Thứ Bảy, 7 tháng 3, 2015

PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ THÙ THẮNG (TT)

đức ấm áp. Ai được nghe thì phiền não trần lao tự nhiên chẳng phát khởi. Gió chạm đến thân thì đều được khoái lạc như Tỳ Kheo nhập diệt tận định.
Lại gió thổi hoa rơi khắp mọi nơi trong nước ấy, theo màu hoa có thứ lớp chẳng tạp loạn. Những hoa ấy mềm dịu chói sáng hơi thơm ngào ngạt. Chân đi giẫm lên hoa lún xuống bốn tấc, vừa dở chân hoa trở lại như cũ. Việc dùng của hoa đã xong, đất tự nứt ra, hoa theo đó ẩn mất sạch hết không còn sót. Tùy theo thời tiết, gió thổi rải hoa rơi trải mặt đất báu ngày đêm sáu lần như vậy.
Lại có những hoa sen báu khắp cả nước ấy. Mỗi đóa hoa sen báu có trăm ngàn ức cánh, vô lượng màu sắc chói sáng. Hoa sắc xanh ánh sáng xanh, hoa sắc trắng ánh sáng trắng, vàng đỏ tím huyền, màu nào sáng ấy rực rỡ hơn cả mặt trời, mặt trăng. Trong mỗi đóa hoa sen phát ra ba mươi sáu trăm ngàn ức tia sáng, trong mỗi tia sáng hiện ra ba mươi sáu trăm ngàn ức Phật thân màu vàng tử kim đủ những tướng tốt. Mỗi đức Phật lại phóng trăm ngàn ánh sáng khắp vì mười phương mà nói pháp vi diệu. Chư Phật ấy đều gầy dựng vô lượng chúng sanh ở nơi chánh đạo…
Nầy A Nan! Bồ Tát nước An Lạc thừa oai thần của đức Vô Lượng Thọ Phật, khoảng thời gian một bữa ăn, đi đến vô lượng thế giới mười phương cung kính cúng dường chư Phật Thế Tôn, theo ý nghĩ của họ, những món cúng dường như hoa, hương, kỹ nhạc, y phục, phan lọng, vô số vô lượng thứ tự nhiên hóa hiện ra, tất cả đều trân quý vi diệu thế gian chẳng có được. Chư Bồ Tát ấy liền đem rải lên cúng dường chư Phật và chư Bồ Tát Thanh Văn. Những thứ ấy ở trên không hóa thành lọng hoa xinh đẹp sáng chói tỏa hương thơm khắp nơi. Lọng hoa ấy chu vi bốn trăm dặn, rồi lần lần lớn gấp bội cho đến trùm khắp cõi Ðại Thiên, sau đó tuần tự ẩn mất.
Chư Bồ Tát đều vui mừng thăng lên hư không đồng tấu thiên nhạc, dùng âm thanh vi diệu ca ngợi công đức của chư Phật, lắng nghe kinh pháp vui mừng vô lượng. Cúng dường chư Phật xong, bỗng nhiên nhẹ nhàng bay về bổn quốc An Lạc vẫn còn trước giờ ăn.
Nầy A Nan! Lúc đức Vô Lượng Thọ Phật ban pháp ngữ cho hàng Trời, Người, Thanh Văn, Bồ Tát thì đều vân tập tại thất bửu giảng đường. Thính chúng được nghe diệu pháp không ai là chẳng khai ngộ vui mừng. Liền đó bốn phương tự nhiên gió nhẹ thổi động những cây thất bửu phát ra ngũ âm. Vô lượng hoa đẹp theo gió bay tứ tán để cúng dường bất tuyệt.
 Tất cả hàng chư Thiên đều mang trăm ngàn thứ hoa hương cõi trời và muôn thứ kỹ nhạc trời cúng dường đức Phật ấy cùng Bồ Tát, Thanh Văn. Rải hoa hương khắp nơi, hòa tấu âm nhạc, chư Thiên hàng hàng lớp lớp trước sau qua lại, vẹt tránh lẫn nhau. Trong lúc ấy, tất cả đều sung sướng khoái lạc chẳng thể nói được.
ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC SANH VỀ CÕI TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC
Muốn được sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc, người niệm Phật phải có đủ ba điều kiện, thường gọi là Tư lương Tịnh độ. Ba điều kiện này là Tín, Hạnh và Nguyện. Ba điều này rất quan trọng, giống như kiềng ba chân, thiếu một chân thì không đứng vững được. Cũng giống như người đi đường, chuẩn bị một chuyến đi xa mà không có tư lương hay thiếu tư lương thì không thể đi được, nếu có đi thì cũng không đến nơi. Nên trước khi đi phải chuẩn bị tư lương (hành trang) cần thiết như như tiền bạc, áo quần, thức ăn v.v… Người tu Tịnh độ cũng vậy muốn được vãng sanh về Cực Lạc thì phải đủ ba điều kiện Tín, Hạnh và Nguyện. Ba điều kiện này không có, thì dù có tu cũng chỉ tạo duyên phước lành mà thôi chứ không thể vãng sanh.
1. Tín
 Tín là lòng tin, đức tin. Lòng tin rất quan trọng, làm một việc gì mà ta không có lòng tin thì sự việc sẽ không thành công, tại sao vậy? Vì ta không tin nên ta không làm, nếu có làm đi nữa thì chỉ làm qua loa, làm lấy lệ thì làm sao mà thành công được.
Người tu Tịnh độ cũng vậy, trước hết chúng ta phải có niềm tin ở pháp môn mình đang tu. Ta phải có đức tin chắc chắn không phân vân, nghi ngờ, do dự dù có người bài bác, dụ dỗ, xuyên tạc hay dùng tiền bạc, danh vọng, sức mạnh quyền lực để ép buộc chúng ta bỏ niềm tin này ta cũng không bỏ, cho dù có mất mạng. Tin như vậy mới gọi là đức tin chắc chắn, đức tin bất động không có gì lay chuyển. Chúng ta có đức tin như vậy thì lo gì sự tu tập không thành công, lo gì không vãng sanh Cực Lạc.
Lòng tin cũng có nhiều khía cạnh, sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu những khía cạnh của lòng tin.
a. Tin Phật
Thứ nhất chúng ta tin Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, Ngài là bậc Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác có trí huệ cao siêu, tâm từ bi vô hạn. Trong vũ trụ hư không này không có gì Ngài không thấy, không biết. Với tâm từ bi bao la rộng lớn, thấy sanh linh chìm đắm đau khổ trong biển khổ sanh tử luân hồi, nên Ngài thị hiện ra đời, đem pháp mầu chỉ dạy chúng sanh, để chúng sanh tu tập thoát khổ được vui. Đặc biệt Ngài đem Pháp môn Tịnh độ thù thắng chỉ dạy cho chúng ta tu tập một đời giải thoát, sớm thành Phật đạo. Chúng ta tin Đức Phật Thích Ca, tin giáo pháp của Ngài, vì Ngài là bậc chân thật ngữ không bao giờ nói dối. Ta tin Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni tất nhiên là tin Pháp môn Tịnh độ mà Ngài nói ra.
Thứ hai chúng ta tin đức Phật A Di Đà. Với tấm long từ bi bao la rộng lớn, Ngài phát 48 đại nguyện thành lập một thế giới trang nghiêm, thù thắng, vi diệu, an lạc để độ chúng sanh. Ta tin đức Phật A Di Đà là vị Phật có thật, vị Phật được Đức Phật Bổn Sư giới thiệu, Ngài làm giáo chủ ở Cõi Tây Phương Cực Lạc. Ngài ở Cực Lạc nhưng Ngài thường hóa thân đến khắp mười phương thế giới để độ chúng sanh, tiếp dẫn người niệm Phật về thế giới của Ngài. Chúng ta có niềm tin chắc thật nơi Đức Phật A Di Đà, tâm luôn hướng về Ngài cầu Ngài gia hộ và tiếp dẫn chúng ta về thế giới của Ngài.
b. Tin pháp
Tin pháp là tin giáo pháp Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni nói ra. Giáo pháp này có công năng cứu khổ chúng sanh, đưa chúng sanh từ bến mê đến bờ giải thoát, giác ngộ. Giáo pháp của Phật được kết tập lại thành ba tạng là Kinh, Luật và Luận. Trong tạng Kinh có những Kinh dạy về Pháp môn Tịnh độ như: Kinh A Di Đà, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Quán Vô Lượng Thọ v.v… Chúng ta tin giáo pháp của Phật đương nhiên là tin Kinh A Di Đà, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Quán Vô Lượng Thọ.
Chúng ta tin cõi Tây Phương Cực Lạc là có thật, một thế giới trang nghiêm, thanh tịnh được Đức Phật diễn tả rất rõ trong Kinh A Di Đà và Kinh Vô Lượng Thọ.
Trong Kinh Đức Phật diễn tả cõi Tây Phương Cực Lạc có những sự trang nghiêm, thù thắng như: Ở đây không có tam đồ ác đạo, không có cảnh sanh tử luân hồi, đau khổ. Mọi người toàn hưởng những điều vui. Tất cả mọi thứ như nhà cửa, ăn mặc đều tùy tâm ý của người mà có. Dung sắc rất đẹp, ai cũng có thần thông, trí huệ. Ta tin cõi Tây Phương Cực Lạc có những sự thù thắng này, và tin mình ứng dụng, tu tập pháp này sẽ được vãng sanh về cõi Cực Lạc.
Chúng ta tin Pháp môn Tịnh độ là pháp dễ tu, dễ chứng, là pháp môn tu tắt một đời có thể đưa chúng ta từ phàm phu đến quả vị Thánh. Chúng ta tin niệm Phật A Di Đà thì sẽ được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Tin niệm Phật sẽ được Phật tiếp dẫn, sẽ được vãng sanh, được giải thoát, sớm được thành Phật. Chúng ta phải có niềm tin chắc thật như vậy, và quyết chí hạ thủ công phu tu tập, quyết một đời này vãng sanh Cực Lạc không còn do dự, chần chờ.
b. Tin bản thân mình
Đức Phật thường nói: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”. Khi thành đạo dưới cội Bồ Đề Đức Phật cũng thốt lên rằng: “Tất cả chúng sanh đều có đầy đủ đức tướng, trí huệ Như Lai”. Đức Phật đã khẳng định như vậy tại sao chúng ta lại tự khinh mình.
Vậy chúng ta tin mình có Chân Tâm, Phật Tánh, tin mình tu tập sẽ thành Phật. Tin mình có sức mạnh, ý chí dũng mãnh, tin mình sẽ vượt qua được những khó khăn trở ngại. Chúng ta xác quyết niềm tin như vậy và bắt đầu hạ thủ công phu tu tập, quyết buông bỏ tất cả thế gian, tâm chuyên nhất vào sự tu tập, hàng ngày đi, đứng, nằm ngồi đều niệm Phật, tâm chuyên nhất vào danh hiệu Đức Phật A Di Đà không hề xao lãng. Ta tin được như vậy, làm được như vậy thì lo gì sự tu tập không thành công, không giải thoát, không vãng sanh Cực Lạc.
Lại còn hai khía cạnh đức tin nữa là tin Lý và tin Sự.
a. Tin lý
Các vị tổ sư thường nói: “Tự Tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ”. Thật vậy, tự tánh của chúng sanh vốn là Phật. Chân tâm, bản tánh của chúng sanh đồng với Đức Phật Thích Ca, Đức Phật A Di Đà không khác. Bây giờ chúng ta tin chân tâm của mình chính là Phật A Di Đà của mình.
Tất cả mọi loài, mọi cảnh giới đều xuất phát từ tâm. Nếu tâm ô uế, bất tịnh, độc ác sẽ làm thân địa ngục, ngạ qủy, súc sanh. Môi trường sống lúc này là những cảnh giới xấu xa, đen tối, đau khổ như cảnh địa ngục bị sự hành hạ, tra tấn. Cảnh ngạ quỷ bị đói khát dày vò. Cảnh  súc sanh ăn nuốt lẫn nhau. Nếu tâm hiền lành, lương thiện luôn giúp đỡ mọi người, luôn làm cho mọi người vui vẻ, hạnh phúc thì sẽ được làm thân người, thân trời. Môi  trường sống là  cảnh giới yên bình, hạnh phúc hay ở thiên cung thọ hưởng phước trời. Còn tâm thanh tịnh, trong sạch, tâm đại từ, đại bi luôn thương yêu, cứu độ mọi loài chúng sanh thì sẽ làm Bồ Tát, làm Phật.  Cảnh giới lúc này là Niết Bàn giải thoát hay miền Cực Lạc an vui. Nói chung mọi loài, mọi cảnh giới trang nghiêm hay bất tịnh, đau khổ hay an lạc đều bắt nguồn từ tâm.
Cõi Tây Phương Cực Lạc cũng chính từ tâm nguyện đại từ, đại bi của Đức Phật A Di Đà hiện ra. Ngài thương chúng sanh chìm đắm trong sông mê, biển khổ nên phát ra 48 lời đại nguyện thành lập Tịnh độ để cứu độ chúng sanh.
Tin lý là chúng ta tin tâm mình, tin tất cả đều từ tâm biến hiện, địa ngục cũng từ tâm mà cực lạc cũng từ tâm. Vậy muốn cho mình được an lạc, giải thoát thì chúng ta phải quay trở về Chơn tâm, trở về Tự tánh Di Đà của mình. Một khi chúng ta đã trở về Chơn tâm, Tự tánh Di Đà của chính mình thì đó chính là Tịnh độ, là Cực Lạc.
b. Tin sự
Tuy nói: “Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ”, nhưng nhìn lại mình, ta vẫn là phàm phu, vẫn còn mê muội, vẫn còn ở trong cõi ngũ dục (tài sắc, danh lợi, ăn uống, ngủ nghỉ), lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp trần). Chúng ta không thể ngồi không mà thành Phật thành Tổ, không thể ngồi không mà hưởng cảnh Niết Bàn, Cực Lạc. Từ vô thỉ kiếp đến nay ta bị vô minh, phiền não, nghiệp chướng che đậy, trói buộc, đọa đày làm cho trôi lăn, đau khổ trong sanh tử luân hồi. Bây giờ muốn giải thoát, giác ngộ ta phải tẩy trừ chúng, muốn tẩy trừ chúng phải siêng năng, tinh tấn tu tập.
Trong tám vạn bốn ngàn pháp môn tu tập, có Pháp môn Tịnh độ là pháp môn thù thắng, vi diệu dễ tu, mau chứng, sớm giải thoát, sớm thành Phật. Chúng ta tin tưởng và ứng dụng tu tập, siêng năng tinh tấn niệm Phật thì sẽ thành công, sẽ được vãng sanh Cực Lạc.
Nói: “Tự tánh Di Đà duy tâm Tịnh độ” nhưng thực sự mấy ai đã sống được với tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ của mình. Chúng ta đang sống trong đối đãi, sống trong thế giới ngũ trược khổ đau này. Thân chúng ta phải chịu cảnh sanh, lão, bệnh, tử làm cho đau khổ. Lại thế giới này lắm điều tai họa như thiên tai, chiến tranh v.v… Đức Phật A Di Đà thương chúng sanh, nên thành lập cõi Tịnh độ ở phương Tây, để tiếp rước chúng sanh về thế giới của Ngài hưởng sự an lạc, giải thoát. Chúng ta phải tin Đức Phật A Di Đà, tin cõi Tây Phương Cực Lạc, và niệm Phật phát nguyện vãng sanh, để sớm thoát kiếp khổ đau sanh tử luân hồi này.
Chư Phật, chư Bồ Tát, chư vị Thánh nhân, chư Đại Đức Tăng Ni luôn luôn tha thiết kêu gọi chúng ta tu tập, niệm Phật để được vãng sanh về Cực Lạc.
Các ngài còn nói, nếu như chúng sanh cố chấp mà tu, thì thà chấp Sự mà tu còn tốt hơn chấp Lý. Vì người chấp Sự họ thấy đây kia đối đãi, thấy thiện thấy ác, thấy có tu tập, thấy cõi Ta Bà đau khổ, cõi Cực Lạc an vui. Do họ thấy, họ chấp như vậy nên họ cố gắng tu tập tránh ác làm lành, siêng năng niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh độ.
Lại các Ngài sợ người tu chấp Lý, làm chướng ngại sự tu tập, sự vãng sanh nên các Ngài dạy tiếp: Người học rộng biết nhiều, suốt ngày tìm chương trích cú, lại đi tìm học những pháp cao siêu rồi cho mình là hay giỏi, tu tập hơn người. Đâu bằng các ông già bà cả chỉ biết tin tưởng niệm một câu Nam Mô A Di Đà Phật, cầu vãng sanh tịnh độ. Tuy đời này họ là phàm phu cái gì cũng không biết, nhưng đời sau họ là Thánh nhân, là Bồ Tát làm thầy trời người. Còn người học rộng biết nhiều, rồi dương dương tự đắc, khinh khi mọi người, xem thường người ít học. Đây chính là nhân làm chướng ngại sự tu tập, giải thoát của chính mình.
 Người chấp Lý, đây là một bệnh rất nặng hết phương cứu chữa. Suốt ngày họ nói chơn tâm, Phật tánh, nói những giáo lý cao siêu nhưng chỉ nói trên đầu môi chót lưỡi. Nếu ai đụng tới lòng tự ái thì tham, sân, si nổi lên đùng đùng. Có người khuyên niệm Phật thì họ nói: tự tánh của ta là Phật A Di Đà, chơn tâm của ta là Tịnh độ, là Cực Lạc cần gì phải niệm Phật cho mệt. Những người này, họ tự đóng, tự ngăn cản con đường tu tập, con đường vãng sanh của chính mình.
2. Hạnh
Hạnh là thực hành, là ứng dụng tu tập. Sau khi chúng ta hiểu và tin Pháp môn tịnh độ rồi, chúng ta bắt đầu ứng dụng tu tập, nghĩa là hàng ngày, đi, đứng, nằm, ngồi đều chuyên tâm niệm Phật.
Hình thức tu tập có nhiều cách như, lễ Phật, sám hối, tụng kinh, niệm Phật, tỉnh tọa, bố thí, cúng dường, làm tất cả việc lành v.v…
Hạnh cũng được chia làm hai là Chánh hạnh và Trợ hạnh.
a. Chánh hạnh
Chánh là phần chính yếu, quan trọng, là gốc. Chánh hạnh của người tu Pháp môn Tịnh độ là chuyên tâm niệm Phật. Hàng ngày, đi, đứng, nằm ngồi tất cả mọi thời, mọi oai nghi, cử chỉ đều phải niệm Phật. Ở chỗ sạch sẽ, thanh tịnh, trang nghiêm thì niệm lớn. Ở chỗ ô uế, bất tịnh thì niệm nhỏ, niệm thầm. Nói chung, tất cả mọi thời đều phải luôn luôn niệm Phật. Đây là công hạnh tu tập chính yếu của hành giả tu tập Pháp môn Tịnh độ.
b. Trợ hạnh
Trợ là phụ, giúp cho phần chánh. Trợ hạnh là những công hạnh tu tập phụ giúp cho phần Chánh hạnh sớm thành công, sớm có kết quả. Trợ hạnh là những việc làm lành như: Cúng dường, bố thí, phóng sanh, giúp đỡ mọi người v.v… Nói chung là làm tất cả việc lành, việc thiện, rồi đem những thiện căn, phước đức này hồi hướng cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc.
Hành giả tu tập Pháp môn Tịnh độ cần phải phân biệt, nhận định được đâu là Chánh hạnh, đâu là Trợ hạnh. Chúng ta phải chú tâm, đặt nặng vào phần Chánh hạnh. Nếu chúng ta biết kết hợp vừa làm tất cả việc lành, nhưng trong tâm vẫn luôn niệm Phật, tâm vẫn không khi nào rời danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật. Thì đây là công hạnh thù thắng, một việc làm mà lợi cả hai, Chánh Trợ đầy đủ thì lo gì mà không vãng sanh.
3. Nguyện
Nguyện là mong muốn, ao ước, hướng đến. Người tu Tịnh độ phải có tâm mong muốn, ao ước sanh về Tây Phương Cực Lạc.
Chúng ta thấy cõi Ta Bà đầy dẫy sự dơ xấu như: Bùn lầy, đất đá, chông gai, núi non hiểm trở. Thế giới này lắm điều tai họa, nguy hiểm như: Bảo tố phong ba, lũ lụt, động đất, núi lửa, chiến tranh. Lại còn  nhiều thứ ác độc như: Rắn, rít, cọp sói, trộm, cướp v.v... Trong Kinh Đức Phật ví dụ thế giới này như ngục tù, nhà lửa.
Thân  người thì ô uế, bất tịnh ngày đêm rỉ tiết ra những thứ hôi thúi, bất tịnh như: Máu, mủ, mồ hôi, tiểu tiện v.v… Lại phải chịu cảnh sanh, già, bệnh, chết  làm cho đau khổ. Còn tâm thì đầy dẫy phiền não, vô minh, điên đảo, vọng tưởng. Nên khởi lên tham, sân, si gây đau khổ cho mình và người.
Chúng ta thấy thế giới, con người ở đây như vậy, nên ta nhàm chán thế giới này, nhàm chán thân bất tịnh này. Tâm lúc nào cũng tha thiết mong muốn cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc, như con thơ lạc mẹ, khi nào cũng mong muốn tìm về với mẹ.
Hành giả tu Pháp môn Tịnh độ, phải có tâm tha thiết, mong muốn sanh về Tây Phương Cực Lạc như vậy. Mỗi khi công phu niệm Phật, hay làm một việc lành gì, ta liền đến bàn Phật, trước tôn tượng Đức Phật A Di Đà, nếu trong nhà không có thờ Phật thì ta xoay về hướng Tây mà tha thiết phát nguyện. Nguyện rằng: Con tên…  pháp danh…, con nguyện đem công đức niệm Phật, công đức làm việc lành này hồi hướng được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Ngưỡng mong Đức Phật A Di Đà tiếp độ, tiếp dẫn con về Tây Phương Cực lạc. Ta có tâm tha thiết, mong muốn như vậy, có những lời phát nguyện như vậy thì sẽ tương ưng, phù hợp, chiêu cảm với bản nguyện độ sanh, tiếp dẫn của Đức Phật A Di Đà. Đức Phật A Di Đà sẽ gia hộ, hộ niệm chúng ta. Đến khi lâm chung, Đức Phật A Di Đà và Thánh chúng hiện ra, tiếp dẫn chúng ta về Cực Lạc.
Nếu người tu Tịnh độ mà không có tâm tha thiết, mong muốn cầu sanh về Tịnh độ. Không có phát nguyện sanh về Cực Lạc, thì dù niệm Phật có nhiều cũng không vãng sanh, chỉ hưởng phước báu nhân thiên mà thôi.
Để hiểu rõ về Tín, Hạnh và Nguyện của hành giả tu tập Pháp môn Tịnh độ, chúng tôi đưa ra một ví dụ cụ thể sau đây cho dễ hiểu. Ví dụ chiếc xe.
Chiếc xe phải có thân xe, thân xe vững chắc mới chở người, chở vật được. Cũng vậy, Tín như thân xe, có tin chúng ta mới tu tập, có tu tập mới có kết quả.
Xe phải có động cơ và bánh xe, xe không có động cơ và bánh thì không thể chạy. Cũng vậy, Hạnh như động cơ và bánh xe. Chúng ta có hành trì tu tập thì mới thoát khỏi sanh tử luân hồi khổ đau, mới được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Nếu chỉ có tin mà không ứng dụng tu tập cũng không được vãng sanh.
Xe đã có thân xe, động cơ và bánh xe. Nhưng không có tay lái (vô lăng) thì rất  khó chạy, khó điều khiển. Xe có tay lái thì rất dễ chạy, tùy theo người lái, xe sẽ chạy đến nơi muốn đến. Cũng vậy, người tu Tịnh độ phải có Nguyện, Nguyện như tay lái, như người dẫn đường. Nếu niệm Phật mà không có Nguyện thì khó mà vãng sanh Tịnh độ.
Qua ví dụ chiếc xe, chúng ta thấy, một chiếc xe chạy được an toàn, đến nơi, đến chốn thì xe phải có đầy đủ các bộ phận như đã nói trên. Người tu Tịnh độ cũng vậy, muốn được vãng sanh chắc chắn thì phải có ba đều kiện là Tín, Hạnh và Nguyện. Nếu thiếu một trong ba đều kiện này thì khó mà vãng sanh hay không được vãng sanh.
Đặc biệt, trong ba điều kiện này, Tín và Nguyện là hai đều kiện quyết định cho sự vãng sanh. Còn Hạnh, tùy theo sự tu tập nhiều ít, tinh tấn hay bình thường mà có phẩm vị khác nhau.
PHƯƠNG PHÁP TU TẬP PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ
Phương pháp tu tập Pháp môn tịnh độ là niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà, cầu vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Niệm Phật có rất nhiều phương pháp, nhiều cách thức niệm khác nhau. Chúng ta sẽ tìm hiểu bốn Phương pháp niệm Phật căn bản.
Trước khi nói đến Phương pháp niệm Phật, chúng ta sẽ tìm hiểu ý nghĩa hai chữ “Niệm Phật”.
Chữ “Niệm” nghĩa là nhớ, nghĩ. Ví như người mẹ có một đức con thơ duy nhất, đứa con ngoan hiền, học giỏi lại hiếu thảo với cha mẹ. Không may người con bị thất lạc làm cho người mẹ ngày đêm thương nhớ, mơ tưởng, nghĩ đến con. Người mẹ tìm mọi cách, mọi phương tiện để tìm kiếm con. Nếu tìm chưa ra thì mẹ ăn không ngon, ngủ không yên.
 Chữ  “Phật” có ba nghĩa là Tự giác, Giác tha và Giác hạnh viên mãn.
Tự giác: Phật là bậc giác ngộ hoàn toàn, Ngài đã dứt sạch vô minh, phiền não, nghiệp chướng, không còn sanh tử luân hồi.
Giác tha: Giác tha là chỉ dạy, giáo hóa mọi loài chúng sanh. Chư Phật từ khi mới phát Bồ Đề tâm cho đến ngày thành Phật, từ ngày thành Phật cho đến ngày nhập Niết Bàn, trong khoảng thời gian này, các Ngài luôn luôn làm hạnh lợi tha giáo hóa chỉ dạy chúng sanh bỏ ác làm lành, dạy chúng sanh tu tập để được giác ngộ như mình. Công hạnh lợi tha của chư Phật rất vĩ đại. Như Đức Phật A Di Đà, Ngài phát 48 lời đại nguyện làm lợi ích chúng sanh v.v…
Giác hạnh viên mãn: Nghĩa là công hạnh tu tập, công hạnh giáo hóa cứu độ chúng sanh các Ngài đã làm đầy đủ, viên mãn.
Vậy hai chữ “Niệm Phật” nghĩa là nhớ, nghĩ đến Đức Phật. Chúng ta nhớ nghĩ đến công hạnh tu tập, nhớ ngĩ đến công đức, trí huệ, nhớ nghĩ đến hình tướng, danh hiệu Đức Phật. Như ta nhớ nghĩ Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, nhớ nghĩ Đức Phật Dược Sư v.v… Nhưng Phương pháp niệm Phật trong Pháp môn Tịnh độ là chuyên tâm, nhớ nghĩ đến Đức Phật A Di Đà, và cầu nguyện Ngài tiếp dẫn mình vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
Sau đây là bốn phương pháp niệm Phật căn bản:
1. Thật tướng niệm Phật
Thật tướng là tướng chân thật.  Tướng chân thật này là  Chân Tâm, Phật Tánh, là Tự Tánh Di Đà của mọi chúng sanh. Chúng ta ai cũng có Chân Tâm, Tự Tánh Di Đà của chính mình. Tự Tánh này nó thanh tịnh, sáng suốt, không sanh không diệt. Nếu bây giờ ta giác ngộ trở về sống với Chân Tâm, Phật Tánh, trỡ về sống với Tự Tánh Di Đà của mình thì sẽ giác ngộ, giải thoát. Đây là pháp Thật tướng niệm phật.
Trong  Kinh Lăng Nghiêm Đức Phật nói: Chúng sanh thì “bối giác hiệp trần”, còn Thánh Nhân thì “bối trần hiệp giác”. Nghĩa là chúng sanh quay lưng, bỏ Tánh giác của mình mà đi vào trong trần lao, khổ não. Còn Thánh Nhân thì ngược, các Ngài xã bỏ trần lao, trỡ về với Tánh Giác của mình. Kinh Pháp Hoa Đức Phật có nói một ví dụ: “Kẻ cùng tử”. Kẻ cùng tử bỏ cha (cha là một vị trưởng giả giàu có) trốn đi hơn năm mươi năm trôi nổi, khổ sở nơi xứ người. Kẻ cùng tử là chúng sanh, chúng ta.  Cha gã cùng tử là Đức Phật, là Chân Tâm, Phật Tánh của chúng sanh, chúng ta.
Chúng ta từ vô thỉ kiếp đến nay, do vô minh, điên đảo nhận lầm thân tâm này là thật, là của mình, nhận lầm ngoại cảnh là vật sở hữu của mình. Vì vậy mà ta bảo vệ, giữ gìn, lo cho thân này đủ thứ, tạo mọi điều kiện cho nó hưởng thụ. Lại còn bảo vệ, giữ gìn, gia tài sự nghiệp v.v… Do sự mê lầm, tham chấp này mà ta gây tạo vô số tội lỗi, nghiệp chướng, phiền não. Những phiền não, nghiệp chướng này lại dẫn chúng ta đi trong sanh tử, luân hồi. Nhưng sự thật thì thân tâm, thế giới này là vô thường, sanh diệt, giả dối, hư vọng không thật. Chỉ có Chân Tâm, Phật Tánh, Tự Tánh Di Đà của mọi người mới chân thật, thường hằng. Bây giờ ta biết, giác ngộ được như vậy, ta quay trỡ về sống với Chơn Tâm, Phật Tánh thường hằng của mình, không chạy theo vọng trần hư dối nữa. Vậy là ta đã chấm dứt động cơ, nguyên nhân tạo nghiệp, chấm dứt dòng sanh tử, luân hồi khổ đau. Nhưng pháp Thật tướng niệm Phật này rất cao, chỉ những bậc căn cơ cao, còn chúng ta khó mà ứng dụng. Vậy còn những Pháp niệm Phật khác dễ cho chúng ta ứng dụng thực hành hơn.
2. Quán tướng niệm Phật
Pháp quán này, hành giả chọn một pho tượng, hay bức tranh Đức Phật A Di Đà thật trang nghiêm để trước mặt. Hàng ngày quán chiếu hình tượng Phật, quán cho đến khi không còn quán tưởng nữa mà hình ảnh ấy vẫn hiện ở trong tâm. Vậy là pháp quán thành công.
Tâm tính của chúng ta suốt ngày cứ lăng xăng, suy nghĩ, tính toán, mơ tưởng, tưởng tượng cảnh ngũ dục, lục trần, mơ tưởng những thứ mình yêu thích, tham luyến. Những tưởng tượng, mơ mộng này làm cho ta khổ sở, ăn không ngon, ngủ không yên. Cũng chính những suy nghĩ, tính toán, tưởng tượng này này dẫn chúng ta tạo tội lỗi, nghiệp chướng gây khổ đau cho mình và người.
Đức Phật thương xót dạy cho ta pháp Quán tướng niệm Phật. Hàng ngày ta tư duy, quán chiếu, nhớ nghĩ Đức Phật, nhớ nghĩ công đức, trí tuệ, tâm từ bi của Ngài, nhớ nghĩ những đại nguyện vĩ đại của Ngài. Ta nhớ nghĩ đến Đức Phật có hai điều lợi. Thứ nhất tâm không còn suy nghĩ, tính toán, tưởng tượng chuyện thế gian, vậy là ta cắt đứt, tiêu diệt nguyên nhân, động lực tạo nghiệp sanh tử. Thứ hai ta nhớ nghĩ đến Đức Phật, mà Phật là Bậc đạo đức, từ bi, giác ngộ, giải thoát, thì chúng ta cũng sẽ huân tập những đức tánh tốt ấy. Trong Kinh Đức Phật dạy; chúng sanh nhớ Phật, niệm Phật thì tương lai nhất định làm Phật. Thế gian cũng có câu tục ngữ: “Gần mực thì đen, gần đen thì sáng”. Vậy hàng ngày chúng ta tưởng Phật, niệm Phật đây là nhân đưa ta đến quả Phật trong tương lai.
3. Quán tưởng niệm Phật
Pháp quán này, hành giả chọn một pho tượng hay bức tranh Đức Phật A Di Đà thật trang nghiêm. Hành giả đến trước pho tượng hay bức tranh ấy chăm chú, nhìn kĩ hình ảnh Đức Phật và nhớ rõ ở trong tâm. Sau đó, hành giả chọn một nơi yên tỉnh, thanh tịnh ngồi kiết già quán tưởng lại hình ảnh Đức Phật mà mình đã nhớ. Như vậy cứ quán tưởng hình ảnh Đức Phật ở trong tâm cho đến lúc thuần thục, không còn quán tưởng nữa mà hình ảnh Đức Phật khi nào cũng hiện rõ ràng ở trong tâm. Vậy là pháp quán thành công.
Pháp quán tướng hay quán tưởng niệm Phật có rất nhiều lợi ích. Hiện tại thì đoạn trừ vọng tưởng, phiền não. Tương lai sẽ được vãng sanh về cõi Cực Lạc.
Để biết thêm về pháp quán tưởng, chúng ta tìm hiểu một đoạn trong Kinh Lăng Nghiêm Đức Phật dạy về tình, tưởng của chúng sanh như sau:
“- A Nan! Bản tánh của tất cả chúng sanh vốn chơn thật trong sạch, vì vọng kiến mà vọng sanh tập khí, do đó chia thành nội phần và ngoại phần.
- A Nan! Nội phần tức là phần trong của chúng sanh. Do lòng ái nhiễm phát khởi vọng tình, vọng tình tích chứa không thôi, sanh ra ái thủy, nên chúng sanh hễ nghĩ đến thức ăn ngon thì chảy nước miếng; nhớ đến người xưa, hoặc thương hoặc giận, thì chảy nước mắt, tham cầu của báu, trong tâm ham muốn, cả mình đều thấm nhuần nước tham; tâm tham dâm dục thì hai căn nam nữ tự nhiên chảy dịch. A Nan, những ái dục ấy dù khác, nhưng sự chảy nước là đồng, tánh nước thấm ướt chẳng lên được, tự nhiên sa đọa, gọi là Nội Phần.
- A Nan! Ngoại Phần tức là phần ngoài của chúng sanh. Do lòng khao khát phát ra vọng tưởng, vọng tưởng chứa mãi không thôi, sanh ra thắng khí. Nên chúng sanh hễ tâm giữ giới cấm thì cả thân nhẹ nhàng; tâm trì chú ấn thì cử chỉ hùng dũng, tâm muốn sanh cõi trời thì chiêm bao thấy bay lên, tâm nhớ cõi Phật, thì thắng cảnh thầm hiện, phụng sự Thiện Tri Thức thì tự khinh thân mạng. A Nan, những vọng tưởng dù khác, nhưng sự nhẹ nhàng bay lên là động, bay động chẳng chìm, tự nhiên vượt lên, gọi là Ngoại Phần.
- A Nan! Tất cả sanh tử tương tục trên thế gian, sống thì tùy thuận theo tập khí, chết thì biến đổi theo dòng nghiệp, đến lúc lâm chung, còn chút hơi ấm, các việc thiện ác của một đời đồng thời hiện ra, sống thì thuận, chết thì nghịch, hai tập khí giao xen lẫn nhau, thuần tưởng thì bay lên, ắt sanh cõi trời, nếu cái tâm bay ấy gồm cả phước đức, trí huệ và tịnh nguyện, thì tự nhiên tâm được mở mang, thấy tất cả tịnh độ với mười phương chư Phật, theo nguyện vãng sanh.
- Tình ít tưởng nhiều, nhẹ nhàng bay xa thì làm phi tiên, đại lực quỷ vương, phi hành Dạ Xoa, địa hành La Sát, dạo khắp cõi trời, chẳng gì ngăn ngại. Trong đó nếu có thiện tâm thiện nguyện, hộ trì Phật Pháp, hoặc hộ trì giới cấm và người trì giới; hoặc hộ trì thần chú và người trì chú; hoặc hộ trì thiền định, thành tựu pháp nhẫn, thì những hạng ấy được ở cạnh pháp tọa của Như Lai.
- Tình và tưởng bằng nhau, chẳng bay chẳng chìm, sanh nơi cõi người; tưởng sáng suốt thì thông minh, tình ám muội thì ngu độn.
- Tình nhiều tưởng ít, đọa vào súc sinh, nghiệp nặng thì làm loài có lông, nghiệp nhẹ thì làm loài có cánh.
- Bảy phần tình, ba phần tưởng, thì chìm dưới thủy luân, sanh nơi hỏa luân, thân làm ngạ quỷ, thọ cái khổ của lửa hồng, thường bị đốt cháy, dầu được uống nước cũng hóa thành lửa, nên nói bị nước hại, trải qua trăm ngàn kiếp, chẳng thể ăn uống.
- Chín phần tình, một phần tưởng, thì đọa dưới hỏa luân, thân vào giữa phong luân và hỏa luân, nghiệp nhẹ thì vào ngục Hữu Gián, nghiệp nặng thì vào ngục Vô Gián.
- Thuần tình thì chìm sâu vào ngục A Tỳ, nếu tâm chìm sâu ấy, có phỉ báng Đại Thừa, phá giới cấm của Phật, cuồng vọng thuyết pháp, hư tiêu 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét