DƯƠNG TRẠCH VÀ ÂM TRẠCH ĐỀU TRÁNH NHỮNG THỨ NÀY !
Bát sát hoàng tuyền: -Kiền Long,kỵ dòng thuỷ từ Ngọ đến. -Đoài Long,kỵ dòng thuỷ từ Tị đến. -Ly Long,kỵ dòng thuỷ từ Hợi đến. -Chấn Long,kỵ dòng thuỷ từ Thân đến. -Tốn Long,kỵ dòng thuỷ từ Dậu đến. -Khảm Long, kỵ hai dòng thuỷ từ Thìn,Tuất đến. -Cấn Long,kỵ dòng thuỷ từ Dần đến. -Khôn Long,kỵ dòng thuỷ từ Mão đến. |
|
Các Sơn Tốn,Mùi,Thân có Kiếp sát tại Quý.
-Tuất Sơn Kiếp sát tại Sửu.
-Canh Sơn Kiếp sát tại Ngọ.
-Chấn,Cấn Sơn Kiếp sát tại Đinh.
-Giáp Sơn Kiếp sát tại Bính.
-Nhâm Sơn Kiếp sát tại Thân.
-Kiền Sơn Kiếp sát tại Mão.
-Bính Sơn Kiếp sát tại Tân.
-Tý Sơn Kiếp sát tại Tị.
-Tị,Ngọ Sơn Kiếp sát tại Dậu.
-Đinh,Dậu Sơn Kiếp sát tại Dần.
-Khôn,Hợi Sơn Kiếp sát tại Ất.
-Thìn,Dần Sơn Kiếp sát tại Mùi.
-Ất Sơn Kiếp sát tại Thân.
-Sửu Sơn Kiếp sát Thìn.
Phong Nguyen
-Tuất Sơn Kiếp sát tại Sửu.
-Canh Sơn Kiếp sát tại Ngọ.
-Chấn,Cấn Sơn Kiếp sát tại Đinh.
-Giáp Sơn Kiếp sát tại Bính.
-Nhâm Sơn Kiếp sát tại Thân.
-Kiền Sơn Kiếp sát tại Mão.
-Bính Sơn Kiếp sát tại Tân.
-Tý Sơn Kiếp sát tại Tị.
-Tị,Ngọ Sơn Kiếp sát tại Dậu.
-Đinh,Dậu Sơn Kiếp sát tại Dần.
-Khôn,Hợi Sơn Kiếp sát tại Ất.
-Thìn,Dần Sơn Kiếp sát tại Mùi.
-Ất Sơn Kiếp sát tại Thân.
-Sửu Sơn Kiếp sát Thìn.
Phong Nguyen
Đằng sau đền miếu không an phần mộ,nếu không sau một thời
gian dài con cháu sẽ ít dần.
Thập bất tương:
Một,đá xấu xí.
Hai,thuỷ chảy gấp như tranh giành.
Ba,chaỷ đếnđến chỗ tận cùng.
Bốn đầu Long đơn độc.
Năm,Thần trước Phật sau.
Sáu,mộ trạch bỏ phế.
Bảy,núi đồi tán loạn.
Tám,sơn thuỷ bi sầu.
Chín chỗ ngồi lún sụt.
Mười,đầu Long và Hổ nhọn hoắt.
Thập bất tương:
Một,đá xấu xí.
Hai,thuỷ chảy gấp như tranh giành.
Ba,chaỷ đếnđến chỗ tận cùng.
Bốn đầu Long đơn độc.
Năm,Thần trước Phật sau.
Sáu,mộ trạch bỏ phế.
Bảy,núi đồi tán loạn.
Tám,sơn thuỷ bi sầu.
Chín chỗ ngồi lún sụt.
Mười,đầu Long và Hổ nhọn hoắt.
Tứ bất hạ:Bốn điều không nên hạ huyệt.
Một,nơi đỉnh đồi đỉnh núi.
Hai,nơi Long,Hổ giương mày.
Ba,chỗ trước sau có Quỷ kiếp.
Bốn,chỗ có tám phía gió thổi.
Một,nơi đỉnh đồi đỉnh núi.
Hai,nơi Long,Hổ giương mày.
Ba,chỗ trước sau có Quỷ kiếp.
Bốn,chỗ có tám phía gió thổi.
Thập hung.Mười điều hung:
Một gọi là Thiên bại,là nơi từng bị nạn hồng thuỷ tràn qua,Long thần bất an,nếu kết huyệt thi con cháu ly tán,bơ vơ. Hai gọi là Thiên sát,là nơi từng bị sét đánh,Long thần kinh hãi sẽ khiến con cháu nghèo khó . Ba gọi là Thiên cùng,lạc huyệt cô đơn mà Huyền vũ lè lưỡi,thuộc nơi đầu nguồn đuôi thuỷ,sẽ khiến con cháu cô đơn. Bốn gọi Thiên khuynh,là nơi Minh đường nghiêng trôi,thuỷ không quy tụ,Long thần không trú,sẽ khiến gia chủ mất người,mất của. Năm gọi là Thiên vệ,là nơi tám phía gió thổi tới ,Long thần không trú,sẽ khiến con cháu du thủ du thực,lười nhác. Sáu gọi là Thiên thấp,là nơi Minh đường hôi hám,nhầy nhụa,Long thần không tốt,sẽ gây bệnh tật triền miên. Bảy gọi là Thiên ngục,là nơi bên dưới có hang hố,không thấy ánh sáng,Long thần ám muội,sễ khiến người ngu muội. Tám gọi là Thiên cẩu,là nơi ngoài khuỷu sơn,không có Long thần,hai bên Tả Hữu huyệt vị không có sơn phong hộ vệ,gió thổi thuỷ cuốn,sẽ khiến con cháu gian nghịch,bất hiếu. Chín gọi làThiên ma,là nơi đất đá chênh vênh không chắc,Long thần nông cạn,khiến người nông cạn. Mười gọi là Thiên cô,là nơi da,lông khô lẻ,không tươi nhuận,khiến người thất bại. Còn có thuyết nói rằng:Lạc táng ở mộ cổ hoang phế đời con bị câm điếc.Lạc táng ở sau đền miếu,con cháu sẽ bị kiện tụng.Lạc táng ở nơi Sơn tiêu mộc khách,sẽ khiến con cháu tà dâm. Nếu táng ở thùng đấu(nơi người ta lấy đất đóng gạch ngói)thì con cháu bị tật, sẹo.Nếu lạc táng bên đường không rõ ràng,nếu là hung phương thì người bị nạn về thừng chão,nếu tại cát phương cũng cát lợi. |
|
Kiêng kỵ theo ĐỊA ĐẠO DIỄN
CA của Cụ TẢ AO.
Huyệt hung Minh Đường bất khai
Sơn tà thuỷ sạ hướng ngoài tà thiên
Táng xuống kinh sảng bất yên
Con cháu thường thường phát bệnh ốm đau.
Huyệt hung Minh Đường bất khai
Sơn tà thuỷ sạ hướng ngoài tà thiên
Táng xuống kinh sảng bất yên
Con cháu thường thường phát bệnh ốm đau.
hế nào là Nhất Mộ Nhị Trạch ?
Lẽ ra phải nói Nhất Phúc,Nhị Trạch.Do vì chữ Phúc ý nghĩa trừu tượng,chữ Trạch ý nghĩa cụ thể,nên gọi Phúc thành Mộ.Mộ hàm nghĩa Phúc Đức là vậy.Câu chữ trọn vẹn là Nhất Mộ,Nhị Trạch,Tam Mệnh.Ý rằng,số mệnh con người ta cát hung thế nào đều liên quan tới Phúc Đức và Điền Trạch.
Cũng vì một số người quan niệm và giảng giải chữ Mộ theo nghĩa nơi âm phần cụ thể chôn cất người quá cố,nên người ta ra sức đi tìm long mạch của đất,của núi,của rừng,của biển,của sông suối để an táng ông bà cha mẹ mình vào đó.Hy vọng và cầu mong đời con cháu phát vượng.Thực hư thế nào không biết,không dám lạm bàn.Chỉ xin bàn chữ Mộ theo nghĩa Phúc Đức.
Mộ là căn cứ để tìm về cội nguồn.tìm về cội nguồn để báo đáp ân nghĩa với cha mẹ,ông bà,tổ tiên,để học theo cách làm người của tiền nhân và để tu thân làm việc thiện,việc đức để phúc cho con cháu mai sau.
Có nghĩa là phong thuỷ không quan tâm đến Mộ phần?
Phong thuỷ cổ của Trung Hoa bàn đến phần mộ là chủ yếu.Phong thuỷ cổ Việt,bằng văn tự của Phong Thuỷ Sư Tả Ao cũng chủ yếu bàn về phần mộ.Việc quan tâm đến an táng người chết ở vị trí cát lợi và cách an táng như thế nào để thụ hưởng cát lợi đó.
Ý nghĩa này vô cùng thâm sâu và mang nhiều màu sắc huyền bí,bản thân người soạn chép sách này không đủ kiến thức lý giải và thực hiện được những điều thâm sâu huyền bí đó.
Các thế hệ phong thuỷ hậu duệ và thời nay có khuynh hướng dụng phong thuỷ vào dương trạch,ý nghĩa và mục đích đó tích cực hơn.Tuy nhiên,mộ huyệt âm phần vẫn được dành vị trí quan tâm thích đáng,tuỳ hoàn cảnh và nhu cầu.
Quan tâm như thế nào?
Như ngôi nhà mình cư ngụ vậy.Âm phần khác gì dương trạch ? Một nhà mộ nguy nga tráng lệ,ngoại trừ qui mô kiến trúc và thẩm mỹ,đâu có khác gì nấm mồ nơi nghĩa trang,hay hũ cốt đặt ở chùa ? Mộ là nơi chôn cất phần xác người quá cố,còn hồn người quá cố đang ngụ trong tim người đang sống.Coi trọng phần hồn hay coi trọng phần xác ? Hỏi tự đã có lời đáp.
Loài người có nhiều cách táng,nào địa táng,nào thuỷ táng,nào sơn táng,nào mộc táng (Nam Mỹ),nào hoả táng và hiện nay mượn cái văn minh,cái giàu sang,người ta bắt đầu không gian táng.Thiếu gì những ngôi mộ hoành tráng,bí hiểm ngàn năm sau như mộ Tần Thuỷ Hoàng,mộ Tào Tháo,lăng tẩm Kim Tự Tháp,lăng tẩm Lênin.
Thiếu gì những tàn tro thân xác rắc lên trời chia đều cho sông núi,hoặc rải xuống sông cho mát mẻ linh hồn.Quan trọng không phải là thân xác về với cát bụi,sông nước ở đâu, quan trọng người chết còn gì trong lòng người sống.
Trong vòm sao Thái Tuế có sao Long Đức,bảo là cái đức của rồng.Rồng là một sinh ước trừu tượng bí ẩn sao bàn thành chân lý ?
Nên quan tâm:
+ Chớ để người thân của mình an nghỉ với nấm mồ vô chủ.Nên gắng tìm kiếm,qui tập về một nơi,để hương khói nhớ vọng cội nguồn.Trường hợp không tìm được mộ người thân,nên đặt bàn thờ (trong nhà) hay trong lòng mà tưởng nhớ và dịp tháng Bảy hàng năm nên làm việc phóng sinh (cá hoặc chim).Tục dân gian tháng Bảy hàng năm là tháng mở cửa Phúc cho tình âm dương gặp nhớ về nhau,phóng sinh hàm nghĩa người chết được siêu thoát,mát mẻ.
+ Nên qui tập mộ về các nghĩa trang,không nên táng người chết nơi quá biệt lập,long mạch linh thiêng đâu chả biết,chỉ biết nguy cơ mất mộ rất dễ xảy ra.Không nên ganh đua nhau xây mộ hoành tráng,to đẹp.Phúc đâu chưa thấy,chỉ thấy sự hợm hĩnh phô trương cho người đời ganh ghét,đố kỵ.
+ Mộ phần bất kể là lớn hay nhỏ,quan lại hay thường dân,quan trọng cần chỗ để tâm chăm sóc,khói nhang ấm tình,cây cỏ tươi xanh.Với mộ huyệt ở nơi xây kim tĩnh,việc khâm liệm kỹ lưỡng,giàu sang thế nào,tuỳ tâm.Với mộ huyệt phải cải táng theo hạn định (3 năm),thì nên khâm liệm kỹ lưỡng,vệ sinh,không nên gói bọc (trong ni lông) quá cẩn thận,bởi nhiều thân xác sau 3 năm chưa hoá hết,việc lóc thịt lấy cốt chỉ thêm đau lòng.
+ Hoả táng gửi hũ tro cốt vào tháp mộ hoặc chùa là giải pháp an táng tốt nhất (theo thiển ý cá nhân) trên mọi phương diện đất,môi trường,vệ sinh,chăm sóc,dịch chuyển và cả ý nghĩa cát tường trong quan niệm phong thuỷ.
+ Với các mộ phần lưu niên,không nhất thiết phải xây mộ huyệt lớn,điều kiện có thể, nên thay đất quanh mộ.Giải pháp này cũng như giải pháp thay đất của dương trạch. Đào bốn xung quanh mộ,phía sau,hai bên khoảng 54cm,phía trước mộ,tiền án,nên dài,rộng gấp đôi là 1,08m.Chiều sâu xung quanh tối thiểu là 54cm.Bỏ hết đất cũ thay bằng cát sạch.Đây là việc làm rất nên coi trọng bởi ý nghĩa tâm linh hay thực nghiệm đều mang lại lợi ích đáng kể.
+ Cây xương rồng (loại xương rồng dại,cây ông và cây bà) theo dân gian được coi là loại cây chống xung sát rất tốt,nên trồng hai cây phía trước mộ.
+ Và sau cùng,nên đặt một trang thờ ở nơi trang trọng nhất trong nhà,hoặc di ảnh người mất nơi làm việc,đầu giường ngủ hoặc nơi luôn nhắc mình tưởng nhớ,thậm chí để trong lòng.Góc thờ tôn kính đó giúp việc tu thân tích kết Long Đức,kết hợp với Thanh Long và Long Phượng của căn nhà cư ngụ mà tạo cát,tránh hung,mà hưởng phúc lộc thọ đời người.
Thanh long và long phượng là thế nào?
Như đã trình bày,Long Đức là đức của rồng,ý nghĩa rất trừu tượng,tàng ẩn ý nghĩa Thiên và Địa (trời đất),ý nghĩa cát hung của âm phần.Thanh Long và Long Đức hàm ý nghĩa cát hung cho dương trạch,trong đó yếu tố Nhân (con người) đóng vai trò quan trọng.
Nhắc lại sau đây mang ý nghìa nhấn mạnh về 6 hành thuộc thổ liên quan đến việc xây dựng dương trạch:
1. Đại Trạch Thổ,cư ở cửa Khôn (Mùi,Khôn,Thân),là thổ dựng trạch.
2. Ốc Thượng Thổ,cư ở cửa Càn (Tuất,Càn,Hợi),là đất trên nóc nhà,hàm nghĩa bất kỳ không gian thổ nào,dựng được cái nóc che đều gọi là nhà.
3. Bích Thượng Thổ,cư ở cửa Khảm (Nhâm,Tý,Quý)là đất trên vách,tường nhà,hàm nghĩa nơi cư ngụ đã chia các không gian phòng ốc hoàn chỉnh.
4. Thành Đầu Thổ,cư ở cửa Cấn (Sửu,Cấn,Dần) là thổ đầu thành,là nhiều căn nhà hoàn chỉnh hợp lại thành xóm làng,thành khu dân cư,thành thị trấn,thành phố,kinh đô.
5. Sa Trung Thổ,cư ở cửa Tốn (Thìn,Tốn,Tỵ) là đất cát,đất vườn,đất bãi,đất ruộng,đất bên ngoài căn nhà cư ngụ.
6. Lộ Bàng Thổ,cư ở cửa Ly (Bính,Ngọ,Đinh) là đất đường,nối khu dân cư này với khu dân cư khác,cũng là đất ngoài căn nhà cư ngụ.
La bàn đặt nơi trung cung miếng đất xây dựng,cùng hướng với mặt tiền nhà,hay còn gọi là hướng lưng nhà để xác định phương vị hướng và Thanh Long,Bạch Hổ.Nếu đứng từ bên ngoài nhìn vào miếng đất xây dựng sẽ định vị sai lạc tứ tượng,nhất là Thanh Long (tả) và Bạch Hổ (hữu).
Thanh Long là phía tả của dương trạch,nằm trong bộ tứ tượng (Tiền Tước,Hậu Vũ,Tả Thanh Long,Hữu Bạch Hổ),nôm na là mặt trước,mặt sau,mặt bên phải và mặt bên trái của căn nhà.Do đó,Thanh Long hàm nghĩa được,mất,cát,hung của bốn phía bên ngoài căn nhà (ngoại ốc),nói cách khác là môi trường xung quanh,là dòng khí vận động mang lại lợi ích nắng,mưa,nóng lạnh cho căn nhà cư ngụ.
Long - Phượng tên đầy đủ là Long Trì và Phượng Các,là tên một cặp chim tình,chim vợ chổng huyền thoại,không rời xa nhau bao giờ,nếu chẳng may hoạ ách giáng xuống,chim trống chết thì chim mái cũng chết theo và ngược lại.Long Phượng hàm nghĩa vợ chỗng thuỷ chung,cũng hàm nghĩa con người thuỷ chung với đồ vật trong nhà và đồ vật mang lại sinh khí cho căn nhà cũng là để người cư ngụ thụ hưởng.Với ý nghĩa đó,Long Phượng hàm nghĩa xấu đẹp,lợi và bất lợi,gọi là cát hung của phòng ốc,của đồ đạc trong căn nhà cư ngụ (nội ốc).
Nghiên cứu,xem xét Thanh Long,Long Phượng là xem xét phần bên ngoài và bên trong của căn nhà cư ngụ sao cho tương thích với phong thuỷ truyền thống.Và thực ra,với khả năng”người trần,mắt thịt”khả năng tìm kiếm và chỉ ra huyệt mạch Long Đức là điều khó,nên chỉ có thể trình bày,trao đổi những kinh nghiệm đúc kết được,trong khuôn khổ nội ngoại thất dương trạch,để người đọc tham khảo và lựa chọn giải pháp lợi ích cho nơi cư ngụ của mình.Đó cũng là nội dung chính của tập biên soạn Phong Thuỷ Ứng Dụng này.
Lẽ ra phải nói Nhất Phúc,Nhị Trạch.Do vì chữ Phúc ý nghĩa trừu tượng,chữ Trạch ý nghĩa cụ thể,nên gọi Phúc thành Mộ.Mộ hàm nghĩa Phúc Đức là vậy.Câu chữ trọn vẹn là Nhất Mộ,Nhị Trạch,Tam Mệnh.Ý rằng,số mệnh con người ta cát hung thế nào đều liên quan tới Phúc Đức và Điền Trạch.
Cũng vì một số người quan niệm và giảng giải chữ Mộ theo nghĩa nơi âm phần cụ thể chôn cất người quá cố,nên người ta ra sức đi tìm long mạch của đất,của núi,của rừng,của biển,của sông suối để an táng ông bà cha mẹ mình vào đó.Hy vọng và cầu mong đời con cháu phát vượng.Thực hư thế nào không biết,không dám lạm bàn.Chỉ xin bàn chữ Mộ theo nghĩa Phúc Đức.
Mộ là căn cứ để tìm về cội nguồn.tìm về cội nguồn để báo đáp ân nghĩa với cha mẹ,ông bà,tổ tiên,để học theo cách làm người của tiền nhân và để tu thân làm việc thiện,việc đức để phúc cho con cháu mai sau.
Có nghĩa là phong thuỷ không quan tâm đến Mộ phần?
Phong thuỷ cổ của Trung Hoa bàn đến phần mộ là chủ yếu.Phong thuỷ cổ Việt,bằng văn tự của Phong Thuỷ Sư Tả Ao cũng chủ yếu bàn về phần mộ.Việc quan tâm đến an táng người chết ở vị trí cát lợi và cách an táng như thế nào để thụ hưởng cát lợi đó.
Ý nghĩa này vô cùng thâm sâu và mang nhiều màu sắc huyền bí,bản thân người soạn chép sách này không đủ kiến thức lý giải và thực hiện được những điều thâm sâu huyền bí đó.
Các thế hệ phong thuỷ hậu duệ và thời nay có khuynh hướng dụng phong thuỷ vào dương trạch,ý nghĩa và mục đích đó tích cực hơn.Tuy nhiên,mộ huyệt âm phần vẫn được dành vị trí quan tâm thích đáng,tuỳ hoàn cảnh và nhu cầu.
Quan tâm như thế nào?
Như ngôi nhà mình cư ngụ vậy.Âm phần khác gì dương trạch ? Một nhà mộ nguy nga tráng lệ,ngoại trừ qui mô kiến trúc và thẩm mỹ,đâu có khác gì nấm mồ nơi nghĩa trang,hay hũ cốt đặt ở chùa ? Mộ là nơi chôn cất phần xác người quá cố,còn hồn người quá cố đang ngụ trong tim người đang sống.Coi trọng phần hồn hay coi trọng phần xác ? Hỏi tự đã có lời đáp.
Loài người có nhiều cách táng,nào địa táng,nào thuỷ táng,nào sơn táng,nào mộc táng (Nam Mỹ),nào hoả táng và hiện nay mượn cái văn minh,cái giàu sang,người ta bắt đầu không gian táng.Thiếu gì những ngôi mộ hoành tráng,bí hiểm ngàn năm sau như mộ Tần Thuỷ Hoàng,mộ Tào Tháo,lăng tẩm Kim Tự Tháp,lăng tẩm Lênin.
Thiếu gì những tàn tro thân xác rắc lên trời chia đều cho sông núi,hoặc rải xuống sông cho mát mẻ linh hồn.Quan trọng không phải là thân xác về với cát bụi,sông nước ở đâu, quan trọng người chết còn gì trong lòng người sống.
Trong vòm sao Thái Tuế có sao Long Đức,bảo là cái đức của rồng.Rồng là một sinh ước trừu tượng bí ẩn sao bàn thành chân lý ?
Nên quan tâm:
+ Chớ để người thân của mình an nghỉ với nấm mồ vô chủ.Nên gắng tìm kiếm,qui tập về một nơi,để hương khói nhớ vọng cội nguồn.Trường hợp không tìm được mộ người thân,nên đặt bàn thờ (trong nhà) hay trong lòng mà tưởng nhớ và dịp tháng Bảy hàng năm nên làm việc phóng sinh (cá hoặc chim).Tục dân gian tháng Bảy hàng năm là tháng mở cửa Phúc cho tình âm dương gặp nhớ về nhau,phóng sinh hàm nghĩa người chết được siêu thoát,mát mẻ.
+ Nên qui tập mộ về các nghĩa trang,không nên táng người chết nơi quá biệt lập,long mạch linh thiêng đâu chả biết,chỉ biết nguy cơ mất mộ rất dễ xảy ra.Không nên ganh đua nhau xây mộ hoành tráng,to đẹp.Phúc đâu chưa thấy,chỉ thấy sự hợm hĩnh phô trương cho người đời ganh ghét,đố kỵ.
+ Mộ phần bất kể là lớn hay nhỏ,quan lại hay thường dân,quan trọng cần chỗ để tâm chăm sóc,khói nhang ấm tình,cây cỏ tươi xanh.Với mộ huyệt ở nơi xây kim tĩnh,việc khâm liệm kỹ lưỡng,giàu sang thế nào,tuỳ tâm.Với mộ huyệt phải cải táng theo hạn định (3 năm),thì nên khâm liệm kỹ lưỡng,vệ sinh,không nên gói bọc (trong ni lông) quá cẩn thận,bởi nhiều thân xác sau 3 năm chưa hoá hết,việc lóc thịt lấy cốt chỉ thêm đau lòng.
+ Hoả táng gửi hũ tro cốt vào tháp mộ hoặc chùa là giải pháp an táng tốt nhất (theo thiển ý cá nhân) trên mọi phương diện đất,môi trường,vệ sinh,chăm sóc,dịch chuyển và cả ý nghĩa cát tường trong quan niệm phong thuỷ.
+ Với các mộ phần lưu niên,không nhất thiết phải xây mộ huyệt lớn,điều kiện có thể, nên thay đất quanh mộ.Giải pháp này cũng như giải pháp thay đất của dương trạch. Đào bốn xung quanh mộ,phía sau,hai bên khoảng 54cm,phía trước mộ,tiền án,nên dài,rộng gấp đôi là 1,08m.Chiều sâu xung quanh tối thiểu là 54cm.Bỏ hết đất cũ thay bằng cát sạch.Đây là việc làm rất nên coi trọng bởi ý nghĩa tâm linh hay thực nghiệm đều mang lại lợi ích đáng kể.
+ Cây xương rồng (loại xương rồng dại,cây ông và cây bà) theo dân gian được coi là loại cây chống xung sát rất tốt,nên trồng hai cây phía trước mộ.
+ Và sau cùng,nên đặt một trang thờ ở nơi trang trọng nhất trong nhà,hoặc di ảnh người mất nơi làm việc,đầu giường ngủ hoặc nơi luôn nhắc mình tưởng nhớ,thậm chí để trong lòng.Góc thờ tôn kính đó giúp việc tu thân tích kết Long Đức,kết hợp với Thanh Long và Long Phượng của căn nhà cư ngụ mà tạo cát,tránh hung,mà hưởng phúc lộc thọ đời người.
Thanh long và long phượng là thế nào?
Như đã trình bày,Long Đức là đức của rồng,ý nghĩa rất trừu tượng,tàng ẩn ý nghĩa Thiên và Địa (trời đất),ý nghĩa cát hung của âm phần.Thanh Long và Long Đức hàm ý nghĩa cát hung cho dương trạch,trong đó yếu tố Nhân (con người) đóng vai trò quan trọng.
Nhắc lại sau đây mang ý nghìa nhấn mạnh về 6 hành thuộc thổ liên quan đến việc xây dựng dương trạch:
1. Đại Trạch Thổ,cư ở cửa Khôn (Mùi,Khôn,Thân),là thổ dựng trạch.
2. Ốc Thượng Thổ,cư ở cửa Càn (Tuất,Càn,Hợi),là đất trên nóc nhà,hàm nghĩa bất kỳ không gian thổ nào,dựng được cái nóc che đều gọi là nhà.
3. Bích Thượng Thổ,cư ở cửa Khảm (Nhâm,Tý,Quý)là đất trên vách,tường nhà,hàm nghĩa nơi cư ngụ đã chia các không gian phòng ốc hoàn chỉnh.
4. Thành Đầu Thổ,cư ở cửa Cấn (Sửu,Cấn,Dần) là thổ đầu thành,là nhiều căn nhà hoàn chỉnh hợp lại thành xóm làng,thành khu dân cư,thành thị trấn,thành phố,kinh đô.
5. Sa Trung Thổ,cư ở cửa Tốn (Thìn,Tốn,Tỵ) là đất cát,đất vườn,đất bãi,đất ruộng,đất bên ngoài căn nhà cư ngụ.
6. Lộ Bàng Thổ,cư ở cửa Ly (Bính,Ngọ,Đinh) là đất đường,nối khu dân cư này với khu dân cư khác,cũng là đất ngoài căn nhà cư ngụ.
La bàn đặt nơi trung cung miếng đất xây dựng,cùng hướng với mặt tiền nhà,hay còn gọi là hướng lưng nhà để xác định phương vị hướng và Thanh Long,Bạch Hổ.Nếu đứng từ bên ngoài nhìn vào miếng đất xây dựng sẽ định vị sai lạc tứ tượng,nhất là Thanh Long (tả) và Bạch Hổ (hữu).
Thanh Long là phía tả của dương trạch,nằm trong bộ tứ tượng (Tiền Tước,Hậu Vũ,Tả Thanh Long,Hữu Bạch Hổ),nôm na là mặt trước,mặt sau,mặt bên phải và mặt bên trái của căn nhà.Do đó,Thanh Long hàm nghĩa được,mất,cát,hung của bốn phía bên ngoài căn nhà (ngoại ốc),nói cách khác là môi trường xung quanh,là dòng khí vận động mang lại lợi ích nắng,mưa,nóng lạnh cho căn nhà cư ngụ.
Long - Phượng tên đầy đủ là Long Trì và Phượng Các,là tên một cặp chim tình,chim vợ chổng huyền thoại,không rời xa nhau bao giờ,nếu chẳng may hoạ ách giáng xuống,chim trống chết thì chim mái cũng chết theo và ngược lại.Long Phượng hàm nghĩa vợ chỗng thuỷ chung,cũng hàm nghĩa con người thuỷ chung với đồ vật trong nhà và đồ vật mang lại sinh khí cho căn nhà cũng là để người cư ngụ thụ hưởng.Với ý nghĩa đó,Long Phượng hàm nghĩa xấu đẹp,lợi và bất lợi,gọi là cát hung của phòng ốc,của đồ đạc trong căn nhà cư ngụ (nội ốc).
Nghiên cứu,xem xét Thanh Long,Long Phượng là xem xét phần bên ngoài và bên trong của căn nhà cư ngụ sao cho tương thích với phong thuỷ truyền thống.Và thực ra,với khả năng”người trần,mắt thịt”khả năng tìm kiếm và chỉ ra huyệt mạch Long Đức là điều khó,nên chỉ có thể trình bày,trao đổi những kinh nghiệm đúc kết được,trong khuôn khổ nội ngoại thất dương trạch,để người đọc tham khảo và lựa chọn giải pháp lợi ích cho nơi cư ngụ của mình.Đó cũng là nội dung chính của tập biên soạn Phong Thuỷ Ứng Dụng này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét