A. Dẫn nhập
Kinh, Luật, Luận là ba kho tàng quý
báu mà đạo Phật cống hiến cho cuộc đời, cho chúng sanh. Nhờ ba kho tàng này mà
chúng ta biết đâu là đường thiện nẻo ác, biết được chân ngụy của cuộc đời vũ
trụ, biết được đau khổ hạnh phúc, biết được tà kiến chánh kiến. Ba kho tàng này
là con đường thánh thiện tối thượng đưa chúng sanh từ nẻo mê đến bờ giác ngộ, từ
biển khổ đến cảnh giới Niết Bàn an lạc.
Trong ba kho
tàng này, Kinh là những lời dạy của đức Phật nói về giáo lý, phương pháp tu
hành để đoạn mê khai ngộ. Luật là những lời dạy của đức Phật nói về qui tắc, giới
luật cho Phật tử giữ gìn để tránh ác làm lành. Luận là những lời phân tích, giảng
giải về kinh, về luật làm cho nghĩa lý của kinh, luật được sáng tỏ , dễ hiểu hơn.
Những lời giảng giải, phân tích này được kết tập lại gọi là Luận. Luận cũng là
những lời đức Phật dạy, nhưng phần nhiều, đa số là những lời giảng giải, chú
thích của chư Bồ Tát, chư A La Hán, chư vị Tổ Sư.
Luận được
phát triễn nhiều từ sau khi đức Phật nhập Niết Bàn, nhất là từ khi phân chia bộ
phái. Trong các bộ phái, các vị cao Tăng đều viết luận để giải thích kinh, luật
theo quan điểm của bộ phái mình, vì vậy mà làm cho tạng Luận ngày một phong
phú, đa dạng.
Trong các bộ
phái Đại thừa, các vị luận sư nổi tiếng, chói trong việc tạo luận để xiển dương
giáo lý Đại thừa như ngài Mã Minh, Long Thọ, Vô Trước, Thế Thân v v. Đặc biệt
người có công lớn trong việc tạo luận để xiển dương giáo lý Đại thừa là ngài
Long Thọ. Ngài là người làm cho giáo lý Đại thừa phát triễn rực rỡ, chói lọi. Những
bộ luận của ngài viết nổi tiếng như Đại trí độ luận, Trung quán luận v v. Trong
đó Trung quán luận là bộ luận nổi tiếng nhất. Trung quán luận là một bộ luận
được ngài khai triễn sâu sắc, tột cùng về
tánh Không. Trong Trung quán luận, ngài đưa ra những phạm trù đối đãi rồi dùng
lý luận, dùng biện chứng pháp phủ định của phủ định để phủ định nó. Những cặp
phạm trù ngài đưa ra đó là: “Bát bất” bốn cặp phạm trù này khái quát, bao quát
chung cho sự phá chấp cả các pháp. Bát bất gồm có:
Chữ hán:
不生亦不滅
不常亦不斷
不一亦不異
不來亦不出
Âm:
Bất sanh diệc bất diệt
Bất thường diệc bất đoạn
Bất nhất diệc bất dị
Bất lai diệc bất xuất.
Nghĩa:
Chẳng sanh cũng chẳng diệt
Chẳng thường cũng chẳng đoạn
Chẳng một cũng chẳng khác
Chẳng đến cũng chẳng đi.
Bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu, minh giải
biện chứng pháp trên lập trường của ngài Long Thọ xuyên qua Bát bất này.
B. Nội dung.
I. Lịch sử, nhân duyên và khái quát
nội dung tư tưởng , triết lý Trung quán luận.
1. Lịch sử ngài Long Thọ.
Ngài sinh
vào khoảng năm 150-250 TCN, người nước
Nam Thiên Trúc Ấn Độ, dòng Bà la môn. Từ nhỏ ngài đã thông minh đỉnh ngộ, ngài
thông thạo bốn bộ Vệ đà và nhiều lĩnh vực khác như: triết học, văn học, thiên
văn, địa lý, tôn giáo v v.
Sớm giác ngộ
cuộc đời là vô thường ảo mộng, ái dục là nguồn gốc của đau khổ, luân hồi nên
ngài bỏ đạo Bà la môn quy y theo Phật và phát tâm xuất gia học đạo. Sau khi xuất gia ngài chuyên tâm nghiên cứu
kinh điễn và tin tấn tu học. Vì vậy mà kiến thức của ngài uyên thâm, đạo hạnh cũng
cao vòi vọi khiến mọi người đương thời ngưỡng mộ. Ngài đã triệt ngộ Tâm ấn của
chư Phật nên đã được truyền y bát làm Tổ Sư Thiền trong ba ba vị Tổ Thiền Tông
Ấn Hoa.
Ngài rất có
duyên với loài rồng, ngài được long vương thỉnh vào long cung cúng dường. Theo
truyền thuyết kể rằng, thời bấy giờ kinh điễn Đại thừa bị thất lạc rất nhiều,
chỉ có ở trong long cung còn bảo tồn đầy đủ. Vì vậy, khi vào long cung ngài xin
long vương cho ngài tham khảo kinh điễn ở đây, long vương hoan hỉ theo the sự
yêu cầu của ngài của ngài. Sau khi tham khảo kinh diễn ở đây, ngài dùng tâm lực
học thuộc nhiều bộ kinh sau đó đem về truyền lại ở thế gian, chính kinh Hoa
nghiêm là do ngài đem từ long cung về.
Ngài thường ngồi thuyết pháp dưới
gốc cây to, mỗi lần thuyết pháp có cả năm trăm người nghe. Ngài có duyên với loài rồng và thường ngồi
thuyết pháp dưới gốc cây cho hội chúng nên người đời gọi ngài là Long Thọ ( Nàgàrjuna
).
Ngài là người có công lớn trong
việc xiển dương, hoằng hoá giáo lý Đại thừa làm cho Phật giáo Đại thừa phát
triễn ngày một lớn mạnh. Ngài trước tác rất nhiều bộ luận về Đại thừa như Thập
nhị môn luận, Hồi tránh luận, Đại trí độ luận v v. Đặc biệt có một bộ luận nổi
tiếng mà sau này truyền qua Trung Hoa nó làm yếu chỉ, nền tảng cho một tông
phái đó là bộ Trung quán luận.
2. Nhân duyên tạo luận.
Thời ngài
Long Thọ cách đức Phật đã mấy trăm năm, thời này người tu hành càng ngày càng
ít, đa số người tu hành đều chấp hình tướng, chấp hình thức. Hơn nữa, lúc này
các bộ phái xuất hiện rất nhiều, mỗi bộ phái giải thích kinh điễn, giáo lý mỗi
cách mỗi khác, thậm chí có bộ phái đi quá xa ngoài giáo lý. Nhìn thấy thảm cảnh
đó, nên ngài soạn thuật nhiều bộ luận để chỉnh đốn, đã phá những quan niện sai
lầm từ trong Phật giáo cho đến các trường phái triết học đương thời. Mặt khác,
ngài là người cực lực xiển dương giáo lý Đai thừa, nên ngài soạn thuật những bộ
luận này để làm sáng tỏ triết lý, tư tưởng Đại thừa làm cho Phật giáo Đại thừa
phát triễn ngày một lớn mạnh. Do những điều kiện, những nhân duyên này mà các
bộ luận nổi tiếng của ngài lần lượt ra đời như Đại trí độ luận, Thập nhị môn
luận, Trung quán luận v v. Trong đó, bộ Trung quán luận nổi tiếng nhất. Bộ luận
này sau được truyền qua Trung Hoa, và nhiều nước theo Phật giáo Đại thừa. Ngày
nay, bộ luận ngày được dịch ra nhiều loại ngôn ngữ và được truyền đi nhiều nước
trên thế giới.
3. Toát yếu nội dung, triết lý, tư
tưởng của Trung quán luận.
Toàn bộ Trung quán luận có bốn trăm
bốn mươi sáu bài kệ, mỗi bài bốn câu, mỗi câu năm chữ, được chia thành hai mươi
bảy phẩm, bắt đầu từ phẩm Quán nhân duyên cho đến phẩm cuối cùng là Quán Niết
Bàn. Trong mỗi phẩm ngài đưa ra một pháp rồi dùng lối phủ định của phủ định để
phá sự chấp sai lầm của mọi người về pháp đó. Sau khi đã phá những kiến chấp
sai lầm về các pháp, ngài chỉ cho mọi người một cái nhìn, cái thấy đúng với các
pháp như là đó là Trung đạo, Trung đạo theo Trung quán luận là tri kiến vượt ra
ngoài nhị nguyên, vượt ra ngoài phân biệt đối đãi, vượt ra ngoài những chấp
trước như chấp có, chấp không, chấp thường, chấp đoạn v v. Chỉ cái nhìn, cái
thấy này, cái tri kiến này là đúng, là chân lý còn ngược lại là tà kiến sai
lầm.
4. Triết lý, tư tưởng của Trung quán luận.
Triết lý, tư tưởng của Trung quán
luận là triết lý, tư tưởng về Tánh không, về trí tuệ Bát nhã. Tánh không là chỉ
cho tự tánh của các pháp, tự tánh này nó không sanh, không diệt, không có ,
không không, nếu chúng ta còn ở trong nhị nguyên, đối đãi, chấp trước mà nhìn
nó là sai, không đúng. Tuy nó là không có, không không nhưng nó hay sanh muôn
pháp, vì vậy mà trong kinh Bát nhã có câu nói về diệu dụng của tánh này là:
“Chơn không diệu hữu”.
Trí tuệ Bát nhã là chỉ cho trí tuệ
chân thật, cứu cánh, trí tuệ thấy các pháp đúng như thật. Trong luận Trung quán
hai chữ Trung quán là chỉ cho trí tuệ này. Chữ trung là ở giữa, chữ quán là
nhìn, quán chiếu, quan sát. Vậy trung quán là cái nhìn, cái thấy ở giữa, nghĩa
là cái thấy không bị nhín mắc ở hai bên, cái nhìn vượt ra ngoài nhị nguyên,
ngoài những đối đãi phân biệt, cái nhìn, cái thấy vượt ra ngoài phạm trù có,
không, đoạn, thường v v. Cái nhìn, cái thấy này chính là trí tuệ Bát nhã.
Triết lý, Tư tưởng Tánh không, trí
tuệ Bát nhã chính là trọng tâm triết lý, tư tưởng của Trung quán luận. Trong
Trung quán luận, thông qua triết lý, tư tưởng này ngài đã phá những quan niệm,
những cái nhìn, cái thấy sai lầm cố chấp của các trường phái triết học đương
thời, và ngay cả trong các trường phái Phật giáo nhằm đưa họ về trí huệ chân
thật.
II. Biện chứng pháp của ngài Long Thọ xuyên qua Bát
bất trong Trung quán luận.
Như chúng ta đã nói ở trên, triết
lý, tư tưởng của ngài Long Thọ trong Trung quán luận đó là triết lý, tư tưởng
Tánh không, trí tuệ Bát nhã. Vậy biện chứng pháp của ngài trong Trung quán luận
là biện chứng pháp “Phủ định của phủ định”, thông qua pháp Không và trí tuệ Bát
nhã, ngài phủ định tất cả từ pháp thế gian cho đế pháp xuất thế gian. Ngay như
Niết Bàn là chổ hằng mơ ước của mọi người tu hành mà ngài còn phủ định . Nhưng
chúng ta phải hiểu, không phải ngài phủ định tất cả để tất cả trỡ thành hư vô,
mà mục đích chủ yếu của ngài là phá chấp cho chúng ta, như Niết Bàn mà ta còn
chấp, còn kẹt vào đó thì chúng ta sẽ không được giải thoát huống hồ là những
pháp khác. Hiểu được như vậy chúng ta mới hiểu được biện chứng pháp của ngài Long
Thọ. Bây giờ chúng ta lần lược tìm hiểu, minh giải biện chứng pháp của ngài
xuyên qua Bát bất trong Trung quán luận.
1. Biện chứng trong cặp song đối thứ nhất.
Trong Bát bất có bốn cặp song đối, nằm
trong phẩm Quán nhân duyên, bốn cặp này bao hàm hết tất cả pháp thế gian và
xuất thế gian. Bây giờ chúng ta tìm hiểu biện chứng pháp trong cặp song đối thứ
nhất:
Chữ Hán:
不生亦不滅
Âm:
Bất sanh diệc bất diệt.
Nghĩa:
Chẳng sanh cũng chẳng diệt.
Ở thế gian, trong các triết học,
các tôn giáo có rất nhiều thuyết khác nhau nói về sự hình thành và hoại diệt của
vũ trụ, con người. Có thuyết nói vũ trụ, con người do trời Đại tự tại sinh,
hoặc đức chúa trời sinh, từ loài động vật sinh, từ đất, nước sinh v v. Theo quan
điểm của Phật giáo thì các pháp là do nhân duyên mà sinh và cũng do nhân duyên
mà diệt. Vậy mà bây giờ, ngài Long Thọ lại nói các pháp không sanh cũng không
diệt, chúng ta thấy ngài nói mâu thuẫn với giáo lý, vậy câu nói này của ngài có
đúng không, chúng ta sẽ đi sâu vào tìm hiểu vấn đề mà ngài đã nói.
Các tôn giáo hay các trường phái
triết học khác cho các pháp là do nhất thần sinh, hoặc đa thần sinh, hoặc vô
nhân sinh hay đa nhân sinh, hoặc là
nguyên tử, nguyên tố, hay một vật chất nào đó sinh. Những quan điểm này hoàn toàn
sai lầm, theo đạo phật các pháp không do một vị thần nào sinh cả, không có một
vị thần hay một đức chúa trời nào sản sinh, hủy diệt hay ban phước giáng họa
nào cả. Theo Phật giáo các pháp là do các nhân duyên hoà hợp mà sinh. Ví dụ như
cây lúa, muốn có cây lúa thì phải có giống để gieo, có đất để trồng, có nước để
tưới, có ánh sáng và còn rất nhiều nhân
duyên khác mới có cây lúa.
Ngài Long Thọ thị nói các pháp
không sanh cũng không diệt, vậy đều này có đúng không. Trong Phật giáo , nói
các pháp do nhân duyên sinh, là nói ở mặt hiện tượng, còn ở mặt bản thể nó
không sanh, không diệt. Trong những bộ kinh Đại thừa, trong giáo ký viên đốn
đức Phật thường nói các pháp không sanh cũng không diệt. Chúng ta thấy trong
Bát nhã tâm kinh đã nói rõ đều này, trong bài Bát nhã tâm kinh có những câu:
“ngũ uẩn giai không... bất sanh bất diệt v v”. Các pháp ở mặt hiện tượng thì có
sanh có diệt, còn ở mặt bản thể thì không sanh, không diêt. Vậy câu nói của
ngài hoàn toàn đúng.
Ngài nói các pháp không sanh, không
diệt, nói như vậy là hoàn toàn đúng với chân lý, với sự thật, đúng với bản thể
của các pháp. Ví dụ như đám mây, chúng ta phân tích vào bản tính của nó thì sẽ
thấy nó không sanh, không diệt. Về mặt hiện tượng thì ta thấy đám mây có sanh,
có diệt. Khi trời trong sáng chợt có mây gọi là mây sinh. Khi trời mưa to, mây
tan thành nước gọi là mây diệt. Cái thấy sanh diệt này là cái thấy, cái nhìn ở
mặt hiện tượng, cái nhìn này, nếu xét về mặt thể tánh thì nó hoàn toàn không
đúng.
Bây giờ chúng ta nhìn đám mấy ở mặt
thể tánh thì đám mây chưa từng sanh, chưa từng diệt. Cái gì từ không trỡ thành
có mới gọi là sanh, có rồi diệt mất không còn nữa thì mới gọi là diệt. Còn đám
mây, nếu nhìn cho thấu thì ta sẽ thấy nó không sanh. Sỡ dĩ đám mây có là do hơi
nước bốc lên, gặp khí lạnh ngưng tụ lại thành mây, vậy mây đâu có sanh, nó có
là do hơi nước chuyển thành. Khi mây tan, mây cũng không diệt, mây lúc này nó
chuyển thành nước mưa xuống chứa vào ao, hồ, sông, biển, vậy đám mây cũng không
diệt.
Ngài Long Thọ đưa ra tư tưởng tánh
Không này là để phá những giáo thuyết nhìn nhận sai lầm về nguồn gốc vũ trụ,
con người. Tư tưởng này, còn đã phá luôn những trường phái Phật giáo còn chấp
tướng. Biện chứng pháp của ngài là dùng phương pháp phủ định của phủ định để
phá những tà chấp có, không v v. Sau đây chúng ta sẽ thấy một đoạn lý luận của
ngài về tính không sanh, không diệt trong luận Trung quán: “ Lại nữa, vạn vật
không có sinh, vì sao? Vì thế gian hiện thấy. Thế gian chính mắt thấy kiếp ban
sơ lúa chẳng sinh, vì sao? Vì lìa ngoài lúa trong kiếp ban sơ thời lúa hiện nay
không thể có được. Nếu lìa lúa trong kiếp ban sơ mà có lúa hiện nay mới gọi là
có sinh ra, song kỳ thật không như vậy. Thế nên chẳng sinh.
Hỏi: Nếu chẳng sinh thời có diệt?
Đáp: Chẳng diệt, vì cớ sao? Vì thế
gian hiện thấy. Thế gian chính mắt thấy trong kiếp ban sơ lúa chẳng diệt, nếu
diệt thời nay không thể có lúa, song kỳ thật có lúa. Thế nên chẳng diệt”.1
Đoạn này,
ngài đưa cây lúa ra để chứng minh và giải thích cho lập luận, tư tưởng tánh
không là các pháp không sanh, không diệt. Từ ví dụ đám mây chúng ta đã nói ở
trên, chúng ta cũng dễ hiểu ý nói về cây lúa không sanh, không diệt. Cũng như
đám mây, nó chỉ biến dạng, chuyển hình mà thôi, từ nước chuyển thành hơi, từ
hơi chuyển thành mây, từ mây chuyển thành mưa, cứ như thế rồi tuần hoàn liên
tục chứ đám mây không bao giờ sanh và cũng không bao giờ diệt. Cây lúa cũng vậy,
nó cũng tuần hoàn biến dạng mà thôi. Từ cây lúa chuyển thành hạt lúa, từ hạt
lúa nảy mầm lại trỡ thành cây lúa, rồi từ cây lúa lại chuyển thành hạt lúa, cây
lúa chỉ tuần hoàn, biến dạng chứ nó không sanh, không diệt.
Cặp bát bất
song đối thứ nhất trong phẩm Quán nhân duyên này cũng tương tự đến hai phẩm trong Trung quán đó là phẩm Quán
hữu vô và Quán thành hoại. Hai phẩm này, một phẩm nói về sự có, không của các
pháp. Một phẩm nói sự thành, hoại của các pháp. Cũng như câu bất sanh diệc bất
diệt của phẩm nhân duyên là nói đến sự sanh diệt của các pháp. Trong ba phẩm
này, phẩm nào cũng đều nói chung cho các pháp, nhưng mỗi phẩm phá các pháp ở những
khía cạnh khác nhau. Phẩm nhân duyên thì ngài nói các pháp không sanh, không
diệt. Còn hai phẩm kia thì ngài nói các pháp không có, không không, không thành,
không hoại, nghĩa là các pháp nó không sanh, không diệt, không có, không không,
không thành, không hoại.
Sau đây là một đoạn lý luận của
ngài phá về chấp có, chấp không trong phẩm Quán hữu vô: “Quyết định là có thời
là chấp thường; quyết định là không thời là chấp đoạn, thế nên người có trí
không nên chấp có và không”.2 Trong
đoạn lý luận này, chúng ta thấy ngài nói nếu ai mà chấp có và không thì sẽ rơi
vào thường kiến và đoạn kiến, vì vậy mà không nên chấp có và không.
Các pháp nó đã không sanh, không
diệt, không có, không không thì làm gì có thành, có hoại. Sau đây chúng ta nghe
ngài lý luận về sự thành hoại của các pháp: “ Nếu pháp thể tính không, thời cái
gì có thành hoại, nếu pháp thể tính chẳng không, cũng không có thành hoại”.3 Đoạn lý luận này chúng ta dễ hiểu, vì
thể tính các pháp là không nên không có gì là thành, là hoại.
Nói chung, các pháp do nhân duyên
sinh khởi như huyễn như hoá. Khi nhân duyên hoà hợp có tướng như huyễn như hoá
hiện ra, gọi là có, là sinh, là thành. Khi nhân duyên ly tán, tướng như huyễn
như hoá chia lìa gọi là hoại, là diệt, là không. Các pháp sanh trụ dị diệt chỉ
là mặt hiện tượng như huyễn như hoá mà thôi, còn về mặt bản thể, tự tính của
các pháp thì nó như như không có gì là sanh diệt, có không, thành hoại, nếu ai
không thấy được lý này là còn vô minh tà kiến.
2. Biện chứng trong cặp song đối bát bất thứ hai.
Chữ Hán:
不常亦不斷
Âm:
Bất thường diệc bất đoạn.
Nghĩa:
Chẳng thường cũng chẳng đoạn.
Hai câu này ngài phá về chấp thường
và chấp đoạn, thường là thường còn, đoạn là hết. Trong các tôn giáo, các trường
phái triết học của Ấn Độ có phái chấp thế giới, muôn loài là thường còn, là bất
biến. Con người sau khi chết tái sanh trỡ lại làm người, loài thú chết tái sanh
trỡ lại làm thú. Cái chấp của họ ở đây là chấp người thì mãi mãi là người, thú
thì mãi mài là thú, các loại khác cũng vậy. Vì có kiến chấp sai lầm như vậy nên
họ không có tinh thần cầu tiến, vì có tu hành, khổ hạnh bao nhiêu ta cũng không
bao giờ làm thánh. Ngược lại, họ cũng không sợ tội, vì có làm tội bao nhiêu ta
cũng không bị đọa vì ta thì mãi mãi là ta. Lại có phái cho bản ngã, thần ngã là
thường trụ, bất hoại, con người là một tiểu ngã sau khi chết sẽ nhập vào đại
ngã , vào đấng tối cao, vào Phạm thiên v v, như kiến chấp của đạo Bà la môn.
Ngược lại những phái trên có nhiều trường
phái, tôn giáo chấp đoạn, họ cho con người, muôn loài sau khi chết rồi là hết,
vũ trụ sẽ có ngày tận thế không còn. Những trường phái, tôn giáo có kiến giải
như vậy rất nguy hiểm. Họ làm cho con người không còn tin nhân quả, tội phước,
không tin thiện ác báo ứng, không tin Phật thánh, không biết ân nghĩa cha mẹ
thầy trò. Họ sống và hướng dẫn tín đồ sống tha hồ thọ hưởng ngũ dục, nếu không
hưởng thì uổng vì sau khi chết ta chẳng còn gì nên ta sống được ngày nào thì
phải tận hưởng ngày đó.
Do thế gian có những kiến chấp sai
lầm như thế, nên ngài mới đưa ra biện chứng pháp phủ định của phủ định để phá
những kiến chấp sai lầm này, làm cho họ nhận biết được sai lầm để hướng về chánh
đạo.
Theo chủ trương của Phật giáo thì
không chấp thường và chấp đoạn. Phật giáo nói con người và loài vật có một thần
thức, thần thức này nó tuỳ theo nghiệp thọ báo, người có thể trỡ lại làm thú,
thú có thể trỡ lại làm người, thần thức này nó “hằng mà chuyển” hằng là không
mất, chuyển là chuyển biến tuỳ theo nghiệp.
Theo quan niệm của ngài Long Thọ, ở
đây ngài giải thích theo chân lý tuyệt đối, vược ra ngoài thế giới nhị nguyên
đối đãi. Chân lý tuyệt đối ở đây là lý tính của các pháp. Như bát bất thứ nhất,
về mặt hiện tượng thì chúng ta thấy có sanh, có diệt còn nhìn về mặt thực thể, bản tánh thì không sanh,
không diệt. Ở đây cũng vậy, bản tánh, thực thể của các pháp nó như như không
sanh, không diệt, không thường, không đoạn. Như ví dụ đám mây mà ta đã dẫn, khi
chúng ta thấy đám mây bay mãi trên bầu trời ta nói là thường, khi mây tan ta
nói là diệt, là đoạn chứ thực thì đám mây không có sanh, diệt, thường, đoạn bao
giờ đâu, đám mây chỉ thay hình đổi dạng từ trạng thái này qua trạng thái khác
mà thôi. Nếu chúng ta nhìn vạn vật ở mặt hiện tượng mà không thấy ở mặt bản thể
là chúng ta vô minh, tà kiến. Ở đây, ngài Long Thọ vén bức màng vô minh, tà
kiến cho chúng ta để cho chúng ta thấy được chân tướng sự thật của các pháp. Vì
vậy mà ngài nói các pháp không thường, không đoạn.
3. Biện chứng pháp trong cặp song đối bát bất thứ ba.
Chữ Hán:
不一亦不異
Âm:
Bất nhất diệc bất dị.
Nghĩa:
Chẳng một cũng chẳng khác.
Cặp song đối thứ ba này ngài phá
chấp về số lượng. Trong các trường phái triết học, có phái chủ trương về số
luận, họ phân chia ra nhiều loại số, số một là con số nhỏ nhất và cứ như vậy mà
tính lên cho đến con số không còn tính được nữa gọi là số lớn nhất, rồi họ chấp
cho phép tính của họ là hay, là tối thượng. Có phái còn đi xa hơn nữa, cho rằng
vũ trụ, vạn hữu là do những con số tạo thành. Trong Phật giáo cũng không ít
người chấp về nhiều, ít, có một số người tu hành làm được một ít công đức, họ
cho như vậy là nhiều rồi tự cao, tự đại khinh chê những người làm ít công đức
hay không có công đức. Vua Lương Võ Đế là một trong những trường hợp này, vua
làm rất nhiều Phật sự như cất chùa, độ
Tăng, cúng dường bố thí v v. Khi vua gặp Tổ Bồ Đề Đạt Ma, vua đem bản ngã tự
cao cho mình có nhiều công đức để hỏi Tổ, liền bị Tổ đốn cho một câu là không
có công đức.
Do thế gian có những kiến chấp này mà ngài đưa
ra tư tưởng tánh không, ngài phủ định tất cả nào sanh diệt, đoạn thường và bây
giờ ngài phá số lượng. Con số là do thế gian đặt ra để phân biệt như đối với
một là hai, đối với hai là ba, một hai ba cho là ít, ngàn , vạn, tỉ cho là
nhiều. Thế gian đặt ra những con số này rồi chấp vào nó cho là ít, là nhiều rồi
sinh ra hơn thua phải trái tranh giành với nhau, gây đau khổ cho nhau.
Bây giờ, ngài đưa ra tư tưởng này
để phá những chấp trước ấy. Tư tưởng này vừa phá những kiến chấp sai lầm của
các trường phái số luận của triết học
vừa phá những so sánh sự hơn thua tranh giành nhiều ít của thế gian. Chân lý
tuyệt đối của Phật giáo thì không có nhiều ít, cao thấp. Trong kinh Hoa nghiêm
thường nói một là tất cả, tất cả là một. Ngài Long Thọ cũng lấy tư tưởng, triết
lý tuyệt đối ấy để chá chấp những quan niệm sai lầm này. Cũng giống như những lý
luận phá chấp của những cặp phạm trù sanh diệt, đoạn thường ở trên. Chúng ta
nhìn các pháp ở mặt bản thể, ở mặt tự tính của nó thì làm gì có một và nhiều,
các pháp đã không sanh, không diệt, không thường, không đoạn thì con số cũng
chẳng có.
4. Biện chứng pháp trong cặp song đối thứ tư.
Chữ Hán:
不來亦不出
Âm:
Bất lai diệc bất xuất.
Nghĩa:
Chẳng đến cũng chẳng đi.
Đến là từ một nơi nào đó đến đây,
đi là từ đây đi về một nơi nào đó. Lại chúng ta hiểu sâu hơn nữa đến là sự có
mặt của vạn pháp, đi là sự hoại diệt của vạn pháp. Vì vậy mà từ xưa đến nay,
không biết bao nhiêu tôn giáo, bao nhiêu triết học, bao nhiêu thế hệ con người
đều thắc mắc, mang một nghi vấn lớn là vũ trụ này do đâu mà có, con người, vạn
vật do ai sinh ra, ta từ đâu đến, sau chết ta đi về đâu. Do có nhiều thắc mắc,
nghi vấn như vậy nên cũng có nhiều câu giải đáp khác nhau nào vũ trụ vạn hữu do
chúa sinh ra, do thượng đế sinh ra, do nguyên tử, nguyên tố sinh ra. Có tôn
giáo cho con người, muôn loài do chúa sinh, do đấng tạo hoá sinh, do tự nhiên
sinh, sau khi chết con người trỡ về với chúa, với thượng đế, hoặc có người nói
sau khi chết là hết.
Thời đức phật có không biết bao
nhiêu người đến vấn nạn đức Phật về những câu hỏi này, ngay đệ tử của ngài cũng
hỏi ngài những câu hỏi đó. Họ hỏi ngài, thế giới từ đâu mà có, thế giới hữu
biên hay vô biên, thế giới thường còn hay hoại diệt. Như Lai tồn tại hay không
tồn tai, Như Lai từ đâu đến, sau khi chết Như Lai đi về đâu. Tất cả những câu
hỏi này đức phật đều im lặng không trả lời.
Tuy nhiên, trong Tam tạng giáo điễn
đức Phật đã trực tiếp hay gián tiếp trả lời những câu hỏi này. Theo giáo lý nhà
Phật nói vũ trụ vạn vật là do nhân duyên sinh. Con người, các loài cũng do nhân
duyên sinh, nhân duyên thì vô cùng vô tận mà trong kinh Hoa nghiêm đức Phật nói
là trùng trùng duyên khởi. Nhưng khi muốn tóm tắc vấn đề cho dễ hiểu về sự hiện
hữu của muôn loài thì đức Phật nói mười
hai nhân duyên từ vô minh cho đến lảo tử
( thuyết Thập nhị nhân duyên ). Các loài xoay vần qua lại trong vũ trụ này là
do mười hai nhân duyên chính này. Trong vũ trụ, chổ tái sanh của các loài theo
đạo Phật chia ra làm ba cỏi, hoặc chia theo tam đồ lục đạo, hoặc chia theo chín
loài, hai mươi lăm cỏi, tất cả các loài đều luân hồi xoay chuyển trong các cỏi
này.
Sự giải thích, phân chia này là ở
mặt hiện tượng, ở mặt tục đế, ở mặt nhị nguyên đối đãi mà thôi. Nếu đứng ở mặt
chân đế, ở mặt bản thể mà nhìn thì các pháp không có không không, không thường
không đoạn, không sanh không diệt, không đến không đi. Các pháp đã không có
không không, không sanh không diệt thì làm gì có đến và đi. Đoạn Trung quán
luận sau đây giải thích rõ đều này: “ Trong tướng tịch diệt không có bốn tướng:
thường, vô thường, cũng thường, cũng vô thường, chẳng phải thường phải phải vô
thường. Trong tướng tịch diệt không có bốn tướng; là biên, vô biên, cũng biên
cũng vô biên, chẳng phải biên chẳng phải vô biên”.4
Lại trong phẩm Khứ lai ngài đưa ra lý luận bác về đi lại như sau: “ Lúc đã đi
không có đi, lúc chưa đi cũng không có đi, lìa ngoài đã đi và chưa đi, lúc đang
đi cũng không có đi”.5
Trong các kinh Đại thừa đức Phật
cũng đã nói nhiều lý tánh của các pháp. Kinh Kim cang đức Phật nói:
Nhất thiết hữu vi
pháp
Như mộng huyễn bào
ảnh
Như lộ diệc như điện
Ưng tác như thị quán.
Kinh Niết Bàn phật dạy:
Chư hạnh vô thường
Thị sanh diệt pháp
Sanh diệt diệt dĩ
Tịch diệc vi lạc.
Còn kinh pháp Hoa Phật nói:
Các pháp từ bản lai
Tướng thường tự vắng
lặng.
Nói chung, biện chứng pháp của ngài
Long Thọ trong Trung quán luận thông qua Bát bất là loại biện chứng pháp phủ
định của phủ định. Ngài dùng phương pháp
phủ định của phủ định để phủ đinh tất cả pháp. Bát bất là bốn cặp phạm trù ngài
đưa ra, nó đại diện cho tất cả các pháp, ngài phá Bát bất là đã phá hết tất cả
các pháp.
Mỡ đầu trong phẩm nhân duyên, ngài
đưa ra tám pháp này rồi đùng lý Trung đạo, trí Bát nhã để phá. Đây là lần phá
đầu tiên, ngài dùng lý Trung đạo, trí Bát nhã phá tướng chung của tất cả các
pháp, còn khi đi sâu vào Trung quán ngài mới cụ thể phá từng phần.Toàn bộ Trung
quán có hai mươi bảy phẩm, trừ phẩm Nhân duyên ra còn lại hai mươi sáu phẩm, trong
mỗi phẩm ngài đưa ra những pháp cụ thể rồi dùng pháp Không, trí tuệ Bát nhã để
phá.
Có thể nói, biện chứng pháp của
ngài Long Thọ dùng trong Trung quán luận là một biện chứng pháp siêu việt, một
biện chứng vượt lên trên mọi biện chứng khác. Biện chứng đó là lý Trung đạo, là
trí Bát nhã. Lý Tung đao, trí Bát nhã nó như lưỡi búa, thanh kiếm sắc bén chém
hết tất cả mọi kiến chấp, hí luận, những tà kiến sai lầm của thế gian.
Ngài Long thọ là một vị luận sư, vị
Tổ, vị Bồ Tát chói sáng trong việc hoằng hoá, xiển dương giáo lý Đại thừa. Ngài
là người khai triễn giáo lý, tư tưởng Trung đạo, Tánh không đến tột cùng làm
cho tư tưởng này phát triễn mạnh mẽ, rực rỡ nhất trong lịch sử phát triễn Đại
thừa. Trung quán luận trỡ thành nền tảng, tư tưởng chính cho các tông phái Đại
thừa sau này ở Trung Hoa và các nước theo Phật giáo Đại thừa.
III. Gía trị, lợi ích và tầm quan trọng của triết lý,
tư tưởng Trung quán luận.
Trung quán luận có một giá tri, tầm
quan trọng tuyệt đối, bất khả tư nghì. Trung quán có lợi ích rất lớn, nhờ tư
tưởng Trung quán mà nó phá hết tất cả những tà kiến, vô minh, điên đảo của
chúng ta từ vô thỉ kiếp đến nay. Trung quán luận đưa chúng ta trỡ về con đường
chánh kiến, con đường giải thoát, Trung quán cho chúng ta một trí tuệ tuyệt vời.
Ngày nay, Trung quán luận được tất cả các tông phái, các nhà học giả, các nhà nghiên
cứu nghiên cứu và học tập.
C. Kết luận.
Trung quán luận là một bộ luận nổi
tiếng của Đại thừa, nội dung, triết lý , tư tưởng của Trung quán luận chứa đựng
những giáo nghĩa cao sâu của Phật giáo. Đặc biệt trong Trung quán luận, nổi bật
nhất đó là triết lý, tư tưởng tánh Không. Với lý luận sắc bén, trí tuệ cao siêu
ngài dùng biện chứng pháp phủ định của phủ định bằng triết lý tánh Không này, ngài
đã phá bẻ, dẹp trừ, đốn ngã mọi tà kiến, vô minh, điên đảo của thế gian để đưa
họ về con đường chánh đạo, an trú họ vào tánh Không, vào trí tuệ chơn thật, vào
con đường giải thoát.
Ngài Long Thọ là vị Tổ sư, vị Bồ Tát siêu quần bạt chúng.
Ngài là một vị luận sư chói sáng, rực rỡ
nhất trong tất cả ngững vị luận sư của Phật giáo. Những trước tác, những bộ
luận của ngài đã trỡ thành bất hủ. Ngài cũng là người có
công lớn trong việc xiển dương giáo lý Đại thừa làm cho giáo lý Đại thừa phát
triễn rực cho đến ngày nay. Nhận thấy vai trò, sự nghiệp, công lao, thành quả,
trí tuệ cao siêu của ngài như vậy nên người đời tôn xưng ngài là Đệ Nhị Thích
Ca, ngài thật xứng đáng vơi danh hiệu này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét