đức
ấm áp. Ai được nghe thì phiền não trần lao tự nhiên chẳng phát khởi. Gió chạm
đến thân thì đều được khoái lạc như Tỳ Kheo nhập diệt tận định.
Lại
gió thổi hoa rơi khắp mọi nơi trong nước ấy, theo màu hoa có thứ lớp chẳng tạp
loạn. Những hoa ấy mềm dịu chói sáng hơi thơm ngào ngạt. Chân đi giẫm lên hoa
lún xuống bốn tấc, vừa dở chân hoa trở lại như cũ. Việc dùng của hoa đã xong,
đất tự nứt ra, hoa theo đó ẩn mất sạch hết không còn sót. Tùy theo thời tiết,
gió thổi rải hoa rơi trải mặt đất báu ngày đêm sáu lần như vậy.
Lại
có những hoa sen báu khắp cả nước ấy. Mỗi đóa hoa sen báu có trăm ngàn ức cánh,
vô lượng màu sắc chói sáng. Hoa sắc xanh ánh sáng xanh, hoa sắc trắng ánh sáng
trắng, vàng đỏ tím huyền, màu nào sáng ấy rực rỡ hơn cả mặt trời, mặt trăng.
Trong mỗi đóa hoa sen phát ra ba mươi sáu trăm ngàn ức tia sáng, trong mỗi tia
sáng hiện ra ba mươi sáu trăm ngàn ức Phật thân màu vàng tử kim đủ những tướng
tốt. Mỗi đức Phật lại phóng trăm ngàn ánh sáng khắp vì mười phương mà nói pháp
vi diệu. Chư Phật ấy đều gầy dựng vô lượng chúng sanh ở nơi chánh đạo…
Nầy
A Nan! Bồ Tát nước An Lạc thừa oai thần của đức Vô Lượng Thọ Phật, khoảng thời
gian một bữa ăn, đi đến vô lượng thế giới mười phương cung kính cúng dường chư
Phật Thế Tôn, theo ý nghĩ của họ, những món cúng dường như hoa, hương, kỹ nhạc,
y phục, phan lọng, vô số vô lượng thứ tự nhiên hóa hiện ra, tất cả đều trân quý
vi diệu thế gian chẳng có được. Chư Bồ Tát ấy liền đem rải lên cúng dường chư
Phật và chư Bồ Tát Thanh Văn. Những thứ ấy ở trên không hóa thành lọng hoa xinh
đẹp sáng chói tỏa hương thơm khắp nơi. Lọng hoa ấy chu vi bốn trăm dặn, rồi lần
lần lớn gấp bội cho đến trùm khắp cõi Ðại Thiên, sau đó tuần tự ẩn mất.
Chư
Bồ Tát đều vui mừng thăng lên hư không đồng tấu thiên nhạc, dùng âm thanh vi
diệu ca ngợi công đức của chư Phật, lắng nghe kinh pháp vui mừng vô lượng. Cúng
dường chư Phật xong, bỗng nhiên nhẹ nhàng bay về bổn quốc An Lạc vẫn còn trước
giờ ăn.
Nầy
A Nan! Lúc đức Vô Lượng Thọ Phật ban pháp ngữ cho hàng Trời, Người, Thanh Văn,
Bồ Tát thì đều vân tập tại thất bửu giảng đường. Thính chúng được nghe diệu
pháp không ai là chẳng khai ngộ vui mừng. Liền đó bốn phương tự nhiên gió nhẹ
thổi động những cây thất bửu phát ra ngũ âm. Vô lượng hoa đẹp theo gió bay tứ
tán để cúng dường bất tuyệt.
Tất cả hàng chư Thiên đều mang trăm ngàn thứ
hoa hương cõi trời và muôn thứ kỹ nhạc trời cúng dường đức Phật ấy cùng Bồ Tát,
Thanh Văn. Rải hoa hương khắp nơi, hòa tấu âm nhạc, chư Thiên hàng hàng lớp lớp
trước sau qua lại, vẹt tránh lẫn nhau. Trong lúc ấy, tất cả đều sung sướng
khoái lạc chẳng thể nói được.
ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC SANH VỀ CÕI TÂY
PHƯƠNG CỰC LẠC
Muốn
được sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc, người niệm Phật phải có đủ ba điều kiện,
thường gọi là Tư lương Tịnh độ. Ba điều kiện này là Tín, Hạnh và Nguyện. Ba
điều này rất quan trọng, giống như kiềng ba chân, thiếu một chân thì không đứng
vững được. Cũng giống như người đi đường, chuẩn bị một chuyến đi xa mà không có
tư lương hay thiếu tư lương thì không thể đi được, nếu có đi thì cũng không đến
nơi. Nên trước khi đi phải chuẩn bị tư lương (hành trang) cần thiết như như
tiền bạc, áo quần, thức ăn v.v… Người tu Tịnh độ cũng vậy muốn được vãng sanh về
Cực Lạc thì phải đủ ba điều kiện Tín, Hạnh và Nguyện. Ba điều kiện này không
có, thì dù có tu cũng chỉ tạo duyên phước lành mà thôi chứ không thể vãng sanh.
1. Tín
Tín là lòng tin, đức tin. Lòng tin rất quan
trọng, làm một việc gì mà ta không có lòng tin thì sự việc sẽ không thành công,
tại sao vậy? Vì ta không tin nên ta không làm, nếu có làm đi nữa thì chỉ làm
qua loa, làm lấy lệ thì làm sao mà thành công được.
Người
tu Tịnh độ cũng vậy, trước hết chúng ta phải có niềm tin ở pháp môn mình đang
tu. Ta phải có đức tin chắc chắn không phân vân, nghi ngờ, do dự dù có người
bài bác, dụ dỗ, xuyên tạc hay dùng tiền bạc, danh vọng, sức mạnh quyền lực để
ép buộc chúng ta bỏ niềm tin này ta cũng không bỏ, cho dù có mất mạng. Tin như
vậy mới gọi là đức tin chắc chắn, đức tin bất động không có gì lay chuyển. Chúng
ta có đức tin như vậy thì lo gì sự tu tập không thành công, lo gì không vãng
sanh Cực Lạc.
Lòng
tin cũng có nhiều khía cạnh, sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu những khía cạnh của
lòng tin.
a. Tin Phật
Thứ
nhất chúng ta tin Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, Ngài là bậc Vô thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác có trí huệ cao siêu, tâm từ bi vô hạn. Trong vũ trụ hư không
này không có gì Ngài không thấy, không biết. Với tâm từ bi bao la rộng lớn,
thấy sanh linh chìm đắm đau khổ trong biển khổ sanh tử luân hồi, nên Ngài thị hiện
ra đời, đem pháp mầu chỉ dạy chúng sanh, để chúng sanh tu tập thoát khổ được
vui. Đặc biệt Ngài đem Pháp môn Tịnh độ thù thắng chỉ dạy cho chúng ta tu tập
một đời giải thoát, sớm thành Phật đạo. Chúng ta tin Đức Phật Thích Ca, tin
giáo pháp của Ngài, vì Ngài là bậc chân thật ngữ không bao giờ nói dối. Ta tin
Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni tất nhiên là tin Pháp môn Tịnh độ mà Ngài nói
ra.
Thứ
hai chúng ta tin đức Phật A Di Đà. Với tấm long từ bi bao la rộng lớn, Ngài
phát 48 đại nguyện thành lập một thế giới trang nghiêm, thù thắng, vi diệu, an
lạc để độ chúng sanh. Ta tin đức Phật A Di Đà là vị Phật có thật, vị Phật được
Đức Phật Bổn Sư giới thiệu, Ngài làm giáo chủ ở Cõi Tây Phương Cực Lạc. Ngài ở
Cực Lạc nhưng Ngài thường hóa thân đến khắp mười phương thế giới để độ chúng
sanh, tiếp dẫn người niệm Phật về thế giới của Ngài. Chúng ta có niềm tin chắc
thật nơi Đức Phật A Di Đà, tâm luôn hướng về Ngài cầu Ngài gia hộ và tiếp dẫn
chúng ta về thế giới của Ngài.
b. Tin pháp
Tin
pháp là tin giáo pháp Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni nói ra. Giáo pháp này có
công năng cứu khổ chúng sanh, đưa chúng sanh từ bến mê đến bờ giải thoát, giác
ngộ. Giáo pháp của Phật được kết tập lại thành ba tạng là Kinh, Luật và Luận.
Trong tạng Kinh có những Kinh dạy về Pháp môn Tịnh độ như: Kinh A Di Đà, Kinh
Vô Lượng Thọ, Kinh Quán Vô Lượng Thọ v.v… Chúng ta tin giáo pháp của Phật đương
nhiên là tin Kinh A Di Đà, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Quán Vô Lượng Thọ.
Chúng
ta tin cõi Tây Phương Cực Lạc là có thật, một thế giới trang nghiêm, thanh tịnh
được Đức Phật diễn tả rất rõ trong Kinh A Di Đà và Kinh Vô Lượng Thọ.
Trong
Kinh Đức Phật diễn tả cõi Tây Phương Cực Lạc có những sự trang nghiêm, thù
thắng như: Ở đây không có tam đồ ác đạo, không có cảnh sanh tử luân hồi, đau
khổ. Mọi người toàn hưởng những điều vui. Tất cả mọi thứ như nhà cửa, ăn mặc
đều tùy tâm ý của người mà có. Dung sắc rất đẹp, ai cũng có thần thông, trí
huệ. Ta tin cõi Tây Phương Cực Lạc có những sự thù thắng này, và tin mình ứng
dụng, tu tập pháp này sẽ được vãng sanh về cõi Cực Lạc.
Chúng
ta tin Pháp môn Tịnh độ là pháp dễ tu, dễ chứng, là pháp môn tu tắt một đời có
thể đưa chúng ta từ phàm phu đến quả vị Thánh. Chúng ta tin niệm Phật A Di Đà
thì sẽ được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Tin niệm Phật sẽ được Phật tiếp
dẫn, sẽ được vãng sanh, được giải thoát, sớm được thành Phật. Chúng ta phải có
niềm tin chắc thật như vậy, và quyết chí hạ thủ công phu tu tập, quyết một đời
này vãng sanh Cực Lạc không còn do dự, chần chờ.
b. Tin bản thân mình
Đức
Phật thường nói: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”. Khi thành
đạo dưới cội Bồ Đề Đức Phật cũng thốt lên rằng: “Tất cả chúng sanh đều có đầy
đủ đức tướng, trí huệ Như Lai”. Đức Phật đã khẳng định như vậy tại sao chúng ta
lại tự khinh mình.
Vậy
chúng ta tin mình có Chân Tâm, Phật Tánh, tin mình tu tập sẽ thành Phật. Tin
mình có sức mạnh, ý chí dũng mãnh, tin mình sẽ vượt qua được những khó khăn trở
ngại. Chúng ta xác quyết niềm tin như vậy và bắt đầu hạ thủ công phu tu tập,
quyết buông bỏ tất cả thế gian, tâm chuyên nhất vào sự tu tập, hàng ngày đi,
đứng, nằm ngồi đều niệm Phật, tâm chuyên nhất vào danh hiệu Đức Phật A Di Đà
không hề xao lãng. Ta tin được như vậy, làm được như vậy thì lo gì sự tu tập
không thành công, không giải thoát, không vãng sanh Cực Lạc.
Lại
còn hai khía cạnh đức tin nữa là tin Lý và tin Sự.
a. Tin lý
Các
vị tổ sư thường nói: “Tự Tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ”. Thật vậy, tự tánh của
chúng sanh vốn là Phật. Chân tâm, bản tánh của chúng sanh đồng với Đức Phật
Thích Ca, Đức Phật A Di Đà không khác. Bây giờ chúng ta tin chân tâm của mình
chính là Phật A Di Đà của mình.
Tất
cả mọi loài, mọi cảnh giới đều xuất phát từ tâm. Nếu tâm ô uế, bất tịnh, độc ác
sẽ làm thân địa ngục, ngạ qủy, súc sanh. Môi trường sống lúc này là những cảnh
giới xấu xa, đen tối, đau khổ như cảnh địa ngục bị sự hành hạ, tra tấn. Cảnh
ngạ quỷ bị đói khát dày vò. Cảnh súc
sanh ăn nuốt lẫn nhau. Nếu tâm hiền lành, lương thiện luôn giúp đỡ mọi người,
luôn làm cho mọi người vui vẻ, hạnh phúc thì sẽ được làm thân người, thân trời.
Môi trường sống là cảnh giới yên bình, hạnh phúc hay ở thiên
cung thọ hưởng phước trời. Còn tâm thanh tịnh, trong sạch, tâm đại từ, đại bi
luôn thương yêu, cứu độ mọi loài chúng sanh thì sẽ làm Bồ Tát, làm Phật. Cảnh giới lúc này là Niết Bàn giải thoát hay
miền Cực Lạc an vui. Nói chung mọi loài, mọi cảnh giới trang nghiêm hay bất
tịnh, đau khổ hay an lạc đều bắt nguồn từ tâm.
Cõi
Tây Phương Cực Lạc cũng chính từ tâm nguyện đại từ, đại bi của Đức Phật A Di Đà
hiện ra. Ngài thương chúng sanh chìm đắm trong sông mê, biển khổ nên phát ra 48
lời đại nguyện thành lập Tịnh độ để cứu độ chúng sanh.
Tin
lý là chúng ta tin tâm mình, tin tất cả đều từ tâm biến hiện, địa ngục cũng từ
tâm mà cực lạc cũng từ tâm. Vậy muốn cho mình được an lạc, giải thoát thì chúng
ta phải quay trở về Chơn tâm, trở về Tự tánh Di Đà của mình. Một khi chúng ta
đã trở về Chơn tâm, Tự tánh Di Đà của chính mình thì đó chính là Tịnh độ, là
Cực Lạc.
b. Tin sự
Tuy nói: “Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh
độ”, nhưng nhìn lại mình, ta vẫn là phàm phu, vẫn còn mê muội, vẫn còn ở trong
cõi ngũ dục (tài sắc, danh lợi, ăn uống, ngủ nghỉ), lục trần (sắc, thanh,
hương, vị, xúc và pháp trần). Chúng ta không thể ngồi không mà thành Phật thành
Tổ, không thể ngồi không mà hưởng cảnh Niết Bàn, Cực Lạc. Từ vô thỉ kiếp đến
nay ta bị vô minh, phiền não, nghiệp chướng che đậy, trói buộc, đọa đày làm cho
trôi lăn, đau khổ trong sanh tử luân hồi. Bây giờ muốn giải thoát, giác ngộ ta
phải tẩy trừ chúng, muốn tẩy trừ chúng phải siêng năng, tinh tấn tu tập.
Trong tám vạn bốn ngàn pháp môn tu tập,
có Pháp môn Tịnh độ là pháp môn thù thắng, vi diệu dễ tu, mau chứng, sớm giải
thoát, sớm thành Phật. Chúng ta tin tưởng và ứng dụng tu tập, siêng năng tinh
tấn niệm Phật thì sẽ thành công, sẽ được vãng sanh Cực Lạc.
Nói: “Tự tánh Di Đà duy tâm Tịnh độ”
nhưng thực sự mấy ai đã sống được với tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ của mình.
Chúng ta đang sống trong đối đãi, sống trong thế giới ngũ trược khổ đau này.
Thân chúng ta phải chịu cảnh sanh, lão, bệnh, tử làm cho đau khổ. Lại thế giới
này lắm điều tai họa như thiên tai, chiến tranh v.v… Đức Phật A Di Đà thương
chúng sanh, nên thành lập cõi Tịnh độ ở phương Tây, để tiếp rước chúng sanh về
thế giới của Ngài hưởng sự an lạc, giải thoát. Chúng ta phải tin Đức Phật A Di
Đà, tin cõi Tây Phương Cực Lạc, và niệm Phật phát nguyện vãng sanh, để sớm
thoát kiếp khổ đau sanh tử luân hồi này.
Chư Phật, chư Bồ Tát, chư vị Thánh nhân,
chư Đại Đức Tăng Ni luôn luôn tha thiết kêu gọi chúng ta tu tập, niệm Phật để
được vãng sanh về Cực Lạc.
Các ngài còn nói, nếu như chúng sanh cố
chấp mà tu, thì thà chấp Sự mà tu còn tốt hơn chấp Lý. Vì người chấp Sự họ thấy
đây kia đối đãi, thấy thiện thấy ác, thấy có tu tập, thấy cõi Ta Bà đau khổ,
cõi Cực Lạc an vui. Do họ thấy, họ chấp như vậy nên họ cố gắng tu tập tránh ác làm
lành, siêng năng niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh độ.
Lại các Ngài sợ người tu chấp Lý, làm
chướng ngại sự tu tập, sự vãng sanh nên các Ngài dạy tiếp: Người học rộng biết
nhiều, suốt ngày tìm chương trích cú, lại đi tìm học những pháp cao siêu rồi
cho mình là hay giỏi, tu tập hơn người. Đâu bằng các ông già bà cả chỉ biết tin
tưởng niệm một câu Nam Mô A Di Đà Phật, cầu vãng sanh tịnh độ. Tuy đời này họ
là phàm phu cái gì cũng không biết, nhưng đời sau họ là Thánh nhân, là Bồ Tát
làm thầy trời người. Còn người học rộng biết nhiều, rồi dương dương tự đắc,
khinh khi mọi người, xem thường người ít học. Đây chính là nhân làm chướng ngại
sự tu tập, giải thoát của chính mình.
Người chấp Lý, đây là một bệnh rất nặng hết
phương cứu chữa. Suốt ngày họ nói chơn tâm, Phật tánh, nói những giáo lý cao
siêu nhưng chỉ nói trên đầu môi chót lưỡi. Nếu ai đụng tới lòng tự ái thì tham,
sân, si nổi lên đùng đùng. Có người khuyên niệm Phật thì họ nói: tự tánh của ta
là Phật A Di Đà, chơn tâm của ta là Tịnh độ, là Cực Lạc cần gì phải niệm Phật
cho mệt. Những người này, họ tự đóng, tự ngăn cản con đường tu tập, con đường
vãng sanh của chính mình.
2.
Hạnh
Hạnh là thực hành, là ứng dụng tu tập.
Sau khi chúng ta hiểu và tin Pháp môn tịnh độ rồi, chúng ta bắt đầu ứng dụng tu
tập, nghĩa là hàng ngày, đi, đứng, nằm, ngồi đều chuyên tâm niệm Phật.
Hình thức tu tập có nhiều cách như, lễ
Phật, sám hối, tụng kinh, niệm Phật, tỉnh tọa, bố thí, cúng dường, làm tất cả
việc lành v.v…
Hạnh cũng được chia làm hai là Chánh hạnh
và Trợ hạnh.
a.
Chánh hạnh
Chánh là phần chính yếu, quan trọng, là
gốc. Chánh hạnh của người tu Pháp môn Tịnh độ là chuyên tâm niệm Phật. Hàng
ngày, đi, đứng, nằm ngồi tất cả mọi thời, mọi oai nghi, cử chỉ đều phải niệm
Phật. Ở chỗ sạch sẽ, thanh tịnh, trang nghiêm thì niệm lớn. Ở chỗ ô uế, bất
tịnh thì niệm nhỏ, niệm thầm. Nói chung, tất cả mọi thời đều phải luôn luôn
niệm Phật. Đây là công hạnh tu tập chính yếu của hành giả tu tập Pháp môn Tịnh
độ.
b.
Trợ hạnh
Trợ là phụ, giúp cho phần chánh. Trợ hạnh
là những công hạnh tu tập phụ giúp cho phần Chánh hạnh sớm thành công, sớm có
kết quả. Trợ hạnh là những việc làm lành như: Cúng dường, bố thí, phóng sanh,
giúp đỡ mọi người v.v… Nói chung là làm tất cả việc lành, việc thiện, rồi đem
những thiện căn, phước đức này hồi hướng cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc.
Hành giả tu tập Pháp môn Tịnh độ cần phải
phân biệt, nhận định được đâu là Chánh hạnh, đâu là Trợ hạnh. Chúng ta phải chú
tâm, đặt nặng vào phần Chánh hạnh. Nếu chúng ta biết kết hợp vừa làm tất cả
việc lành, nhưng trong tâm vẫn luôn niệm Phật, tâm vẫn không khi nào rời danh
hiệu Nam Mô A Di Đà Phật. Thì đây là công hạnh thù thắng, một việc làm mà lợi
cả hai, Chánh Trợ đầy đủ thì lo gì mà không vãng sanh.
3.
Nguyện
Nguyện là mong muốn, ao ước, hướng đến.
Người tu Tịnh độ phải có tâm mong muốn, ao ước sanh về Tây Phương Cực Lạc.
Chúng ta thấy cõi Ta Bà đầy dẫy sự dơ xấu
như: Bùn lầy, đất đá, chông gai, núi non hiểm trở. Thế giới này lắm điều tai
họa, nguy hiểm như: Bảo tố phong ba, lũ lụt, động đất, núi lửa, chiến tranh.
Lại còn nhiều thứ ác độc như: Rắn, rít,
cọp sói, trộm, cướp v.v... Trong Kinh Đức Phật ví dụ thế giới này như ngục tù,
nhà lửa.
Thân
người thì ô uế, bất tịnh ngày đêm rỉ tiết ra những thứ hôi thúi, bất
tịnh như: Máu, mủ, mồ hôi, tiểu tiện v.v… Lại phải chịu cảnh sanh, già, bệnh,
chết làm cho đau khổ. Còn tâm thì đầy
dẫy phiền não, vô minh, điên đảo, vọng tưởng. Nên khởi lên tham, sân, si gây
đau khổ cho mình và người.
Chúng ta thấy thế giới, con người ở đây
như vậy, nên ta nhàm chán thế giới này, nhàm chán thân bất tịnh này. Tâm lúc
nào cũng tha thiết mong muốn cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc, như con thơ lạc
mẹ, khi nào cũng mong muốn tìm về với mẹ.
Hành giả tu Pháp môn Tịnh độ, phải có tâm
tha thiết, mong muốn sanh về Tây Phương Cực Lạc như vậy. Mỗi khi công phu niệm
Phật, hay làm một việc lành gì, ta liền đến bàn Phật, trước tôn tượng Đức Phật
A Di Đà, nếu trong nhà không có thờ Phật thì ta xoay về hướng Tây mà tha thiết
phát nguyện. Nguyện rằng: Con tên… pháp
danh…, con nguyện đem công đức niệm Phật, công đức làm việc lành này hồi hướng
được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Ngưỡng mong Đức Phật A Di Đà tiếp độ,
tiếp dẫn con về Tây Phương Cực lạc. Ta có tâm tha thiết, mong muốn như vậy, có
những lời phát nguyện như vậy thì sẽ tương ưng, phù hợp, chiêu cảm với bản nguyện
độ sanh, tiếp dẫn của Đức Phật A Di Đà. Đức Phật A Di Đà sẽ gia hộ, hộ niệm
chúng ta. Đến khi lâm chung, Đức Phật A Di Đà và Thánh chúng hiện ra, tiếp dẫn
chúng ta về Cực Lạc.
Nếu người tu Tịnh độ mà không có tâm tha
thiết, mong muốn cầu sanh về Tịnh độ. Không có phát nguyện sanh về Cực Lạc, thì
dù niệm Phật có nhiều cũng không vãng sanh, chỉ hưởng phước báu nhân thiên mà
thôi.
Để hiểu rõ về Tín, Hạnh và Nguyện của
hành giả tu tập Pháp môn Tịnh độ, chúng tôi đưa ra một ví dụ cụ thể sau đây cho
dễ hiểu. Ví dụ chiếc xe.
Chiếc xe phải có thân xe, thân xe vững
chắc mới chở người, chở vật được. Cũng vậy, Tín như thân xe, có tin chúng ta
mới tu tập, có tu tập mới có kết quả.
Xe phải có động cơ và bánh xe, xe không
có động cơ và bánh thì không thể chạy. Cũng vậy, Hạnh như động cơ và bánh xe.
Chúng ta có hành trì tu tập thì mới thoát khỏi sanh tử luân hồi khổ đau, mới
được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Nếu chỉ có tin mà không ứng dụng tu tập
cũng không được vãng sanh.
Xe đã có thân xe, động cơ và bánh xe. Nhưng
không có tay lái (vô lăng) thì rất khó
chạy, khó điều khiển. Xe có tay lái thì rất dễ chạy, tùy theo người lái, xe sẽ
chạy đến nơi muốn đến. Cũng vậy, người tu Tịnh độ phải có Nguyện, Nguyện như
tay lái, như người dẫn đường. Nếu niệm Phật mà không có Nguyện thì khó mà vãng
sanh Tịnh độ.
Qua ví dụ chiếc xe, chúng ta thấy, một
chiếc xe chạy được an toàn, đến nơi, đến chốn thì xe phải có đầy đủ các bộ phận
như đã nói trên. Người tu Tịnh độ cũng vậy, muốn được vãng sanh chắc chắn thì
phải có ba đều kiện là Tín, Hạnh và Nguyện. Nếu thiếu một trong ba đều kiện này
thì khó mà vãng sanh hay không được vãng sanh.
Đặc biệt, trong ba điều kiện này, Tín và
Nguyện là hai đều kiện quyết định cho sự vãng sanh. Còn Hạnh, tùy theo sự tu
tập nhiều ít, tinh tấn hay bình thường mà có phẩm vị khác nhau.
PHƯƠNG
PHÁP TU TẬP PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ
Phương pháp tu tập Pháp môn tịnh độ là
niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà, cầu vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Niệm Phật
có rất nhiều phương pháp, nhiều cách thức niệm khác nhau. Chúng ta sẽ tìm hiểu
bốn Phương pháp niệm Phật căn bản.
Trước khi nói đến Phương pháp niệm Phật,
chúng ta sẽ tìm hiểu ý nghĩa hai chữ “Niệm Phật”.
Chữ “Niệm” nghĩa là nhớ, nghĩ. Ví như
người mẹ có một đức con thơ duy nhất, đứa con ngoan hiền, học giỏi lại hiếu
thảo với cha mẹ. Không may người con bị thất lạc làm cho người mẹ ngày đêm
thương nhớ, mơ tưởng, nghĩ đến con. Người mẹ tìm mọi cách, mọi phương tiện để
tìm kiếm con. Nếu tìm chưa ra thì mẹ ăn không ngon, ngủ không yên.
Chữ
“Phật” có ba nghĩa là Tự giác, Giác tha và Giác hạnh viên mãn.
Tự giác: Phật là bậc giác ngộ hoàn toàn,
Ngài đã dứt sạch vô minh, phiền não, nghiệp chướng, không còn sanh tử luân hồi.
Giác tha: Giác tha là chỉ dạy, giáo hóa
mọi loài chúng sanh. Chư Phật từ khi mới phát Bồ Đề tâm cho đến ngày thành
Phật, từ ngày thành Phật cho đến ngày nhập Niết Bàn, trong khoảng thời gian
này, các Ngài luôn luôn làm hạnh lợi tha giáo hóa chỉ dạy chúng sanh bỏ ác làm
lành, dạy chúng sanh tu tập để được giác ngộ như mình. Công hạnh lợi tha của
chư Phật rất vĩ đại. Như Đức Phật A Di Đà, Ngài phát 48 lời đại nguyện làm lợi
ích chúng sanh v.v…
Giác hạnh viên mãn: Nghĩa là công hạnh tu
tập, công hạnh giáo hóa cứu độ chúng sanh các Ngài đã làm đầy đủ, viên mãn.
Vậy hai chữ “Niệm Phật” nghĩa là nhớ,
nghĩ đến Đức Phật. Chúng ta nhớ nghĩ đến công hạnh tu tập, nhớ ngĩ đến công
đức, trí huệ, nhớ nghĩ đến hình tướng, danh hiệu Đức Phật. Như ta nhớ nghĩ Đức
Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, nhớ nghĩ Đức Phật Dược Sư v.v… Nhưng Phương pháp
niệm Phật trong Pháp môn Tịnh độ là chuyên tâm, nhớ nghĩ đến Đức Phật A Di Đà,
và cầu nguyện Ngài tiếp dẫn mình vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
Sau đây là bốn phương pháp niệm Phật căn
bản:
1.
Thật tướng niệm Phật
Thật tướng là tướng chân thật. Tướng chân thật này là Chân Tâm, Phật Tánh, là Tự Tánh Di Đà của mọi
chúng sanh. Chúng ta ai cũng có Chân Tâm, Tự Tánh Di Đà của chính mình. Tự Tánh
này nó thanh tịnh, sáng suốt, không sanh không diệt. Nếu bây giờ ta giác ngộ trở
về sống với Chân Tâm, Phật Tánh, trỡ về sống với Tự Tánh Di Đà của mình thì sẽ
giác ngộ, giải thoát. Đây là pháp Thật tướng niệm phật.
Trong
Kinh Lăng Nghiêm Đức Phật nói: Chúng sanh thì “bối giác hiệp trần”, còn
Thánh Nhân thì “bối trần hiệp giác”. Nghĩa là chúng sanh quay lưng, bỏ Tánh
giác của mình mà đi vào trong trần lao, khổ não. Còn Thánh Nhân thì ngược, các
Ngài xã bỏ trần lao, trỡ về với Tánh Giác của mình. Kinh Pháp Hoa Đức Phật có
nói một ví dụ: “Kẻ cùng tử”. Kẻ cùng tử bỏ cha (cha là một vị trưởng giả giàu
có) trốn đi hơn năm mươi năm trôi nổi, khổ sở nơi xứ người. Kẻ cùng tử là chúng
sanh, chúng ta. Cha gã cùng tử là Đức
Phật, là Chân Tâm, Phật Tánh của chúng sanh, chúng ta.
Chúng ta từ vô thỉ kiếp đến nay, do vô
minh, điên đảo nhận lầm thân tâm này là thật, là của mình, nhận lầm ngoại cảnh
là vật sở hữu của mình. Vì vậy mà ta bảo vệ, giữ gìn, lo cho thân này đủ thứ,
tạo mọi điều kiện cho nó hưởng thụ. Lại còn bảo vệ, giữ gìn, gia tài sự nghiệp
v.v… Do sự mê lầm, tham chấp này mà ta gây tạo vô số tội lỗi, nghiệp chướng,
phiền não. Những phiền não, nghiệp chướng này lại dẫn chúng ta đi trong sanh
tử, luân hồi. Nhưng sự thật thì thân tâm, thế giới này là vô thường, sanh diệt,
giả dối, hư vọng không thật. Chỉ có Chân Tâm, Phật Tánh, Tự Tánh Di Đà của mọi
người mới chân thật, thường hằng. Bây giờ ta biết, giác ngộ được như vậy, ta
quay trỡ về sống với Chơn Tâm, Phật Tánh thường hằng của mình, không chạy theo
vọng trần hư dối nữa. Vậy là ta đã chấm dứt động cơ, nguyên nhân tạo nghiệp,
chấm dứt dòng sanh tử, luân hồi khổ đau. Nhưng pháp Thật tướng niệm Phật này
rất cao, chỉ những bậc căn cơ cao, còn chúng ta khó mà ứng dụng. Vậy còn những
Pháp niệm Phật khác dễ cho chúng ta ứng dụng thực hành hơn.
2.
Quán tướng niệm Phật
Pháp quán này, hành giả chọn một pho
tượng, hay bức tranh Đức Phật A Di Đà thật trang nghiêm để trước mặt. Hàng ngày
quán chiếu hình tượng Phật, quán cho đến khi không còn quán tưởng nữa mà hình
ảnh ấy vẫn hiện ở trong tâm. Vậy là pháp quán thành công.
Tâm tính của chúng ta suốt ngày cứ lăng
xăng, suy nghĩ, tính toán, mơ tưởng, tưởng tượng cảnh ngũ dục, lục trần, mơ
tưởng những thứ mình yêu thích, tham luyến. Những tưởng tượng, mơ mộng này làm
cho ta khổ sở, ăn không ngon, ngủ không yên. Cũng chính những suy nghĩ, tính
toán, tưởng tượng này này dẫn chúng ta tạo tội lỗi, nghiệp chướng gây khổ đau
cho mình và người.
Đức Phật thương xót dạy cho ta pháp Quán
tướng niệm Phật. Hàng ngày ta tư duy, quán chiếu, nhớ nghĩ Đức Phật, nhớ nghĩ
công đức, trí tuệ, tâm từ bi của Ngài, nhớ nghĩ những đại nguyện vĩ đại của
Ngài. Ta nhớ nghĩ đến Đức Phật có hai điều lợi. Thứ nhất tâm không còn suy
nghĩ, tính toán, tưởng tượng chuyện thế gian, vậy là ta cắt đứt, tiêu diệt
nguyên nhân, động lực tạo nghiệp sanh tử. Thứ hai ta nhớ nghĩ đến Đức Phật, mà
Phật là Bậc đạo đức, từ bi, giác ngộ, giải thoát, thì chúng ta cũng sẽ huân tập
những đức tánh tốt ấy. Trong Kinh Đức Phật dạy; chúng sanh nhớ Phật, niệm Phật
thì tương lai nhất định làm Phật. Thế gian cũng có câu tục ngữ: “Gần mực thì
đen, gần đen thì sáng”. Vậy hàng ngày chúng ta tưởng Phật, niệm Phật đây là
nhân đưa ta đến quả Phật trong tương lai.
3.
Quán tưởng niệm Phật
Pháp quán này, hành giả chọn một pho
tượng hay bức tranh Đức Phật A Di Đà thật trang nghiêm. Hành giả đến trước pho
tượng hay bức tranh ấy chăm chú, nhìn kĩ hình ảnh Đức Phật và nhớ rõ ở trong
tâm. Sau đó, hành giả chọn một nơi yên tỉnh, thanh tịnh ngồi kiết già quán
tưởng lại hình ảnh Đức Phật mà mình đã nhớ. Như vậy cứ quán tưởng hình ảnh Đức
Phật ở trong tâm cho đến lúc thuần thục, không còn quán tưởng nữa mà hình ảnh
Đức Phật khi nào cũng hiện rõ ràng ở trong tâm. Vậy là pháp quán thành công.
Pháp quán tướng hay quán tưởng niệm Phật
có rất nhiều lợi ích. Hiện tại thì đoạn trừ vọng tưởng, phiền não. Tương lai sẽ
được vãng sanh về cõi Cực Lạc.
Để biết thêm về pháp quán tưởng, chúng ta
tìm hiểu một đoạn trong Kinh Lăng Nghiêm Đức Phật dạy về tình, tưởng của chúng
sanh như sau:
“- A Nan !
Bản tánh của tất cả chúng sanh vốn chơn thật trong sạch, vì vọng kiến mà vọng
sanh tập khí, do đó chia thành nội phần và ngoại phần.
- A Nan !
Nội phần tức là phần trong của chúng sanh. Do lòng ái nhiễm phát khởi vọng
tình, vọng tình tích chứa không thôi, sanh ra ái thủy, nên chúng sanh hễ nghĩ
đến thức ăn ngon thì chảy nước miếng; nhớ đến người xưa, hoặc thương hoặc giận,
thì chảy nước mắt, tham cầu của báu, trong tâm ham muốn, cả mình đều thấm nhuần
nước tham; tâm tham dâm dục thì hai căn nam nữ tự nhiên chảy dịch. A Nan , những ái dục ấy dù khác, nhưng sự chảy nước là đồng,
tánh nước thấm ướt chẳng lên được, tự nhiên sa đọa, gọi là Nội Phần.
- A Nan !
Ngoại Phần tức là phần ngoài của chúng sanh. Do lòng khao khát phát ra vọng
tưởng, vọng tưởng chứa mãi không thôi, sanh ra thắng khí. Nên chúng sanh hễ tâm
giữ giới cấm thì cả thân nhẹ nhàng; tâm trì chú ấn thì cử chỉ hùng dũng, tâm
muốn sanh cõi trời thì chiêm bao thấy bay lên, tâm nhớ cõi Phật, thì thắng cảnh
thầm hiện, phụng sự Thiện Tri Thức thì tự khinh thân mạng. A Nan ,
những vọng tưởng dù khác, nhưng sự nhẹ nhàng bay lên là động, bay động chẳng
chìm, tự nhiên vượt lên, gọi là Ngoại Phần.
- A Nan !
Tất cả sanh tử tương tục trên thế gian, sống thì tùy thuận theo tập khí, chết
thì biến đổi theo dòng nghiệp, đến lúc lâm chung, còn chút hơi ấm, các việc
thiện ác của một đời đồng thời hiện ra, sống thì thuận, chết thì nghịch, hai
tập khí giao xen lẫn nhau, thuần tưởng thì bay lên, ắt sanh cõi trời, nếu cái
tâm bay ấy gồm cả phước đức, trí huệ và tịnh nguyện, thì tự nhiên tâm được mở
mang, thấy tất cả tịnh độ với mười phương chư Phật, theo nguyện vãng sanh.
- Tình ít tưởng nhiều, nhẹ nhàng bay xa
thì làm phi tiên, đại lực quỷ vương, phi hành Dạ Xoa, địa hành La Sát, dạo khắp
cõi trời, chẳng gì ngăn ngại. Trong đó nếu có thiện tâm thiện nguyện, hộ trì
Phật Pháp, hoặc hộ trì giới cấm và người trì giới; hoặc hộ trì thần chú và
người trì chú; hoặc hộ trì thiền định, thành tựu pháp nhẫn, thì những hạng ấy
được ở cạnh pháp tọa của Như Lai.
- Tình và tưởng bằng nhau, chẳng bay chẳng
chìm, sanh nơi cõi người; tưởng sáng suốt thì thông minh, tình ám muội thì ngu
độn.
- Tình nhiều tưởng ít, đọa vào súc sinh,
nghiệp nặng thì làm loài có lông, nghiệp nhẹ thì làm loài có cánh.
- Bảy phần tình, ba phần tưởng, thì chìm
dưới thủy luân, sanh nơi hỏa luân, thân làm ngạ quỷ, thọ cái khổ của lửa hồng,
thường bị đốt cháy, dầu được uống nước cũng hóa thành lửa, nên nói bị nước hại,
trải qua trăm ngàn kiếp, chẳng thể ăn uống.
- Chín phần tình, một phần tưởng, thì đọa
dưới hỏa luân, thân vào giữa phong luân và hỏa luân, nghiệp nhẹ thì vào ngục
Hữu Gián, nghiệp nặng thì vào ngục Vô Gián.
- Thuần tình thì chìm sâu vào ngục A Tỳ, nếu tâm
chìm sâu ấy, có phỉ báng Đại Thừa, phá giới cấm của Phật, cuồng vọng thuyết
pháp, hư tiêu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét