; cũng là thuộc tính của thân tứ đại. Về không gian sự thay đổi không
những hiện rõ ở dạng vĩ mô như toàn thân mà còn tiềm ẩn ở dạng vi mô, như trong
tế bào về thời gian cơ thể biến đổi theo từng sát na.
b.
Tâm vô thường.
Cái được gọi là tâm (về mặt hiện
tượng) là một tập hợp tương tục gồm vô vàn niệm niệm sanh diệt như: hĩ, nộ, ái,
lạc v.v... Mỗi niệm tương ứng với một trạng thái của tâm, tâm biến đổi theo
từng sát na, và ý nghiệp cũng hình thành từ sự dấy khởi của niệm đúng như câu
(tâm vương ý mã).
2.
Xã hội vô thường.
Xã hội là những quần thể cộng đồng
nhiều người chung sống, sinh hoạt theo những quy chuẩn nhất định nào đó. Theo
cách đánh giá tương đối người ta chia ra; xã hội sơ khai, bán khai và văn minh.
Nhìn chung sự vận động của xã hội loài người cũng là sự thể hiện chung của quy
luật vô thường. Ví dụ cái tiến bộ thay cái lạc hậu, sự thông minh thay thế tính
dã man.
3.
Thiên nhiên vô thường.
Vũ trụ tồn tại quanh ta cũng là một
thực thể luôn biến động: sự chuyển động của các thiên hà, các hệ tinh tú, sự
tan rã và hình thành của các vị sao cho đến sự chuyển động của nguyên, phân tử,
điện tử v.v... Bên trong của mỗi sự vật hoặc gần giũ chúng ta như tứ thời bát
tiết, hoa nỡ rồi tàn.
II.
Ý nghĩa thực tiễn của giáo lý vô thường.
1.
Tính biện chứng khoa học.
Giáo lý vô thường chỉ ra một cái nhìn
khách quan về quy luật của muôn pháp, đó là của sự vật đang tồn tại động chứ
không tỉnh. Hơn nữa vô thường không có nghĩa là đoạn (mất đi) mà chỉ là sự biến
đổi từ dạng thức này sang dạng thức khác của sự vật.
2.
Tính thực tiễn trong đời sống tu tập.
- Tuệ tri được thiên nhiên và đời sống
vô thường để cải thiện thiên nhiên, môi trường theo hướng tích cực, xây dựng
đời sống thanh thoát và góp phần phồn vinh cho xã hội.
- Tuệ tri được thân vô thường để tu
tập để tu tập đến chổ không chấp thân ta, thân người, từng bước thể nhận vô ngã
tính.
- Tuệ tri được tâm vô thường để điều
phục tâm, thanh lọc tâm, thành tựu được định học và tuệ học.
- Tuệ tri được vạn pháp vô thường để
khỏi chấp thường, chấp đoạn biết tôn quý thời gian quyết tâm tu tập đạt cảnh
giới chơn thường bất sanh, bất diệt.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét