PHÁP
MÔN TỊNH ĐỘ THÙ THẮNG
LỜI GIỚI THIỆU
Chúng sanh đang chìm đắm trong sông mê biển khổ. Đức
Phật thương xót thị hiện ra đời đem pháp mầu chỉ dạy chúng sanh tu tập thoát
khổ được vui.
Pháp Phật rất nhiều, có đến Tám vạn bốn ngàn pháp môn,
trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, có Pháp môn Tịnh độ là pháp thù thắng, dễ tu,
mau chứng, phù hợp với mọi căn cơ chúng sanh, ai thực hành tu tập đều được giải
thoát, sớm thành Phật đạo.
Nhận thấy Pháp môn Tịnh độ có lợi ích to lớn như vậy,
nên chúng tôi mạo muội, với kiến thức cạn hẹp của mình xin trình bày một ít
kiến thức về Pháp môn Tịnh độ hầu đóng góp thêm một ít tư lương cho hành giả
đang tu, hoặc mới phát tâm tu tập Pháp môn Tịnh độ. Đồng thời chúng tôi cũng
trích dẫn những đoạn kinh, những lời khai thị, chỉ dạy khuyên người niệm Phật
của Phật, Tổ, chư Hiền nhân làm kim chỉ nam cho hành giả tu tập Pháp môn Tịnh
độ. Chúng tôi cũng dẫn chứng những mẫu chuyện niệm Phật vãng sanh của người xưa
và nay để làm tăng thêm niềm tin cho người niệm Phật.
Huy vọng cuốn sách nhỏ này giúp thêm kiến thức, niềm
tin và sự tinh tấn niệm Phật của hành giả tu tập Pháp môn Tịnh độ. Nếu có gì sơ
suất, thiếu sót mong quý vị hoan hỷ, chỉ giáo thêm.
Nguyện cầu chư Phật, chư Bồ Tát, chư Thánh Hiền Tăng,
chư Hộ pháp Long thiên gia hộ cho quý vị thân tâm an lạc, tinh tấn tu hành, tất
cả đều được vãng sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc, sớm thành Phật đạo.
Tỳ Kheo Thích Chiếu Nguyện
Thành phố Hồ Chí Minh
Ngày 08/01/2011
DẪN
NHẬP
Đức Phật thị hiện ra đời đem pháp mầu chỉ
dạy chúng sanh tu tập thoát khổ được vui. Chúng sanh căn tánh, trình độ không
đồng nên Ngài dạy rất nhiều pháp môn để phù hợp với mọi loài chúng sanh. Ngài
giống như vị lương y tùy bệnh cho thuốc.
Pháp Phật rất nhiều, có đến tám vạn bốn
ngàn pháp môn. Trong tám vạn bốn ngàn pháp môn này có một pháp môn thù thắng,
vi diệu, tối tôn, tối thượng, dễ tu, dễ chứng, phù hợp với mọi trình độ căn cơ
chúng sanh, nếu ai ứng dụng tu tập thì một đời giải thoát, một đời thành Phật,
đó là Pháp môn Tịnh độ
Thật vậy, Pháp môn Tịnh độ rất thù thắng
vi diệu. Từ xưa đến nay biết bao nhiêu người tu tập pháp này đều được giải
thoát. Trên thì chư Bồ Tát như Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Đại Thế Chí v.v… đều thực
hành tu tập và khuyến hóa chúng sanh đồng tu pháp này. Thứ đến chư vị Tổ Sư,
chư Đại Đức Tăng Ni, vua quan, trưởng giả, thứ dân v.v… đều ứng dụng tu tập và
đã được giải thoát. Dưới đến những người cùng khổ, những người phiền não,
nghiệp chướng nặng nề, những người làm nghề ác như đồ tể v.v… thực hành đều
được Đức Phật tiếp độ. Thậm chí cho đến loài súc sanh như khỉ vượn, chim muông
biết tu tập niệm Phật đều được giải thoát. Những mẫu chuyện người tu Tịnh độ
niệm Phật vãng sanh từ xưa đến nay rất nhiều được viết lại trong các bộ sách,
bộ luận, bộ lục của chư Tổ, chư hiền nhân.
Ngày nay, Pháp môn Tịnh độ được truyền bá
rộng rãi. Đặc biệt, phong trào tu Phật thất đã được phát động khắp nơi trên thế
giới. Ở đâu cũng tổ chức tu Phật thất, có nơi tu niệm Phật một ngày, hai ngày,
ba ngày v.v…, có nơi đầy đủ điều kiện thì tổ chức tu một tuần, một tháng, ba
tháng. Cái gì có nhân thì có quả, vì vậy
mà gần đây người vãng sanh Tịnh độ rất nhiều, khi vãng sanh để lại nhiều sự màu
nhiệm như biết trước ngày giờ chết, thấy Phật, thấy hào quang, thấy hoa sen, có
mùi thơm, có người còn để lại xá lợi.
Trong kinh Đức Phật đã huyền ký, thời mạt
pháp về sau chúng sanh căn cơ hạ liệt, phiền não, nghiệp chướng sâu dày tu tập
khó được giải thoát giác ngộ, duy chỉ có Pháp môn Tịnh độ mới cứu độ được, lời
huyền ký của Đức Phật đến nay đã được ứng nghiệm. Vậy bây giờ chúng ta có duyên
lành gặp được Pháp môn Tịnh độ, chúng ta không thực hành tu tập thì biết chừng
nào mới được giải thoát, mới ra khỏi luân hồi sanh tử, chẳng lẽ chúng ta cứ cam
chịu tủi nhục, đau khổ trong biển khổ luân hồi, trong cảnh trần lao trói buộc
này sao?
Nhận thấy sự thù thắng vi diệu của Pháp
môn Tịnh độ, một pháp môn có khả năng, năng lực đưa chúng sanh, chúng ta
từ phàm phu đến địa vị Thánh Hiền một
cách dễ dàng, nhanh chóng. Nên chúng tôi mạo muội trình bày đôi nét về Pháp môn
Tịnh độ để khuyên người niệm Phật cầu vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Đồng
thời chúng tôi cũng trích dẫn những đoạn kinh, những lời chỉ dạy, những lời
khai thị của Phật, chư Bồ Tát, chư Tổ Sư, chư Hiền Nhân khuyên người tu Pháp
môn Tịnh độ, lại còn trích dẫn những mẫu chuyện vãng sanh của người niệm Phật
từ xưa đến nay hầu làm tăng thêm kiến thức, niềm tin của hành giả tu tập Pháp
môn Tịnh độ.
Ý
NGHĨA DANH TỪ “PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ” VÀ DANH HIỆU “A DI ĐÀ PHẬT”
1.
Ý nghĩa danh từ “Pháp môn Tịnh độ”
Chữ “Pháp” là những lời chỉ dạy của chư
Phật, chư Bồ Tát, chư Hiền Thánh Tăng làm quy tắc cho đời. Chữ “Môn” là cửa,
cửa đây là cửa đạo, cửa giải thoát giác ngộ. Vậy hai chữ “Pháp môn” là cánh cửa
đi vào chân lý, phương pháp tu tập để được giải thoát, giác ngộ. Hai chữ “Tịnh
độ”, chữ “Tịnh” nghĩa là trong sạch, mát mẻ, an lạc. Chữ “Độ” nghĩa là cõi
nước, thế giới, ví dụ như thế giới Ta Bà của Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni,
thế giới Đông Phương của Đức Phật Dược Sư v.v… Nhưng hai chữ Tịnh độ ở đây là
chỉ thế giới Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà. Vậy “Pháp môn Tịnh độ”
nghĩa là đường lối, cách thức, phương pháp tu tập để được sanh về Tây Phương
Cực Lạc, cõi nước của Đức Phật A Di Đà.
2.
Ý nghĩa danh hiệu “A Di Đà Phật”
A Di Đà tiếng Phạn là Amita, dịch âm là A
Di Đà hay A Mi Đà. Chữ A Di Đà có ba nghĩa là Vô lượng thọ, Vô lượng quang và Vô
lượng công đức. Vô lượng thọ nghĩa là thọ mạng sống lâu vô cùng. Vô lượng quang
nghĩa là hào quang chiếu sáng khắp nơi không giới hạn. Vô lượng công đức nghĩa
là công đức rất nhiều vô lượng vô biên không có công đức nào sánh bằng.
Chữ “Phật” nghĩa là bậc giác ngộ hoàn
toàn trên ba phương diện là Tự giác, Giác tha và Giác hạnh viên mãn.
NHÂN
DUYÊN, NGUỒN GỐC ĐỨC PHẬT NÓI PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ
Đa số các bộ kinh Đại Thừa, Đức Phật đều
có giới thiệu Pháp môn Tịnh độ, Đức Phật A Di Đà và cõi Tây Phương Cực lạc như:
Kinh Pháp Hoa, Kinh Hoa Nghiêm v.v… Nhưng có những bộ kinh Đức Phật chuyên nói
về Pháp môn Tịnh độ, Ngài diễn tả cõi Tây Phương Cực Lạc, công hạnh tu tập của
Đức Phật A Di Đà, sự giáo hóa tiếp dẫn chúng sanh của Đức Phật A Di Đà, và Ngài
dạy rõ Phương pháp niệm Phật cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc. Những bộ kinh này
như: Kinh A Di Đà, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Quán Vô Lương Thọ v.v…
Sau đây chúng ta tìm hiểu nguồn gốc, nhân
duyên Đức Phật nói Pháp môn Tịnh độ qua các bộ kinh chuyên về Tịnh độ ở trên.
1.
Kinh Quán Vô Lượng Thọ
Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ kể rằng:
Vào thời Đức Phật, tại thành Vương Xá có
thái tử A Xà Thế là người con bạo nghịch bất hiếu, thái tử bắt vua cha giam vào
ngục để chiếm ngôi. Thái tử giam đói vua cha trong đại ngục có bảy lớp cửa và
ra lệnh không cho ai vào, chỉ trừ mẹ ông là hoàng hậu Vi Đề Hi được vào thăm,
nhưng không được mang thức ăn vào.
Hoàng hậu nghĩ ra một kế là tắm gội sạch
sẽ rồi thoa sữa và mật vào mình, vào chuổi ngọc rồi vào thăm vua và kính đáo
dâng lên cho vua dùng.
Khi dùng sữa và mật xong, nhà vua hướng
về núi Kỳ Xà Quật đảnh lễ Đức Phật, cầu thỉnh Đức Phật phái đệ tử đến thuyết
pháp và truyền pháp Bát quan trai (1 không sát sanh, 2 không trộm cắp, 3 không
dâm dục, 4 không nói dối, 5 không uống rượu, 6 không thoa ướp dầu thơm, trang
điểm và xem múa hát, 7 không nằm gường cao rộng lớn, 8 không ăn phi thời) cho
mình. Đức Phật sai ngài Mục Kiền Liên, ngài Phú Lâu Na đến thuyết pháp và
truyền pháp Bát quan trai cho vua. Nhờ vậy mà nhà vua vẫn mạnh khỏe, thân tâm
an lạc.
Thái tử cho người theo dõi biết được mọi
chuyện, tức giận thái tử cầm kiếm đi định giết mẹ, nhưng các quan đại thần ngăn
cản, ông liền giam mẹ vào ngục không cho đi thăm vua cha nữa.
Ở trong ngục hoàng hậu sầu khổ rơi lệ
hướng về phía Đức Phật đảnh lễ than vãn, bà tha thiết cầu thỉnh Đức Phật và
Thánh chúng đến thuyết pháp cho bà nghe để vơi bớt sự sầu muộn đau khổ.
Ở núi Kỳ Xà Quật, Đức Phật biết được,
Ngài cùng Thánh chúng, các vị trời đến thành Vương Xá, thị hiện ở hư không
thuyết pháp cho hoàng hậu và nhà vua nghe.
Sau khi nghe pháp, bà thưa với Đức Phật;
Bạch đức Thế Tôn, con chán thế gian này đầy dẫy sự ác độc khổ não, con cái ngỗ
nghịch bất hiếu, nguyện Đức Phật chỉ cho con biết có thế giới nào thanh tịnh,
an lạc thuần thiện và dạy cho con phương pháp tu tập để được sanh về thế giới
đó.
Đáp lại lời cầu thỉnh của bà Vi Đề Hi,
Đức Phật liền phóng quang hiện rõ mười phương thế giới chư Phật cho bà Vi Đề Hi
và chúng hội thấy, để bà lựa chọn. Trong mười phương thế giới chư Phật, có rất
nhiều thế thanh tịnh, đẹp đẽ trang nghiêm. Trong các thế giới này, thế giới Tây
Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà là thù thắng hơn cả. Bà Vi Đề Hi liền chọn
thế giới này.
Thể theo lời mong ước của bà Vi Đề Hi, Đức
Phật nói kinh Quán Vô Lượng Thọ, chỉ dạy phương pháp tu tập cho bà Vi Đề Hi, và
chúng sanh tu tập để được sanh về thế giới Cực Lạc.
2. Kinh Vô Lượng Thọ
Một thời Đức Phật ở thành Vương Xá, trong
núi Kỳ Xà Quật, cùng chúng hội Thanh Văn, Duyên Giác, trời người mà thuyết
pháp.
Lúc
bấy giờ sắc diện của đức Thế Tôn vui vẽ, sáng rỡ, đẹp đẽ lạ thường.
Ngài
A Nan thấy vậy liền quỳ gối chấp tay bạch Đức Phật rằng:
-
Bạch đức Thế Tôn! Hôm nay sắc diện của Đức Thế Tôn vui vẽ sáng rỡ, trong sạch
như gương sáng, từ nào chưa từng được thấy.
-
Phải chăng hôm nay đức Thế Tôn nghĩ nhớ đến công hạnh của chư Phật quá khứ, vị
lai, hiện tại chăng?
Ðức
Phật trả lời, đúng vậy A Nan!
Liền
đó, ngài A Nan cầu xin Đức Phật kể lại công hạnh tu tập của chư Phật, để ngài
và chúng hội biết và học tập theo gương hạnh của chư Phật.
Theo
lời thỉnh cầu của ngài A Nan, Đức Phật liền giảng Kinh Vô Lượng Thọ, kể lại
công hạnh tu tập của Đức Phật A Di Đà, bốn mươi tám đại nguyện của Đức Phật A
Di Đà, diễn tả cảnh giới thù thắng, trang nghiêm cõi Tây Phương Cực Lạc, nói về
phương pháp tu tập để được sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc.
3. Kinh A Di
Đà
Một thời Đức Phật ở Xá Vệ quốc, tịnh xá Kỳ Hoàn cùng với
chúng hội vô lượng Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, trời, người mà thuyết pháp.
Bấy giờ Đức Phật muốn lợi ích chúng sanh nên giảng Kinh A
Di Đà. Kinh này Đức Phật diễn tả cảnh Cực Lạc, và phương pháp tu tập để sanh về
thế giới Cực Lạc.
4.
Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông Chương trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, đoạn Đức Phật
hỏi nhân địa tu tập của hai mươi lăm vị Thánh. Đến lượt Bồ Tát Đại Thế Chí, Ngài
trình bày công hạnh tu tập của mình là thực hành pháp Niệm Phật Tam Muội. Pháp
tu nhân địa của Ngài là chuyên tâm Niệm Phật để hàng phục vọng tưởng, phiền
não. Chính nhờ pháp Niệm Phật này mà Ngài mau thành Thánh quả. Đức Phật
hỏi về pháp chứng đắc viên thông, Ngài chọn Pháp môn niệm Phật là pháp môn thù
thắng hơn cả.
Trong chương này, Bồ Tát Đại Thế Chí dạy
rất rõ về Phương pháp niệm Phật.
5.
Kinh Niệm Phật Ba La Mật
Một thời Đức Phật ở núi Kỳ Xà Quật nơi
thành Vương Xá cùng chúng hội. Có vô lượng Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, trời
người mà thuyết pháp.
Bấy giờ trong pháp hội có vị trưởng giả
tên là Diệu Nguyệt quỳ xuống chấp tay bạch Phật:
- Bạch đức Thế Tôn! Đức Phật thị hiện ra
đời đem pháp mầu chỉ dạy chúng sanh tu tập thoát khổ được vui. Pháp của Phật có
đến tám vạn bốn ngàn pháp môn.
- Trong tám vạn bốn ngàn pháp môn đó cầu
xin Đức Phật chỉ cho con, chúng hội hiện tại và thời mạt pháp về sau một pháp
môn nào thù thắng, vi diệu, nhưng lại dễ tu, dễ chứng, phù hợp với mọi trình độ
căn cơ chúng sanh, một đời giải thoát, sớm thành Phật đạo!
Trưởng giả Diệu Nguyệt vừa bạch xong thì
trời đất chấn động. Đức Phật tán thán ca ngợi trưởng giả và hứa khả lời thỉnh
cầu này.
Liền đó Đức Phật nói Kinh Niệm Phật Ba La
Mật. Dạy phương pháp niệm Phật rốt ráo để sớm được giải thoát giác ngộ.
SỰ
THÙ THẮNG, TRANG NGIÊM CỦA CÕI CỰC LẠC
Cõi Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di
Đà rất thù thắng, trang nghiêm. Sau đây, chúng ta tìm hiểu sự thù thắng trang
nghiêm ấy qua những ý sau:
1.
Thế giới
Thế giới Cực Lạc được tạo thành từ bảy
chất báu là vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách. Thế giới rộng
lớn, bằng phẳng. Nhà cửa toàn là những cung vàng, điện ngọc, đền đài, lâu các rất
nguy nga tráng lệ. Khắp nơi có những ao sen báu nước trong mát đủ tám công đức (1
trong trẻo sạch sẽ, 2 thanh tịnh mát mẽ, 3 Vị ngon ngọt, 4 nhẹ nhàng mềm mại, 5
nhuần nhị mượt mà, 6 yên ổn điều hòa, 7 trừ được họa hoạn đói khát, 8 uống vào
tăng trưởng thiện căn), có những vườn cây đẹp, có nhiều tòa tháp cao to lộng
lẫy để cho mọi người vui chơi giải trí.
Ở đây không có bốn mùa xuân hạ thu đông,
không khí luôn ôn hòa ấm áp, mát mẻ. Khắp nơi, gió thổi, nước chảy, cây rung
đều phát ra những tiếng hay vi diệu, hoặc phát ra những tiếng pháp như tiếng
niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, hay pháp Tứ đế, Lục độ v.v… làm cho tâm người
thoải mái, an lạc, tăng trưởng thiện căn. Khắp cả thế giới, ngày đêm trên hư
không tự nhiên rải những hoa quý đẹp để trang nghiêm thế giới, khi hoa cũ héo
thì hoa tự ẩn đi trên hư không lại rải hoa mới.
2.
Con người
Người ở cõi Cực Lạc rất trang nghiêm đẹp
đẽ, ai cũng có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, thân tỏa hào quang, trí
tuệ sáng suốt.
Ở đây, ai cũng có thần thông tự tại; mắt
thấy khắp mười phương thế giới, tai nghe khắp mười phương thế giới, trong một
giây có thể đi khắp mười phương thế giới, ý biết hết tâm niệm mười phương chúng
sanh, lại còn biết những chuyện quá khứ, hiện tại, vị lai trong vô lượng vô số
kiếp.
Đặc biệt, thọ mạng của người ở cõi Cực
Lạc sống lâu vô lượng, vô biên, vô số kiếp. Trong Kinh Vô Lượng Thọ ví dụ, ví
như có vô số, vô lượng chúng sanh đều chứng thánh quả, vô lượng thánh chúng này
dùng thần thông trãi qua vô lượng vô số kiếp tính đếm tuổi thọ của người ở cõi
Cực Lạc cũng tính không hết.
3.
Sinh hoạt
Người ở cõi Cực Lạc ở trong những tòa lâu
đài, cung điện, đài các được tạo thành từ bảy chất báu. Những tòa lâu các này
có thể hiện lớn, nhỏ hay bay đi đều tùy ý người.
Ở
đây, khi muốn ăn thì trăm ngàn món cao lương mỹ vị tùy ý người mà hiện ra trong
những chén vàng, dĩa bạc. Sau khi ăn xong thì chén bát tự ẩn đi không cần phải
rữa, cất. Khi đến giờ ăn thì cao lương, chén bát quý lại hiện ra.
Y phục cũng vậy, đều tùy ý người mà hiện
ra trăm ngàn muôn thứ nào là lụa là, gấm vóc muôn màu, lại còn có vô số đồ
trang sức quý báu cho người chọn lựa.
Ở đây, con người không còn phải làm việc
vất vả, suốt ngày chỉ an nghĩ, vui chơi, nghe pháp, tu tập. Lại còn dùng thần
thông bay đi cúng dường mười phương chư Phật, chư đại Bồ Tát và giáo hóa chúng
sanh, xong việc trong tích tắc liền trở về Cực Lạc. Cuộc sống ở đây thanh nhàn,
thoải mái, an lạc nên gọi là Cực Lạc.
Cực Lạc là một thế giới huy hoàng, lộng
lẩy, rực rỡ, tráng lệ, trang nghiêm, thanh tịnh, an lạc không còn một thế giới
nào sánh bằng. Cõi Cực Lạc so với thế gian chúng ta đang ở thì chẳng khác gì một
trời một vực.
Ở thế gian này, thế giới được tạo thành
bằng đất, đá, bùn lầy. Lại còn nhiều sự ngăn ngại như núi non hiểm trở, sông
ngòi ngăn cách. Thế giới này còn nhiều tai họa nguy hiểm như mưa bảo, lũ lụt,
sống thần, động đất, núi lửa. Đây là những tai họa do thiên nhiên gây ra, còn
những tai họa do con người gây ra như ô nhiễm môi trường, trộm cướp, chiến
tranh v.v... Thế giới này dơ xấu, nguy hiểm như vậy nên trong kinh Đức Phật nói
thế giới này như nhà lửa, ngục tù.
Ở
thế giới này, con người do chiêu cảm
phiền não, nghiệp chướng nên mang thân hình
xấu xí như cao, thấp, ốm, mập, tật nguyền, đui, điếc, câm, ngọng. Thân
mang nhiều thứ bệnh tật như hen suyển, ung thư, cùi hủi v.v… rất đau khổ. Thân
đã xấu, tâm tánh con người lại còn xấu hơn, tâm con người đầy dẫy sự tham lam,
sân hận, si mê. Vì vậy mà sinh ra nhiều ác độc như tàn hại, cướp bóc, chiến
tranh làm cho con người đã khổ lại còn khổ thêm.
Về cuộc sống, vì sự ăn mặc mà con người
phải lam lũ, cực khổ thức khuy dậy sớm để làm việc. Nhiều người phải đạp xích
lô, bán vé số cả ngày cũng không đủ nuôi thân. Có người tệ hơn, phải lang thang
ăn xin đầu đường xó chợ, bữa đói bữa no, áo quần rách rưới, đêm đông giá lạnh
không nhà để ở, không mềm để đắp nên phải bỏ thân ở góc chợ, vỉa hè thật là tội
nghiệp.
Thế gian này đầy đẫy sự xấu xa, ác độc, đau
khổ. Cõi Cực Lạc trang nghiêm, thanh tịnh, thuần thiện, an lạc. Vậy chúng ta
phải sớm tỉnh ngộ phát tâm tu hành, niệm Phật để thoát ra khỏi cảnh trần lao khổ
lụy này, sớm vãng sanh về miền Cực Lạc giải thoát an vui.
TRÍCH
DẪN NHỮNG ĐOẠN KINH ĐỨC PHẬT DIỄN TẢ SỰ THÙ THẮNG TRANG NGHIÊM CÕI CỰC LẠC
Ở
trên, chúng tôi y cứ trong kinh, theo những lời Đức Phật chỉ dạy về thế giới
Cực Lạc mà diễn tả lại sự thù thắng trang nghiêm của cõi ấy. Nhưng để cho rõ
ràng, chính xác, sự thật làm tăng trưởng niềm tin cho quí độc giả. Vậy chúng
tôi sẽ trích dẫn những đoạn kinh Đức Phật nói về sự thù thắng của cõi Cực Lạc.
1.
Trích Kinh A Di Đà:
Bấy
giờ đức Phật bảo ngài Trưởng lão Xá Lợi Phất rằng: Từ đây qua phương Tây quá
mười muôn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc, trong thế giới đó có Đức
Phật hiệu là A Di Đà hiện nay đương nói pháp.
Xá
Lợi Phất! Cõi đó vì sao tên là Cực lạc?
Vì
chúng sanh trong cõi đó không có bị những sự khổ, chỉ hưởng những điều vui, nên
nước đó tên là Cực Lạc.
Xá
Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có bảy từng bao lơn, bảy từng mành lưới, bảy
từng hàng cây, đều bằng bốn chất báu bao bọc giáp vòng, vì thế nên nước đó tên
là Cực Lạc.
Xá
Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có ao bằng bảy chất báu, trong ao đầy dẫy nước
đủ tám công đức, đáy ao thuần dùng cát vàng trải làm đất.
Vàng
bạc, lưu ly, pha lê hiệp thành những thềm, đường ở bốn bên ao; trên thềm đường
có lầu gác cũng đều nghiêm sức bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích
châu, mã não.
Trong
ao có hoa sen lớn như bánh xe: hoa sắc xanh thời ánh sáng xanh, sắc vàng thời
ánh sáng vàng, sắc đỏ thời ánh sáng đỏ, sắc trắng thời ánh sánh trắng, mầu
nhiệm thơm tho trong sạch…
Xá
Lợi Phất! Lại trong cõi nước của đức Phật đó, thường trổi nhạc trời, đất bằng
vàng ròng, ngày đêm sáu thời rưới hoa trời mạn đà la.
Chúng
sanh trong cõi đó thường vào lúc sáng sớm, đều lấy đảy hoa đựng những hoa tốt
đem cúng dường mười muôn ức Đức Phật ở phương khác, đến giờ ăn liền trở về bổn
quốc ăn cơm xong đi kinh hành…
Xá
Lợi Phất! Trong cõi nước của Đức Phật đó, gió nhẹ thổi động các hàng cây báu và
động mành lưới báu, làm vang ra tiếng vi diệu, thí dụ như trăm nghìn thứ nhạc
đồng một lúc hòa chung.
Người
nào nghe tiếng đó tự nhiên đều sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Xá
Lợi Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy…
Xá
Lợi Phất! Đức Phật đó và nhân dân của Ngài sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ
kiếp, nên hiệu là A Di Đà…
Xá
Lợi Phất! Lại trong cõi cực lạc, những chúng sanh vãng sanh vào đó đều là bực
bất thối chuyển.
2. Trích Kinh Vô Lượng Thọ:
Cõi
nước của đức Phật ấy, tự nhiên thất bảo: vàng, bạc, lưu ly, san hô, hổ phách,
xa cừ, mã não hiệp làm thành đất rộng lớn vô hạn. Bảy báu ấy xen lẫn nhau chói
sáng đẹp lạ trang nghiêm thanh tịnh hơn cả những tinh túy châu bảo của tất cả
thế giới. Thất bảo ấy như thất bảo của cung trời thứ sáu.
Lại
quốc độ ấy không có núi Tu Di, núi Kim Cương, núi Thiết Vi, tất cả các núi,
cũng không có biển lớn, biển nhỏ, sông ngòi hang giếng. Do thần lực của Phật,
ai muốn thấy thì được thấy, quốc độ ấy cũng không có địa ngục, ngạ quỷ, súc
sanh, không có bốn mùa xuân hạ thu đông. Chẳng lạnh chẳng nóng, thường ôn hòa
điều thích…
Ðức
Phật phán: “Nầy A Nan! Ðức Phật Vô Lượng Thọ oai thần quang minh tối tôn đệ
nhất, quang minh của chư Phật chẳng bằng. Quang minh của Ngài hoặc chiếu trăm
thế giới, ngàn thế giới, nhẫn chiếu đến chiếu suốt hằng sa thế giới chư Phật ở
phương Ðông, chín phương kia cũng vậy…
Lại
nầy A Nan! Ðức Phật Vô Lượng Thọ thọ mạng dài lâu chẳng nói kể được. Ông biết
không, giả sử vô lượng chúng sanh ở trong thế giới mười phương đều được thân
người và đều làm cho thành tựu bực Thanh Văn, Duyên Giác đồng hội họp thiền
định nhứt tâm hết sức trí huệ của họ trải năm ngàn muôn kiếp cùng suy tính số
năm kiếp thọ mạng dài lâu của đức Phật ấy cũng chẳng biết cùng tận được.
Chúng
Bồ Tát, Thanh Văn và hàng thiên nhơn ở quốc độ An Lạc ấy thọ mạng dài lâu cũng
như vậy, chẳng phải tính đếm hay dùng thí dụ mà biết được…
Lại
nầy A Nan! Trong cõi nước An Lạc, những cây bảy báu đầy khắp cả nước: những cây
vàng, cây bạc, cây lưu ly, cây pha lê, cây san hô, cây mã não, cây xa cừ. Hoặc
có những cây hai thứ báu, ba thứ báu, nhẫn đến bảy thứ báu hiệp chung làm
thành…
Này
A Nan! Ðế Vương trong đời có trăm ngàn âm nhạc, từ Chuyển Luân Thánh Vương nhẫn
đến cõi trời thứ sáu Ðại Tự Tại Thiên, âm nhạc tuần tự hơn nhau ngàn ức muôn
lần.
Muôn thứ âm nhạc trên Trời Ðại Tự Tại chẳng
bằng một thứ âm thanh nơi những cây bảy báu ở nước An Lạc của đức Vô Lượng Thọ
Phật, âm thanh nầy còn hơn ngàn ức lần.
Cõi nước An Lạc cũng có muôn thứ tự nhiên âm
nhạc. Tiếng nhạc ấy không tiếng nào chẳng phải là tiếng pháp trong trẻo rõ ràng
vi diệu hòa nhã, là đệ nhứt trong những âm thanh ở các thế giới mười phương.
Ở
nước An Lạc, những giảng đường, tinh xá, cung điện, lâu đài đều toàn bảy báu
trang nghiêm tự nhiên hóa thành. Lại còn có chơn châu, minh nguyệt châu, châu
ma ni, và các châu báu làm thành dây hoa giăng che phía trên nhà.
Bốn phía nhà có những ao tắm bằng bảy báu hoặc
rộng mười do tuần hoặc rộng hai mươi, ba mươi, nhẫn đến hoặc rộng trăm ngàn do
tuần, ngang rộng sâu cạn đều riêng một thứ. Trong ao, nước bát công đức lặng
đầy trong thơm, mùi vị như cam lộ…
Trên bờ những ao tắm ấy, có cây chiên đàn hoa
lá rũ rợp mùi thơm khắp nơi.
Những
hoa sen xanh, những hoa sen vàng, hoa sen đỏ, hoa sen trắng cõi trời màu nào
ánh sáng màu ấy đẹp sáng che trên mặt nước.
Chúng
Bồ Tát, Thanh Văn và trời, người nước ấy lúc vào ao báu, nếu ý muốn nước ngập
bàn chân, thì nước ngập bàn chân, ý muốn nước ngập gối thì nước ngập gối, ý
muốn nước đến lưng thì nước đến lưng, ý muốn nước đến cổ thì nước đến cổ, ý
muốn nước xối trên thân thì nước liền tự nhiên xối trên thân, ý muốn nước trở
lại như cũ thì nước trở lại như cũ, điều hòa ấm mát tự nhiên theo đúng ý muốn
của người tắm. Tắm xong, thân thể thơ thới, tinh thần cởi mở, phiền não tiêu
trừ trong sạch sáng suốt nhẹ nhàng như là không có thân.
Các
báu ở đáy ao chói suốt sâu bao nhiêu cũng chiếu thấu lên trên.
Sóng
gợn lăn tăn an tường lan đi chẫm rãi không mau không chậm, tự nhiên vang lên vô
lượng âm thanh vi diệu, tùy theo người đáng nên nghe thế nào thì đều được nghe:
Hoặc
nghe tiếng niệm Phật, hoặc nghe tiếng diệu pháp, hoặc nghe tiếng ca ngợi Bồ Tát
Tỳ Kheo Tăng, hoặc nghe tiếng tịch tịnh, hoặc nghe tiếng không vô ngã, hoặc
nghe tiếng đại từ bi, hoặc nghe tiếng Ba la mật, tiếng thập lực, tiếng vô úy,
tiếng pháp bất cộng, tiếng thần thông, tiếng trí huệ, tiếng vô sở tác, tiếng
bất sanh bất diệt, tiếng vô sanh nhẫn, cho đến tiếng cam lộ quán đảnh, và những
tiếng diệu pháp khác.
Những
âm thanh như vậy đến xứng theo ý người nghe làm cho vui mừng vô lượng, thuận
theo nghĩa ly dục thanh tịnh chơn thiệt tịch diệt, thuận theo Tam bảo, lực, vô
úy, pháp bất cộng, thuận theo đạo sở hành của các bực Bồ Tát, Thanh Văn.
Nước
An Lạc ấy không có tên tam đồ khổ nạn, chỉ có âm thanh vui thích tự nhiên, vì
thế nên nước ấy được tên là An Lạc.
Nầy
A Nan! Nơi quốc độ An Lạc của đức Vô Lượng Thọ Phật, những người sanh về đó có
đủ sắc thân thanh tịnh, các âm thanh vi diệu, thần thông công đức như vậy. Cung
điện của họ ở, những thứ y phục, uống ăn, hoa hương và đồ trang nghiêm đều như
là những vật ở cung Trời Ðại Tự Tại thứ sáu.
Người
nước ấy muốn ăn, chén bát bảy báu tự nhiên hiện ra, những là chén bát bằng
vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, minh nguyệt, chơn châu đều
theo đúng ý muốn mà hiện đến, thức uống ăn trăm vị thơm ngon tự nhiên đầy trong
chén bát ấy.
Dầu cho những thức uống ăn như vậy mà không có
ai ăn. Chỉ thấy sắc ngửi mùi ý cho là ăn thì liền tự nhiên no đủ, thân tâm nhu
nhuyến không hề tham luyến. Xong rồi tất cả biến mất, đến giờ lại hiện ra.
Nầy
A Nan! Cõi nước của đức Phật ấy thanh tịnh an ổn khoái lạc vi diệu kế đạo vô vi
Niết bàn…
Nầy
A Nan! Ở nước An Lạc, trời người có những y phục, uống ăn, hoa hương, chuỗi
ngọc, phan, lọng, âm thanh vi diệu, cung điện, nhà cửa, lâu đài đều cân xứng
theo thân hình cao thấp lớn nhỏ của họ. Hoặc một báu, hai báu, nhẫn đến vô
lượng thứ báu tùy theo ý họ muốn mà hiện đến.
Nước
ấy lại có gấm lụa vi diệu trải trên đất báu, trời người nước ấy đi trên đó.
Nước
An Lạc ấy được giăng che với vô lượng màng lưới báu bằng chỉ vàng xỏ chơn châu
và trăm ngàn thứ châu báu trân diệu đẹp lạ xen lẫn trang nghiêm. Bốn phía thòng
rũ những cái linh báu. Màu sắc, ánh sáng rất mực nghiêm lệ.
Gió công đức tự nhiên thổi động nhẹ. Gió đó điều hòa,
chẳng lạnh chẳng nóng, ấm mát dịu dàng thổi đến màng lưới báu và những cây báu
phát ra vô lượng pháp âm vi diệu, thoảng phất muôn thứ hương thơm công
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét