Thứ Bảy, 7 tháng 3, 2015

PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ THÙ THẮNG (TT)

tín thí, lạm nhận cung kính, hoặc phạm ngũ nghịch, thập trọng cấm, thì lại phải sanh khắp ngục A Tỳ mười phương”.
Qua đoạn Kinh Lăng Nghiêm ở trên chúng ta thấy Đức Phật dạy. Ai nặng về tình, nghĩa là lòng tham lam ái nhiễm thì đi xuống, chìm đắm đau khổ trong cảnh địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Người nặng về tình thì cuộc sống, tâm tư của họ nghiên về tình cảm hơn lý trí. Mà tình cảm nhiều thì hay phát sinh tham, sân và si nên họ dễ bị đọa. Còn ai nặng về tưởng, nghĩa là tư duy, quán chiếu, tưởng tượng. Vì vậy nên tâm thức nhẹ nhàng đi lên sanh các cõi trời, nếu quán tưởng Phật thì sanh về Tịnh độ. Người nặng về tưởng thì cuộc sống, tâm tư của họ nghiên nặng, thiên về lý trí hơn tình cảm. Do sống với lý trí nên họ ít tạo tội, vì vậy mà họ ít đọa vào các đường ác.
Hành giả tu pháp Quán tưởng niệm Phật. Chúng ta không cầu sanh cõi trời mà chỉ phát nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, thế giới của Đức Phật A Di Đà. Chúng ta thực hành như vậy thì phương pháp tu tập, tâm tư, nguyện vọng của ta tương ưng, phù hợp với hạnh nguyện độ tha, tiếp dẫn  của Đức Phật A Di Đà. Thì nhất định sẽ được vãng sanh, sẽ được Đức Phật A Di Đà và Thánh chúng tiếp dẫn chúng ta về Cực Lạc.
4. Trì danh niệm Phật
Chữ “Trì” nghĩa là nắm, giữ. Ví như khi ta cầm quả trứng, ta phải cầm kỉ không dám buông tay, vì nếu buông tay quả trứng sẽ rớt bể. Lại ví như khi đẩy xe, nếu xe lên dốc ta phải cố sức đẩy, nếu không đẩy thì xe không lên được dốc. Khi xe xuống dốc, ta phải kéo, phải rị để xe chạy từ từ, nếu ta không kéo, không rị thì xe sẽ lao xuống dốc.
Pháp “Trì danh niệm Phật” là pháp trì niệm hồng danh Đức Phật A Di Đà, nghĩa là trong tâm, miệng khi nào cũng niệm hồng danh sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật, hay bốn chữ A Di Đà Phật.
Trong các pháp niệm Phật, có pháp này là pháp dễ tu, dễ thực hành, ai tu cũng được, lại mau có kết quả, bảo đảm cho sự vãng sanh. Chư Phật, chư Bồ Tát, chư vị Tổ Sư và các vị Hiền Nhân dạy Pháp môn Tịnh độ, khuyên người niệm Phật cầu vãng sanh Cực Lạc, các Ngài cũng dạy, khuyên mọi người thực hành pháp này. Lại pháp Trì danh niệm Phật là pháp phù hợp, tương ứng với hạnh nguyện, tâm nguyện độ tha, tiếp dẫn của Đức Phật A Di Đà. Trong bốn mươi tám đại nguyện của Đức Phật A Di Đà, nguyện thứ 18 Ngài phát nguyện rằng: Ai hàng ngày tin ưa thế giới Cực Lạc, niệm danh hiệu Ngài từ một niệm đến mười niệm thì lâm chung Ngài sẽ tiếp dẫn về Tây Phương Cực Lạc. Lại nữa, trong các kinh Đức Phật dạy người niệm Phật, phần nhiều Đức Phật dạy, khuyên người tu pháp Trì danh Niệm Phật như kinh Vô Lượng Thọ, Kinh A Di Đà, Kinh Niệm Phật Ba La Mật v.v… Tiếp đến là Luận, sách của Chư Tổ cũng phần nhiều là dạy pháp Trì danh niệm Phật.
Pháp Trì danh niệm Phật là pháp rất quan trọng đối với hành giả tu pháp môn Tịnh độ. Người tu Tịnh độ niệm Phật cầu vãng sanh mà thực hành pháp Trì danh niệm Phật thì bảo đảm vãng sanh Cực Lạc.   
 Pháp trì danh niệm Phật cũng có nhiều cách. Sau đây là 6 cách tiêu biểu:
4.1. Lễ bái niệm Phật
Cách này kết hợp vừa lễ Phật vừa niệm Phật. Có thể niệm một danh hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật” lạy một lạy, hay niệm nhiều danh hiệu lạy một lạy tùy người hành trì. Cách lễ bái niệm Phật này thể hiện lòng cung kính Đức Phật, thể hiện sự tha thiết, mong muốn vãng sanh Cực Lạc (lạy bằng tấm lòng thành, chứ không phải lạy bằng hình thức hay cầu danh tiếng). Phương pháp này rất hay, làm cho hành giả sớm tiêu trừ tội lỗi, nghiệp chướng và cũng làm cho máu huyết lưu thông, gân cốt dẻo dai.
Buổi khuya, khi hành giả công phu niệm Phật, chúng ta nên lạy một trăm lẽ tám lạy. Buổi khuya lạy Phật thì có rất nhiều điều lợi; ta vừa công phu niệm Phật, cũng vừa sám hối nghiệp chướng, lại vừa vận động thân thể thay cho thời tập thể dục buổi sáng, làm cho thân thể mạnh khỏe, ít bệnh. Thật là “Nhất cử lưỡng lợi” vậy. 
4.2. Tràng chuỗi niệm Phật
Hành giả vừa lần chuỗi vừa niệm Phật. Có thể niệm một danh hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật” lần một hột, hay niệm một chữ lần một hột, tùy theo mỗi người. Hành giả lần chuỗi niệm Phật để ý thức mình đang niệm Phật, đang tu tập. Có khi miệng thì niệm Phật nhưng tâm lại chạy rong mình không kiểm soát được. Vậy xâu chuỗi là phương tiện để mình nhiếp tâm, mình ý thức sự tu tập không để cho tâm phân tán, vọng động.
4.3. Tùy tức niệm Phật
 Tức là hơi thở, tùy là theo. Pháp niệm Phật này là niệm Phật theo hơi thở. Hành giả hít vào niệm một danh hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật”, thở ra niệm một danh hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật”. Ai hơi dài thì niệm đầy đủ sáu chữ, ai hơi ngắn thì niệm bốn chữ “A Di Đà Phật”, niệm sáu chữ hay bốn chữ tùy theo sở thích của mỗi người.
4.4. Cao thanh niệm Phật
Cao thanh niệm Phật là niệm Phật to tiếng, từng chữ, từng câu, từng danh hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật”. Niệm cách này trừ được các thứ bệnh như buồn ngủ, giải đãi, tán loạn v.v...  Niệm Phật lớn tiếng cũng là một bài học, một tấm gương, một sự khuyến khích đến những người xung quanh. Mọi người xung quanh thấy chúng ta niệm Phật họ cũng niệm, tu tập theo. Vậy là hành giả tu cho mình mà cũng đã làm hạnh lợi tha vậy.
Ngày xưa, Tổ Diên Thọ mỗi đêm khuya thanh vắng, Ngài leo lên đỉnh núi cao niệm Phật, tiếng niệm Phật của Ngài rang rảng du dương vang khắp cả một vùng, làm cho người dân trong vùng ai ai cũng cảm động và niệm Phật theo. Tiếng niệm Phật của Ngài vang vọng đến cả kinh thành, nhà vua nghe được, cho người đi thỉnh Ngài về kinh thành hoằng hóa, mở hội niệm dạy người niệm Phật ở kinh thành.
4.5. Niệm Phật mặc niệm
Mặc niệm là niệm nhỏ, niệm thầm, môi miệng chỉ hơi mấp máy, nhưng trong tâm vẫn nghe rõ ràng, sáng suốt từng chữ, từng câu danh hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật”.
Cách niệm này rất tiện lợi, tất cả mọi oai nghi như đi, đứng, nằm, ngồi đều niệm Phật được. Trong mọi công việc, trong chỗ đông người, hoặc đi trên xe, trên tàu, trên máy bay đều niệm Phật được, không làm phiền đến ai. Mình đang tu, đang niệm Phật mà mọi người không ai biết mình đang tu, đang niệm Phật.
4.6. Kim cang niệm Phật
Pháp niệm Phật này là niệm không lớn, không nhỏ, không nhanh, không chậm. Hành giả niệm vừa đủ mình nghe, niệm từ từ một cách khoan thai, danh hiệu nào rõ ràng, chắc thật danh hiệu đó, niệm này nối tiếp niệm kia không gián đoạn. Công phu nghiêm mật, chắc thật như vậy nên ví dụ như kim cang. Kim cang là một loại đá quý cứng chắc không có thứ gì phá hoại nó được, ngược lại nó có thể phá hoại mọi thứ.
Phương pháp này có công hiệu rất lớn. Khi niệm Phật to có thể làm cho hành giả dễ mệt, mất sức nên công phu tu tập không được lâu dài. Niệm nhỏ lại dễ rơi vào trạng thái  hôn trầm, buồm ngủ, tán loạn. Phương pháp này tránh được hai trạng thái trên. Thực hành phương pháp này thì thời khóa công phu tu tập của hành giả sẽ được lâu dài, có thể một thời công phu niệm Phật vài tiếng đồng hồ trở lên. Lại nữa, hành giả niệm Phật rõ ràng, chắc thật, danh hiệu Phật liên tục nối nhau không xen hở nên dễ đạt được nhất tâm, dễ đạt được niệm Phật Tam Muội.  
Trong bốn phương pháp niệm Phật trên, ba phương pháp Thật tướng niệm Phật, Quán tướng niệm Phật và Quán tưởng niệm Phật là phương pháp cao, khó thực hành. Duy chỉ có pháp Trì danh niệm Phật là pháp dễ tu, dễ thực hành, mà lại mau chứng, ai ứng dụng tu tập cũng được. Trên các bậc căn cơ cao như chư Bồ Tát, Tổ Sư, dưới đến người bình dân, người mù chữ, người ác cho súc sanh đều thực hành được và đều có kết quả, đều được vãng sanh. Vì vậy mà từ xưa đến nay, chư Phật, chư Bồ Tát, các vị Tổ Sư và chư Đại Đức Tăng Ni, các ngài đều dạy, khuyên, khuyến khích hành giả thực hành pháp Trì danh niệm Phật.
Trong pháp Trì danh niệm Phật cũng có nhiều cách niệm khác nhau. Ở trên chúng tôi đưa ra sáu cách niệm Phật căn bản, tiêu biểu. Tuy nhiên trong sáu cách này, không phải hành giả phải thực hành hết, mình chọn cách niệm Phật nào cảm thấy thích, thấy phù hợp với mình để thực hành.
Hành giả có thể thực hành luôn cả các cách niệm Phật trên. Tùy theo hoàn cảnh, môi trường và sức khỏe mà chúng ta ứng dụng cho phù hợp. Như khi thấy mình tội lỗi, nghiệp chướng nhiều thì hành Lễ bái niệm Phật. Khi buồn ngủ, tán loạn thì niệm Phật lớn tiếng để tâm được tỉnh táo. Khi công việc bận rộn, hay những chỗ đông người, khi đi trên xe, trên tàu v.v… thì niệm Phật thầm. Còn khi thời gian rảnh rổi, muốn công phu tu tập được lâu dài, thì thực hành pháp Kim cang niệm. Nói chung, tùy theo hoàn cảnh, môi trường mà hành giả ứng dụng niệm Phật mỗi cách khác nhau, miễn sao trong tâm vẫn luôn nhớ Phật niệm Phật.
LỢI ÍCH CỦA PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ
          Người tu Pháp môn  Tịnh độ, hàng ngày niệm Phật có rất nhiều lợi ích cho bản thân, gia đình và xã hội trong hiện tại và tương lai. Sau đây chúng ta sẽ thấy những lợi ích này:
I. Lợi ích trong hiện tại
1. Niệm Phật sẽ trừ được niệm chúng sanh
          Tâm chúng ta luôn suy nghĩ tính toán lăng xăng, không lúc nào yên, nên Phật thường gọi là: “Tâm viên ý mã”, nghĩa là tâm ý như con khỉ chuyền cành, như con ngựa chạy rong. Chính những tâm niệm, ý thức này lại dẫn chúng sanh, chúng ta đi trong sanh tử luân hồi. Vì vậy mà Duy Thức Tông nói: “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức” là vậy.
          Nếu tâm chúng ta ác độc, luôn tìm cách hại người, hại vật thì đây chính là tâm niệm của loài địa ngục, tương lai sẽ làm chúng sanh địa ngục, ở trong cảnh giới địa ngục. Nếu tâm chúng ta tham lam, bỏn sẻn, keo kiệt thì đây chính là tâm niệm của loài ngạ quỷ, tương lai nhất định sẽ làm ngạ quỷ, ở trong cảnh giới của loài ngạ quỷ. Nếu tâm chúng ta si mê, ám độn, mê tín thì đây chính là tâm niệm của loài súc sanh, tương lai sẽ làm thân súc sanh, ở trong cảnh giới của loài súc sanh. Nếu tâm của ta hướng về Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng), quy y Tam bảo, thọ trì Ngũ giới (không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu và các chất say) thì tương lai chúng ta sẽ tiếp tục làm người, gặp Phật, Pháp, Tăng tiếp tục tu tập. Nếu tâm chúng ta hướng đến việc thiện, hàng ngày cúng dường, bố thí, tu hành Thập thiện (1 không sát sanh, 2 không trộm cắp, 3 không tà hạnh, 4 không nói dối, 5 không nói lời thiêu dệt, 6 không nói hai lưỡi, 7 không nói lời độc ác, 8 không tham dục, 9 không sân khuể, 10 không tà kiến) thì đây chính là tâm chư thiên, tương lai chúng ta sẽ làm thân chư thiên, ở cảnh giới chư thiên v.v…
          Nói chung, tùy tâm niệm của chúng ta lương thiện hay ác độc mà tương lai chiêu cảm qủa báo tương xứng trong các loài chúng sanh. Nhưng phần đông, đa số tâm niệm của chúng sanh, chúng ta suy nghĩ hướng đến việc thiện thì ít mà suy nghĩ hướng về việc ác thì nhiều. Tâm chúng ta luôn mong cầu, hướng đến ngũ dục, lục trần rồi khởi lên tham sân si phiền não nghiệp chướng. Những phiền não, nghiệp chướng này lại dẫn chúng ta sa đọa vào trong tam đồ, ác đạo chịu nhiều khổ đau.
          Trong Phật giáo, có một bức tranh minh họa, tượng trưng, ví dụ rất sinh động về pháp giới chúng sanh. Đó là bức tranh: “Thập pháp giới”, bức tranh này ở giữa viết chữ Tâm () rất lớn, trên chữ tâm vẽ bốn cảnh giới của bốn bậc Thánh là Phật, Bồ Tát, Duyên Giác và Thanh Văn. Hai bên chữ tâm vẽ ba cảnh giới là người trời và a tu la. Dưới chữ tâm vẽ ba cảnh giới là địa ngục, ngạ qủy và súc sanh.
          Ý nghĩa bức tranh này chỉ cho chúng ta biết từ một cái “Tâm” mà hiện ra mười cảnh giới khác nhau. Tất cả các cảnh giới Thánh phàm, đau khổ hay an vui đều xuất phát từ tâm. Tâm đại từ đại bi thương tất cả chúng sanh, muốn cứu độ tất cả chúng sanh đó là tâm Phật, tâm Phật thì sẽ làm Phật. Tâm tùy duyên tìm cách làm lợi ích chúng sanh đó là tâm Bồ Tát, tâm Bồ Tát thì sẽ làm Bồ Tát. Tâm chán sanh tử khổ đau, muốn tu tập để được giải thoát giác ngộ đó là tâm Thanh Văn, Duyên Giác, tâm Thanh Văn Duyên Giác thì sẽ làm Thanh Văn, Duyên Giác. Tâm bỏ ác làm lành, giữ giới, phóng sanh, bố thí, cúng dường là tâm người và trời, tâm người và trời thì sẽ làm thân trời người. Tâm rộng rải cúng dường, bố thí, giúp đỡ mọi người nhưng lại hay nóng giận, ưa đấu tranh, có giữ giới mà giữ không trọn vẹn đây là tâm a tu la, tâm a tu la thì làm a tu la, ở cảnh giới a tu la (A tu là là một loài ở khoảng giữa người và trời. A tu la có phước bằng chư thiên nhưng đức không bằng chư thiên. A tu la có phước hơn người, lại có thần thông nhưng sự nhẫn nhịn, chịu đựng không bằng người. Loài a tu la đàn ông rất xấu, nhưng ngược lại người nữ rất đẹp).  Tâm tham, sân, si nặng nề là tâm địa ngục, ngạ qủy, súc sanh, tâm địa ngục, ngạ qủy, súc sanh thì sẽ làm địa ngục, ngạ qủy, súc sanh.
          Chúng ta biết được tất cả các cảnh giới Thánh phàm, đau khổ hay an vui đều xuất phát từ tâm. Vậy chúng ta hãy xét lại mình, xem tâm của ta hàng ngày niệm cảnh giới nào nhiều. Có lẽ ta niệm cảnh giới chúng sanh nhiều hơn là niệm cảnh giới thánh. Vì vậy mà hiện tại hay tương lai chúng ta đều đau khổ. Hôm nay chúng ta biết được Pháp môn Tịnh độ, hàng ngày ứng dụng tu tập, chuyên tâm niệm Phật, tâm niệm Phật thì không còn niệm chúng sanh. Vậy là ta đã cắt đứt con đường sanh tử. Con đường của chúng ta đi bây giờ là con đường Phật đạo, đi trên con đường Phật đạo thì dù sớm hay muộn gì chúng ta cũng sẽ thành Phật.
          Lại nữa khi xưa chúng ta chưa tu, tâm khi nào cũng đầy dẫy tham, sân, si. Vì vậy mà ta tự làm khổ đau cho mình, cho gia đình và xã hội. Hôm nay chúng ta tu tập, biết ăn chay niệm Phật. Chúng ta trỡ thành người đạo đức lương thiện, tâm khi nào cũng muốn làm lợi ít mọi người, không ác ý với ai. Như vậy mình luôn được bình an, gia đình, xã hội cũng được nhiều lợi ích.
          2. Niệm Phật sẽ trừ được tâm buồn phiền lo sợ
          Chúng ta là chúng sanh, là phàm phu nên không tránh được những buồn phiền đau khổ. Sống trên thế gian này dễ phát sanh những buồm phiền lo sợ. Như nào là gặp cảnh sanh ly tử biệt, con cháu ngỗ nghịch, gia tài thất thoát, công danh, sự nghiệp không thành, nào là giặc giả, trộm cướp, thiên tai v.v… Khi gặp những hoàn cảnh này làm cho ta buồn phiền đau khổ. Lúc này ta hãy cố gắng niệm Phật thật nhiều, thì những phiền muộn ấy sẽ từ từ thuyên giảm, tâm trí bình tỉnh, sáng suốt trỡ lại.
          Nếu như người không tu, không biết niệm Phật thì những buồn phiền này làm cho ăn không ngon, ngủ không yên, ngày đêm dằn vặt đau khổ có khi đi tự tử. Nhưng cái chết không thể cứu họ, không làm hết phiền lụy mà càng làm tăng thêm sự đau khổ mà thôi. Đạo Phật không tán đồng sự tự tử. Đức Phật dạy; nếu chúng ta gặp oan gia thì lấy ân đáp lại, gặp trường hợp nguy nan, khó xử thì hãy bình tỉnh tìm cách giải quyết, nếu tâm buồn phiền đau khổ thì lo tu tập để thoát khổ. Vậy mỗi khi gặp những nghịch cảnh như vậy chúng ta hãy tìm cách hóa giải, nhất là ứng dụng pháp niệm Phật thì những buồn phiền, đau khổ ấy từ từ sẽ hết.
          3. Niệm Phật sẽ diệt được tham sân si phiền não
Tham sân si phiền não là những thứ giặc làm cho chúng sanh, chúng ta đau khổ. Bọn chúng cũng là nguyên nhân, nguồn gốc dẫn chúng ta đi trong sanh tử luân hồi. Bây giờ chúng ta tu tập, niệm Phật thì những thứ giặc này lần lần sẽ được dứt trừ, tiêu diệt.
          Ví như có một cái giếng mới đào, muốn cho nước trong người ta bỏ phèn chua và than xuống, sau một vài tiếng nước dưới giếng sẽ trong. Hay như có một ly nước đục, muốn ly nước được trong người ta bỏ hóa chất lọc nước vào làm cho nước trong. Cũng vậy, tâm chúng ta đầy dẫy những cấu uế bất tịnh, đầy dẫy tham sân si phiền não. Nếu chúng ta bỏ danh hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật” vào trong tâm, danh hiệu Phật có tác dụng thanh lọc những cấu uế trong tâm làm cho tâm được thanh tịnh, sáng suốt, mát mẻ.
           Người tu tập Pháp môn Tịnh độ, hàng ngày siêng năng tinh tấn niệm Phật. Sau một thời gian tu tập, ta thấy được kết quả mà mình không ngờ trước được. Khi chưa tu, chưa niệm Phật tâm ta tham sân si phiền não đủ thứ. Lại hay giận hờn với mọi người, hay cải vả làng xóm, ham ăn, ham ngủ, ưa nói chuyện thị phi của thiên hạ. Nay tâm ta hiền lành, ít tham sân si phiền não, tâm từ bi thương người thương vật. Tâm khi nào cũng hoan hỷ, dễ tha thứ cho người, ưa cúng dường, bố thí, phóng sanh cứu vật. Những thành quả tốt đẹp này là do công phu tu tập niệm Phật, do công đức, oai lực của danh hiệu Đức Phật A Di Đà. Nếu ai niệm Phật đạt đến nhất tâm bất loạn, đạt đến niệm Phật Tam Muội, niệm Phật Ba La Mật thì sẽ đoạn sạch vô minh, phiền não, chứng đắc giải thoát Niết Bàn ngay trong đời này.
          4. Niệm Phật sẽ được Phật gia hộ tiêu tai giải nạn
          Người phát tâm niệm Phật thì được chư Phật, chư Bồ Tát, chư Thánh Hiền Tăng, chư Thiện Thần Hộ Pháp gia hộ. Vì vậy nên người niệm Phật gặp rất nhiều sự linh ứng, mầu nhiệm vượt ra ngoài khoa học, khoa học không thể giải thích.
          Có người bệnh nặng hết phương cứu chữa, họ thành tâm niệm Phật cầu Phật gia hộ cho lành bệnh thì bệnh được lành. Có người đi trên xe, trên tàu khi xe tàu gặp nạn họ niệm Phật cầu Phật Bồ Tát gia hộ thì được bình an vô sự. Có người ra biển gặp sóng to, gió lớn sắp mất mạng, họ niệm Phật cầu Phật gia hộ, thì ghe thuyền được bình an vào bờ. Những chuyện niệm Phật cảm ứng được viết, kể lại rất nhiều trong sách vỡ. Ở đoạn cuối cuốn sách chúng tôi có trích dẫn nhiều mẫu chuyện linh ứng mầu nhiệm của người niệm Phật để chứng minh.
          Niệm Phật có nhiều sự linh ứng, mầu nhiệm như vậy nên chúng ta phải thường xuyên niệm Phật. Vì cuộc đời, cuộc sống của chúng ta có rất nhiều sự nguy hiểm, rủi ro. Nhất là trong thời đại ngày nay có rất nhiều sự nguy hiểm như trộm cướp, bệnh tật, thiên tai, tai nạn giao thông v.v… Nếu chúng ta không niệm Phật cầu Phật gia hộ thì những tai nạn, rủi ro không lường trước được.
          Niệm Phật cũng sớm tiêu trừ tội lỗi, nghiệp chướng. Người nghiệp chướng nặng nề nếu thường xuyên niệm Phật thì nghiệp chướng sẽ sớm tiêu trừ. Trong kinh Đức Phật dạy: “Niệm một danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật sẽ tiêu trừ 80 ức kiếp tội lỗi sanh tử”. Vậy chúng ta niệm Phật càng nhiều thì nghiệp chướng sẽ lần lần tiêu trừ, công đức ngày càng tăng trưởng, sự tu tập mau tiến bộ, sớm được vãng sanh về Cực Lạc.
II. Lợi ích trong tương lai
          1. Sau khi xã bỏ báo thân này sẽ được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc
          Điều lợi ích quan trọng, to lớn của hành giả tu Pháp môn Tịnh độ là được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Chúng ta niệm Phật có đầy đủ ba điều kiện là Tín, Hạnh và Nguyện thì bảo đảm, chắc chắn sẽ được vãng sanh về Cực Lạc. Khi đã được vãng sanh Cực Lạc chúng ta trỡ thành bậc Thánh bất thối chuyển, được ở trong một thế giới huy hoàng lộng lẫy, thanh tịnh, trang nghiêm, an lạc. Hàng ngày ta diện kiến Đức Phật A Di Đà, Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Đại Thế Chí và chư Thánh chúng cõi Cực Lạc. Chúng ta được Phật và chư Bồ Tát dìu dắc, dạy dỗ thật là một thuận duyên thù thắng không chi bằng. Được vãng sanh Cực Lạc là một công đức, lợi ích lớn vô cùng. 
          2. Vãng sanh Cực Lạc chúng ta có cơ duyên đi cúng dường mười phương chư Phật, giáo hóa chúng sanh
          Trong kinh Đức Phật nói; người ở cõi Cực Lạc có thần thông tự tại, chỉ trong khoảng chưa đầy bữa ăn họ có thể đi cúng dường mười phương chư Phật. Vậy khi vãng sanh về Cực Lạc, chúng ta dùng thần thông đi cúng dường mười phương chư Phật, chư Bồ Tát, chư Thánh hiền Tăng. Ta lại dùng thần thông đi đến mười phương thế giới giáo hóa cứu độ chúng sanh, nhất là trở lại cõi Ta Bà giáo hóa, cứu độ bà con quyến thuộc của mình. Chúng ta làm được những việc này thì công đức bất khả tư nghì không thể nào tính đếm được. Ta làm được những việc này, chỉ có vãng sanh về Cực Lạc mới làm được, còn ở cõi Ta Ba hay thế giới khác không thể làm được. Vì vậy, vãng sanh Cực Lạc là một công đức, một thắng duyên to lớn, là mục đích tối hậu của hành giả niệm Phật.
          3. Ở cõi Cực Lạc chúng ta tu tập dễ dàng, sớm thành Phật đạo
          Trong  Kinh A Di Đà Đức Phật nói: “Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc, những chúng sanh vãng sanh vào đó đều là bực bất thối chuyển”. Kinh Niệm Phật Ba La Mật Đức Phật lại xác quyết một lần nữa: “Diệu Nguyệt nên biết, đây thật là pháp vi diệu thù thắng đệ nhất, mà chư Phật dùng để cứu độ khắp hết thảy chúng sanh. Đây thật là môn tu thích đáng khế hợp mọi căn cơ mà chư Phật dùng để đưa hết thảy muôn loài xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết Bàn tại thế, thành Phật trong một đời”.
Qua hai đoạn kinh trên, chúng ta thấy, ai được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc đều trở thành bậc Bất thối chuyển, một đời thành Phật, nếu tu tập chậm lắm là vài đời sẽ thành. Ở điểm này, chúng ta lấy giáo lý mà so sánh. Trong giáo lý tiệm tu Đức Phật dạy; một người từ khi mới phát Bồ Đề tâm tu tập cho đến ngày thành Phật phải trải qua Ba A tăng kỳ kiếp, ba a tăng kỳ kiếp là một con số rất lớn không thể nào tính đếm được. Còn về quả vị tu chứng, người tu từ khi mới phát tâm Bồ Đề tu tập cho đến thành Phật phải trải qua 52 quả vị gồm: Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác và Diệu Giác. Vậy  một người tu ở cõi Ta Bà hay những thế giới khác, từ khi phát tâm tu tập cho đến ngày thành Phật phải trải qua thời gian lâu xa, trải qua bao nhiêu địa vị. Còn người ở cõi Cực Lạc, tu tập trong một thời gian ngắn, chỉ trong một đời hay vài đời là thành Phật. Qua sự so sánh này  chúng ta thấy tu Pháp môn Tịnh độ rất dễ dàng mà mau chóng, vược qua các địa vị đi thẳng đến quả vị Phật. Vì vậy mà Đức Phật, chư Bồ Tát, các vị Tổ sư nói Pháp môn Tịnh độ là pháp thù thắng đệ nhất, là con đường tu tắt.
Lại so sánh tiếp, trong 52 quả vị Bồ Tát, ở bậc Thập Địa gồm có mười vị, vị thứ Tám là Bát Địa cũng còn gọi là Bất Động Địa, địa vị này không còn thối chuyển nên gọi là Bất động. Vậy mà, người tu Tịnh độ khi được vãng sanh liền được Bất thối chuyển, ngang hàng với Bồ Tát Thập Địa.
Để làm cho hành giả tu tập hiểu được Pháp môn Tịnh độ là pháp thù thắng, con đường tu tắc, vượt qua các vị, sớm thành Phật đạo. Các vị Tổ sư Tịnh độ đưa ra một ví dụ minh họa như sau:
          Ví như có con sâu ở trong cây tre. Con sâu muốn ra ngoài, nó đục dọc các đốt tre từ dưới lên đến trên ngọn và ra ngoài.
          Lại có một con sâu khác khôn ngoan hơn, không đục dọc mà đục ngang thân tre, chỉ cần đục một lớp liền ra ngoài dễ dàng.
          Qua ví dụ trên, chúng ta thấy con sâu thứ nhất ra ngoài tốn rất nhiều công sức, thời gian. Còn con sâu thứ hai, khôn ngoan biết đi đường tắt, nó chọn cách đục ngang, chỉ cần đục một lớp, ít tốn sức, thời gian, lại ra ngoài một cách dễ dàng mau lẹ.
          Người tu niệm Phật cũng vậy, ít tốn công sức khổ nhọc mà lại sớm giải thoát, mau thành Phật. Vậy nên Pháp môn Tịnh là pháp thù thắng đệ nhất trong tám vạn bốn ngàn pháp môn. Chúng ta nhờ có nhân duyên phước đức nhiều đời nhiều kiếp nên nay mới gặp được pháp môn này. Vậy chúng ta hãy ứng dụng thực hành tu tập, niệm Phật và phát nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, tu tập sớm thành Phật đạo, cùng chư Phật giáo hóa cứu độ chúng sanh.
TRÍCH DẪN NHỮNG ĐOẠN KINH LUẬN NHỮNG LỜI CHỈ DẠY KHUYÊN TU PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ CỦA PHẬT BỒ TÁT TỔ SƯ VÀ CÁC VÌ HIỀN NHÂN
Để làm rõ thêm Phương pháp tu tập Pháp môn Tịnh độ, nhất là pháp Trì danh niệm Phật, và cũng để làm tăng thêm niềm tin cho hành giả đang tu tập Pháp niệm Phật. Sau đây, chúng tôi trích dẫn những đoạn Kinh, Luận, những lời chỉ dạy, khuyên tu Pháp môn Tịnh độ của Phật, chư Bồ Tát, chư vị Tổ Sư, chư vị Hiền Nhân. Những đoạn kinh luận, những lời chỉ dạy này là khuôn vàng thước ngọc, là kim chỉ nam, là hành trang cho hành giả tu tập Pháp môn Tịnh độ. Sau đây là những đoạn kinh luận, những lời chỉ dạy này:
1. Kinh A Di Đà
Trong Kinh A Di Đà, có đoạn Đức Phật dạy cách niệm Phật để được sanh về Cực Lạc như sau:
Xá Lợi Phất! Nếu có hàng thiện nam thiện tử, thiện nữ nhân nào nghe nói Đức Phật A Di Ðà, rồi chấp trì danh hiệu Đức Phật đó, hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, bảy ngày, một lòng không tạp loạn.
Thời người đó đến lúc lâm chung thấy Đức Phật A Di Ðà cùng hàng Thánh Chúng hiện thân trước người đó.
Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của Phật A Di Ðà.
Xá Lợi Phất! Ta thấy có sự lợi ích ấy nên nói những lời như thế.
Nếu có chúng sinh nào nghe những lời trên đó, nên phải phát nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc.
2. Kinh Vô Lượng Thọ
Trong Kinh Vô Lượng Thọ, Nguyện thứ 18, ngài Pháp Tạng phát nguyện như vầy:
Khi tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương chí tâm tin ưa muốn sanh về nước tôi nhẫn đến mười niệm, nếu không được sanh thì tôi chẳng ở ngôi chánh giác.
Đoạn Đức Phật dạy về Ba phẩm vãng sanh trong Kinh Vô Lượng Thọ như sau:
Nầy A Nan! Chúng sanh ở mười phương, những người và chư thiên nguyện cầu sanh về nước an lạc của đức Vô Lượng Thọ Phật có ba hạng:
Hạng thượng phẩm là những người bỏ nhà lìa ái dục mà làm Sa Môn, phát tâm Bồ Đề, chuyên một lòng niệm Vô Lượng Thọ Phật, tu các công đức, nguyện sanh về nước ấy. Lúc chúng sanh này lâm chung, Đức Vô Lượng Thọ Phật cùng hàng Thánh chúng hiện ra trước người ấy, liền theo Đức Phật sanh về nước An Lạc, tự nhiên hóa sanh từ trong hoa sen thất bảo, ở bực bất thối chuyển, trí huệ dũng mãnh, thần thông tự tại.
Vì thế nên, nầy A Nan! Có ai muốn hiện đời được thấy Đức Vô Lượng Thọ Phật thì phải phát tâm Vô thượng Bồ Đề tu những công đức nguyện sanh về nước An Lạc.
Nầy A Nan! Hạng trung phẩm là những người và chư thiên ở các thế giới mười phương, có ai chí tâm nguyện sanh về nước ấy, nhưng phải phát tâm Vô thượng Bồ Đề chuyên một mặt niệm Vô Lượng Thọ Phật, làm lành hoặc ít hoặc nhiều, giữ gìn giới Bát quan trai, xây dựng tháp tượng, trai tăng, treo phan, thắp đèn, rải hoa, đốt hương, dùng đây để hồi hướng nguyện sanh về nước An Lạc. Lúc người nầy lâm chung, Đức Vô Lượng Thọ Phật hóa hiện thân ra đủ tướng tốt và quang minh như chơn Phật cùng với Thánh chúng đến trước người ấy, liền theo Đức Hóa Phật sanh về nước An Lạc ở bực bất thối chuyển. Công đức trí huệ kế bực thượng phẩm.
Nầy A Nan! Hạng hạ phẩm là có những người và chư thiên ở các thế giới mười phương chí tâm muốn sanh về nước An Lạc, giả sử chẳng làm được các công đức, họ phải phát tâm Vô thượng Bồ Đề, một mặt chuyên tâm niệm Vô Lượng Thọ Phật cho đến mười niệm nguyện sanh nước An Lạc, hoặc nghe pháp Ðại thừa vui mừng tin ưa chẳng sanh nghi hoặc niệm Vô Lượng Thọ Phật cho đến một niệm, dùng tâm chí thành nguyện sanh nước An Lạc. Người ấy lúc lâm chung chiêm bao thấy Đức Vô Lượng Thọ Phật cũng được vãng sanh, công đức trí huệ kế bực trung phẩm.
2. Kinh Quán Vô Lượng Thọ
Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ, đoạn Đức Phật dạy về 16 pháp quán. Trong đó ba pháp quán 14, 15 và 16 Ngài dạy như sau:
Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi: “Người sanh Cực Lạc thế giới, bực thượng phẩm thượng sanh ấy. Nếu có chúng sanh nguyện sanh Cực Lạc thế giới phát ba thứ tâm liền được vãng sanh.
Những gì là ba tâm?
Một là chí thành tâm. Hai là thâm tâm và ba là hồi hướng phát nguyện tâm. Người đủ ba tâm này ắt sanh Cực Lạc thế giới.
Còn có ba hạng chúng sanh sẽ được vãng sanh.
Những gì là ba hạng?
Một là từ tâm bất sát đủ các giới hạnh. Hai là đọc tụng kinh điển phương đẳng Đại thừa. Ba là tu hành lục niệm hồi hướng phát nguyện nguyện sanh Cực Lạc.
Người đủ các công đức nầy từ một ngày đến bảy ngày liền được vãng sanh.
Lúc sanh về nước ấy, vì người nầy tinh tiến dũng mãnh nên A Di Đà Như Lai cùng Quan Thế Âm, Đại Thế Chí, vô số Hóa Phật, trăm ngàn Tỳ Kheo Thanh Văn đại chúng, vô lượng chư Thiên, cung điện bảy báu. Quan Thế Âm Bồ Tát cầm đài kim cương cùng Đại Thế Chí Bồ Tát đến trước hành nhơn. A Di Đà Phật phóng đại  quang minh chiếu thân hành giả cùng các Bồ Tát trao tay nghinh tiếp. Quan Thế Âm, Đại Thế Chí cùng vô số Bồ Tát tán thán hành giả khuyến khích sách tiến tâm hành giả. Hành giả thấy rồi hoan hỷ dũng dước tự thấy thân mình ngồi đài kim cương đi theo sau Phật. Như khoảng khảy ngón tay vãng sanh nước Cực Lạc. Sanh nước Cực Lạc rồi thấy sắc thân Phật A Di Đà đầy đủ các tướng. Thấy chư Bồ Tát sắc tướng đầy đủ. Quang minh cây rừng báu diễn nói diệu pháp. Nghe rồi liền ngộ Vô sanh pháp nhẫn. Trong thời gian giây lát đi khắp thập phương thế giới kính thờ chư Phật. Ở trước chư Phật thứ đệ thọ ký. Trở về bổn quốc được vô lượng trăm ngàn đà la ni. Đây gọi là người thượng phẩm thượng sanh.
Người thượng phẩm trung sanh ấy. Người nầy bất tất thọ trì đọc tụng kinh điển phương đẳng Đại thừa. Đem công đức ấy hồi hướng nguyện cầu sanh Cực Lạc thế giới. Người có công hạnh như vậy, lúc lâm chung, A Di Đà Phật cùng Quan Thế Âm, Đại Thế Chí, vô lượng đại chúng vây quanh cầm đài tử kim đến trước hành giả khen rằng: Nầy Pháp tử! Ngươi hành Đại thừa hiểu đệ nhứt nghĩa nên nay ta đến nghinh tiếp ngươi. Đức Phật A Di Đà cùng ngàn Hóa Phật đồng thời trao tay. Hành giả ấy tự thấy mình ngồi đài tử kim, chắp tay xếp cánh tán thán chư Phật. Như khoảng một niệm liền sanh nước Cực Lạc trong ao thất bửu, Đài tử kim ấy như hoa sen lớn qua một đêm liền nở. Thân hành giả màu vàng tử ma, dưới chưn cũng có  hoa sen bảy báu.
Phật và Bồ Tát đồng thời phóng quang chiếu thân hành giả mắt liền mở sáng. Nhơn túc tập trước nên khắp nghe các âm thanh thuần nói thậm thâm đệ nhứt nghĩa đế. Hành giả ấy liền xuống kim đài lạy Phật chắp tay tán thán Thế Tôn, qua bảy ngày liền được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ Đề, liền có thể bay đi khắp mười phương kính thờ chư Phật, ở trước chư Phật tu các tam muội, qua một tiểu kiếp được Vô sanh nhẫn hiện tiền thọ ký. Đây gọi là người thượng phẩm trung sanh vậy.
Người thượng phẩm hạ sanh ấy. Người nầy cũng tin nhơn quả chẳng hủy báng Đại thừa, chỉ phát tâm Vô thượng Bồ Đề. Đem công đức ấy hồi hướng nguyện cầu sanh Cực Lạc thế giới.
Hành giả ấy lúc lâm chung, A Di Đà Phật cùng Quan Thế Âm, Đại Thế Chí và chư Bồ Tát cầm hoa sen vàng hóa làm năm trăm Phật đến rước. Năm trăm Hóa Phật đồng thời  trao tay khen rằng: Nầy Pháp tử. Nay ngươi thanh tịnh phát tâm Vô thượng Bồ đề, ta đến rước ngươi. Hành giả lúc thấy sự ấy liền tự thấy thân mình ngồi kim liên hoa. Ngồi rồi hoa búp lại theo sau Phật liền được vãng sanh Cực Lạc thế giới trong ao thất bửu. Qua một ngày một đêm kim liên hoa mới nở. Qua bảy ngày mới được thấy Phật. Dầu thấy thân Phật mà chẳng thấy tỏ rõ các tướng hảo. Sau hai mươi mốt ngày mới thấy rõ hết. Nghe các âm thanh đều diễn diệu pháp, đi khắp mười phương cúng dường chư Phật. Ở trước chư Phật nghe thậm thâm pháp. Qua ba tiểu kiếp được bá pháp minh môn trụ bực Hoan hỉ địa. Đây gọi là người thượng phẩm hạ sanh vậy.
Đây gọi là pháp tưởng hàng thượng phẩm vãng sanh, gọi là pháp quán thứ mười bốn”.
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi:
“Người trung phẩm thượng sanh ấy.
Nếu có chúng sanh thọ trì ngũ giới, trì bát giới trai, tu hành các giới chẳng tạo ngũ nghịch không có các tội lỗi. Đem thiện căn nầy nguyện cầu sanh Cực Lạc thế giới. Hành giả lúc lâm chung, A Di Đà Phật cùng các Tỳ Kheo quyến thuộc vây quanh phóng ánh sáng kim sắc đến chỗ hành giả diễn nói khổ không vô thường vô ngã tán thán xuất gia được lìa các sự khổ. Hành giả thấy rồi lòng rất vui mừng tự thấy thân mình ngồi đài liên hoa quỳ dài chắp tay đảnh lễ Phật, lúc chưa cất đầu lên liền được vãng sanh Cực Lạc thế giới, liên hoa liền nở. Lúc hoa sen nở nghe các âm thanh tán thán Tứ đế liền được A La Hán đạo tam minh, lục thông, đủ bát giải thoát. Đây gọi là người trung phẩm thượng sanh vậy.
Người trung phẩm trung sanh ấy.
Nếu có chúng sanh hoặc một ngày một đêm trì bát giới trai, hoặc một ngày một đêm trì giới Sa di, hoặc một ngày một đêm trì Cụ Túc giới oai nghi không kém thiếu. Đem công đức này hồi hướng nguyện cầu sanh Tây phương Cực Lạc thế giới.
Do giới hương huân tu, hành giả nầy lúc lâm chung thấy A Di Đà Phật cùng các quyến thuộc phóng kim sắc quang cầm bửu liên hoa đến trước hành giả. Hành giả tự nghe hư không có tiếng khen rằng: Này thiện nam tử! Như ngươi hàng thiện nhơn tùy thuận lời dạy tam thế chư Phật nên ta đến rước. Hành giả tự thấy thân mình ngồi trên hoa sen, hoa sen liền búp lại sanh trong ao báu Tây phương Cực Lạc thế giới. Qua bảy ngày liên hoa mới nở. Hoa nở rồi mở mắt chắp tay tán thán Thế Tôn, nghe pháp hoan hỉ được quả Tu Đà Hoàn. Qua nửa kiếp thành bực A La Hán. Đây gọi là người trung phẩm trung sanh vậy.
Trung phẩm hạ sanh ấy.
Nếu có thiện nam thiện nữ hiếu dưỡng cha mẹ làm việc nhơn từ thế gian. Người này  lúc lâm chung gặp thiện tri thức vì họ mà nói rộng những sự vui nơi quốc độ Phật A Di Đà cũng nói bốn mươi tám nguyện của Pháp Tạng Tỳ Kheo, nghe rồi liền chết. Ví như khoảng thời gian tráng sĩ co duỗi cánh tay, liền được vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Qua bảy ngày gặp Quan Thế Âm và Đại Thế Chí Bồ Tát, nghe pháp hoan hỷ được quả Tu Đà Hoàn. Qua một tiểu kiếp thành A La Hán. Đây gọi là người trung phẩm hạ sanh vậy.
Đây gọi là pháp tưởng hạng trung phẩm vãng sanh, gọi là pháp quán thứ mười lăm”.
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi:
“Người hạ phẩm thượng sanh ấy. Hoặc có chúng sanh tạo những nghiệp ác. Người ngu như vậy dầu chẳng hủy báng kinh điển Phương đẳng Đại thừa mà tạo nhiều việc ác không có tàm quí. Người nầy lúc lâm chung gặp thiện tri thức vì họ mà nói mười hai bộ kinh Đại thừa danh tự đầu đề. Do nghe tên các kinh như vậy dứt trừ ngàn kiếp ác nghiệp cực trọng. Trí giả lại bảo chắp tay xếp cánh xưng Nam mô A Di Đà Phật. Do xưng danh hiệu Phật nên trừ năm mươi ức kiếp tội sanh tử. Lúc ấy Phật A Di Đà liền sai Hóa Phật, hóa Quan Thế Âm, hóa Đại Thế Chí đến trước hành giả khen rằng: Này thiện nam tử! Vì ngươi xưng danh hiệu Phật các tội tiêu diệt ta đến rước ngươi. Nghe nói lời ấy rồi, hành giả liền thấy quang minh của Hóa Phật chiếu sáng cả nhà. Thấy rồi hoan hỉ mạng chung ngồi bửu liên hoa theo sau Hóa Phật sanh trong ao báu Cực Lạc thế giới. Qua bốn mươi chín ngày hoa sen báu mới nở. Đương lúc hoa nở, Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát phóng đại quang minh đứng trước người ấy, vì người ấy nói thậm thâm Thập nhị bộ kinh. Người ấy nghe rồi tin hiểu phát vô thượng đạo tâm. Qua mười tiểu kiếp đủ bá pháp minh môn được nhập bực Sơ địa. Đây gọi là người hạ phẩm thượng sanh vậy”.
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi : “Người hạ phẩm trung sanh ấy.
Hoặc có chúng sanh hủy phạm ngũ giới bát giới và cụ túc giới. Người ngu này trộm của vật Tăng kỳ, trộm của vật hiện tiền Tăng, bất tịnh thuyết pháp, không có tàm quý, dùng các ác nghiệp để tự trang nghiêm. Người tội như đây do nghiệp ác phải đọa địa ngục, lúc lâm chung các lửa địa ngục đồng thời hiện đến. Gặp thiện tri thức vì lòng đại từ bi vì người ấy mà khen nói thập lục oai đức của đức Phật A Di Đà, rộng khen quang minh thần lực của đức Phật A Di Đà, cũng tán dương giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Người ấy nghe rồi trừ tám mươi ức kiếp tội sanh từ. Lửa mạnh địa ngục biến thành gió mát thổi các thiên hoa bay đến. Trên hoa đều có Hóa Phật, Hóa Bồ Tát tiếp rước người ấy. Trong khoảng một niệm liền được sanh trong hoa sen nơi ao báu Cực Lạc thế giới. Qua sáu kiếp hoa sen mới nở. Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát dùng phạm âm thanh an úy người ấy, vì người ấy mà nói kinh điển Đại thừa thậm thâm. Nghe pháp ấy rồi, người ấy liền phát tâm vô thượng đạo. Đây gọi là người hạ phẩm trung sanh vậy”.
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi: “Người hạ phẩm hạ sanh ấy.
Hoặc có chúng sanh tạo nghiệp bất thiện ngũ nghịch, thập ác đủ các bất thiện. Người ngu như vậy, do ác nghiệp phải đọa ác đạo trải qua nhiều kiếp thọ khổ vô cùng. Người ngu ấy lúc lâm chung gặp thiện tri thức dùng nhiều lời an ủy vì nói diệu pháp dạy bảo niệm Phật. Ngươi ấy bị khổ bức không rãnh niệm được. Thiện hữu bảo rằng nếu ngươi chẳng thể niệm Phật kia được thì ngươi nên xưng danh hiệu Phật A Di Đà, như vậy chí tâm khiến tiếng xưng danh chẳng dứt đủ mười niệm. Nên xưng như vầy: Nam Mô A Di Đà Phật. Do xưng danh hiệu Phật nên trong mỗi niệm trừ tám mươi ức kiếp tội sanh tử. Lúc mạng chung thấy kim liên hoa dường như mặt nhựt trụ trứơc người ấy. Như khoảng một niệm liền được vãng sanh Cực Lạc thế giới ở trong hoa sen mãn mười hai đại kiếp hoa sen ấy mới nở. Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát dùng âm thanh đại bi vì người ấy diễn nói thiệt tướng các pháp, nói pháp trừ diệt tội. Người ấy nghe pháp rồi rất vui mừng liền phát tâm Vô thượng Bồ Đề. Đây gọi là người hạ phẩm hạ sanh.
Đây gọi là pháp tưởng hạng hạ phẩm vãng sanh, gọi là pháp quán thứ mười sáu vậy.
4. Kinh Niệm Phật Ba La Mật
Sau đây là đoạn trưởng giả Diệu Nguyệt xin Đức Phật chỉ dạy pháp môn thù thắng, và lời chỉ dạy của Đức Phật, trích trong Kinh Niệm Phật Ba La Mật:
Trưởng giả Diệu Nguyệt từ trong đại chúng bước ra, đi nhiễu quanh đức Phật ba vòng. Rồi đến trước Như Lai, chấp tay quì xuống, gối bên hữu chấm sát đất, cung kính bạch với đức Phật rằng:
- "Hi hữu Thế Tôn! Hi hữu Thế Tôn! Được làm thân người là khó, như con rùa gặp bộng cây nổi, nhưng được gặp Phật ra đời còn khó gấp muôn phần.
Gặp Phật ra đời đã khó, nhưng được nghe Chánh pháp lại còn khó gấp muôn phần. Được nghe Chánh pháp đã khó, nhưng làm thế nào để nương theo giáo nghĩa tu tập lại còn khó gấp vô lượng phần.
Bởi vì sao? Theo chỗ con xét nghĩ, thì trong tám muôn bốn ngàn pháp mầu mà Như Lai đã chỉ dạy, nhằm đưa hết thảy chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến, phải có một pháp mầu cứu vớt những hạng chúng sanh tội khổ, mê đắm, xấu ác. Hôm nay con phụng vì hết thảy chúng sanh tội khổ nơi thời Mạt pháp, cũng như phụng vì các bậc trưởng giả, cư sĩ, bà la môn, sát đế lợi, thủ đà la tại thành Vương Xá nầy, mà khẩn cầu đức Thế Tôn rủ lòng thương xót, ban cho chúng con một cách thức tu hành thật dễ dàng để giải thoát, một con đường thật vắn tắt để hoàn thành Phật Trí…
          - "Lành thay! Các thiện-nam tử, thiện nữ nhân! Nay ta vì lời thưa thỉnh của Ưu bà tắc Diệu Nguyệt, và của Ưu bà di Vi Đề Hy, lại nương theo Bổn nguyện của vô lượng vô số bất khả thuyết chư Phật, mà tuyên dương giáo nghĩa bí mật vi diệu tối thắng đệ nhất, nhằm cứu độ hết thảy chúng sanh ở trong thời kỳ Phật Pháp cuối cùng.
Giáo nghĩa nầy, chư Phật quá khứ đã nói, chư Phật hiện tại đang nói, và chư Phật vị lai sẽ nói. Tất cả chúng sanh đời Mạt pháp sẽ nương nơi giáo nghĩa này mà được giải thoát rốt ráo, mãi mãi xa lìa các đường ác, hiện đời an ổn, sau khi mạng chung đuợc sanh về cõi Phật, chứng ngôi vị Bất thối, dần dần tu tập cho đến khi đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề…
Chư Phật đã dùng Phật nhãn quán sát khắp mười phương, thấy rõ nghiệp lực chúng sanh lành dữ không đồng đều, thấy thân tướng và cảnh giới của chúng sanh xấu tốt có sai biệt. Nhưng điểm sanh khởi chẳng rời sát na tâm sanh diệt, chỗ hội quy cũng không rời sát na tâm sanh diệt. Muốn hàng phục và chuyển biến cái sát na tâm sanh diệt ấy, thì không có pháp nào hơn là pháp NIỆM PHẬT.
Diệu Nguyệt cư sĩ, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào, đủ lòng tin thì chỉ cần chuyên nhất xưng niệm danh hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT, suốt cả sáu thời trong ngày và giữ trọn đời không thay đổi, thì hiện tiền chiêu cảm được Y báo, và Chánh báo của Phật A Di Đà ở cõi Cực Lạc. Lúc lâm chung cố giữ sao cho được mười niệm tiếp nối liền nhau, lập tức vào Phổ đẳng Tam muội của đức A Di Đà, được Phật tiếp dẫn về Tịnh độ Tây phương. Vĩnh viễn xa lìa các đường ác, không còn luân hồi sanh tử. Đó gọi là quả vị Bất thối chuyển. Từ lúc ấy nhẫn nại về sau, vượt qua Thập địa, chứng Vô thượng giác.
Diệu Nguyệt nên biết, đây thật là pháp vi diệu thù thắng đệ nhất, mà chư Phật dùng để cứu độ khắp hết thảy chúng sanh. Đây thật là môn tu thích đáng khế hợp mọi căn cơ mà chư Phật dùng để đưa hết thảy muôn loài xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết Bàn tại thế, thành Phật trong một đời.
Đây là môn tu Đại oai lực, Đại phước đức mà chư Phật giúp chúng sanh vượt thắng thân phàm phu, mà thâm nhập cảnh giới Chơn thường.
Đây là môn tu Đại bát nhã, Đại thiền định, mà chư Phật dùng làm thuyền bè đưa hết thảy chúng sanh qua thấu bờ bên kia, không còn sanh già bịnh chết, hoàn toàn hưởng dụng pháp lạc.
Đây là môn tu Đại trang nghiêm, đại thanh tịnh, mà chư Phật dùng để đưa hết thảy chúng sanh vào giới luật, nhiếp chúng sanh vào oai nghi, an ổn khoái lạc.
Đây là một môn tu Đại nhu hòa, Đại nhẫn nhục, mà chư Phật giúp hết thảy chúng sanh tự tại giữa khổ và vô thường mà thành tựu Tri Kiến Phật.
Đây là môn tu Đại Bồ Đề, Đại siêu việt, mà chư Phật dùng làm cứu cánh để giúp hết thảy chúng sanh thành Phật, như Phật ngay trong một kiếp.
Đây là môn tu Đại từ bi, Đại dũng mãnh, mà chư Phật dùng để giúp chúng sanh có được cái Tâm bằng Tâm chư Phật, có được cái nguyện bằng Nguyện chư Phật, mau chóng vượt qua địa vị phàm phu và tự chứng Pháp thân từng phần.
Lại nữa trong quá khứ vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, nhẫn lại đến nay, chư Phật cũng chỉ dùng một pháp Niệm Phật nầy để độ khắp chúng sanh. Trong hiện tại cũng có vô lượng vô biên hằng hà sa chư Phật ở mười phương cũng đang thuyết giảng giáo nghĩa Niệm Phật nầy để rộng cứu vớt chúng sanh.
Trong đời vị lai, tất cả chư Phật nếu muốn cứu vớt hết mọi chúng sanh, thì cũng phải do nơi pháp Niệm Phật này. Do đó mà Như Lai bảo rằng Niệm Phật là vua của tất cả các Pháp.
5. Đại Thế Chí Bồ Tát niệm Phật viên thông, trích Kinh Lăng Nghiêm
Đại Thế Chí Bồ Tát do niệm Phật mà chứng viên thông, nhẫn đến tu Bồ Tát đạo, giáo hóa chúng sinh đều không rời pháp môn niệm Phật.
Trong pháp hội Thủ Lăng Nghiêm, lúc Đức Bổn Sư hỏi về nguyên do chứng nhập viên thông của Thánh chúng, đức Đại Thế Chí Bồ Tát bạch Phật rằng:
Con nhớ lại hằng hà sa số kiếp về trước, Đức Siêu Nhật Nguyệt Quang Như Lai dạy cho con pháp Niệm Phật Tam Muội. Ví như hai người, một người chuyên nhớ, một người chuyên quên, Hai người như thế, dù có gặp nhau cũng như không gặp, dù có thấy nhau cũng như không thấy. Nếu hai người tha thiết nhớ nhau, thời hai người nhớ in sâu, như hình với bóng chẳng xa cách nhau.
Thập phương chư Phật thương nhớ chúng sanh như mẹ nhớ con. Nếu con trốn tránh, mẹ nhớ ích gì. Nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con thời mẹ con trải qua nhiều kiếp chẳng xa trái nhau.
Nếu tâm cúng sinh nhớ Phật, niệm Phật thời hiện tại hay tương lai, nhất định thấy Phật, cách Phật chẳng xa, chẳng nhờ phương tiện nào khác mà tự mở ngộ tâm mình. Như người nhiễm hương, thân có mùi hương, như thế gọi là Hương quang trang nghiêm. Trước đây con vốn do tâm niệm Phật mà chứng nhập vô sanh nhẫn, nay ở thế giới này, đón tiếp người niệm Phật, về nơi Tịnh Độ.
Phật hỏi viên thông, con không chọn lựa, chỉ thu nhiếp lục căn, tịnh niệm tương tục, được thành chánh định, đó là đệ nhất.
6. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát khuyên tấn chúng hội niệm Phật, trích trong kinh “Quán Phật Tam Muội Hải”:
Lúc đức Thế Tôn giảng pháp “Quán Phật Tam Muội” xong, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bảo đại chúng rằng:
Về thuở quá khứ, thời kỳ Phật Bửu Oai Ðức Như Lai, đồng tử Giới Hộ, con trai của một ông Trưởng giả, từng thọ pháp Tam Quy khi còn ở trong thai mẹ. Năm lên tám, một hôm cha mẹ thỉnh Đức Bửu Oai Ðức Phật về nhà cúng dường. Ðồng tử Giới Hộ thấy đức Phật cử chỉ đoan trang đi chậm rãi, dưới chơn Phật, mỗi bước mọc hoa sen, thân Phật tỏa ánh sáng rực rỡ, thời mừng rỡ cung kính, liền cúi đầu đảnh lễ. Lễ Phật rồi, đồng tử chí thành chăm nhìn Phật không rời.
Ðồng tử Giới Hộ nhơn vì một lần được thấy Phật và nhìn Phật đó mà tiêu trừ được tội sanh tử của trăm nghìn ức na do tha kiếp. Từ đó về sau, đời đời luôn đặng gặp chư Phật, nhiều đến số trăm ức na do tha hằng hà sa Đức Phật. Các Đức Thế Tôn ấy đều giảng dạy pháp “Quán Phật Tam Muội” đúng như lời của Đức Bổn Sư vừa giảng.
Sau đó có trăm vạn Đức Phật ra đời đồng một hiệu: Chiên Ðàn Hải. Ðồng tử chầu chực khắp tất cả chư Phật, thường lễ Phật, cúng dường, chấp tay nhìn Phật. Do công đức quán Phật, nên rồi lại đặng gặp trăm vạn a tăng kỳ Đức Phật liền chứng đặng trăm vạn ức “Niệm Phật tam muội”, chứng đặng trăm vạn a tăng kỳ “triền đà la ni môn”. Khi đồng tử đã chứng các môn tam muội và đà la ni, chư Phật liền hiện thân thuyết vô tướng pháp cho. Khi đồng tử đặng nghe vô tướng pháp, trong giây lát bèn chứng đặng “Thủ Lăng Nghiêm tam muội”.
Thuật xong, đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát kết luận: “Ðồng tử Giới Hộ tối sơ do nhờ thọ pháp Tam Quy, một lần chí thành lễ Phật, quán Phật, tâm không mỏi nhàm, nên rồi được gặp vô số chư Phật. Huống là người chuyên lòng luôn tưởng nơi Phật!
Ðồng tử Giới Hộ đó không phải ai đâu lạ, chính là tiền thân của tôi đấy!”
Văn Thù Sư Lợi nói dứt lời, Đức Bổn Sư phán với ngài A Nan: “Ông nên đem lời của Văn Thù Sư Lợi nói lại cho khắp tất cả đại chúng và tất cả chúng sanh đời sau.
Nếu ai có thể lễ Phật, ai có thể niệm Phật, ai có thể quán Phật, thời người ấy sẽ đồng với Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát”.
Cũng như Phổ Hiền, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát từng có lời tự nguyện về Cực Lạc thế giới, chép trong kinh “Văn Thù Phát Nguyện” như sau:
Nguyện tôi đến lúc mạng chung
Trừ hết tất cả những chướng ngại
Diện kiến Đức Phật A Di Đà
Liền được vãng sanh Cực Lạc quốc…
7. Mã Minh Bồ Tát khuyên người niệm Phật
Bồ Tát Mã Minh là một trong những vị Tổ nổi tiếng. Khi Ngài sinh ra, cảm bầy ngựa trong nhà hí vang, nhân đó mà đặt tên là Mã Minh. Đời Ngài cực lực hoằng dương Đại Thừa, Ngài viết rất nhiều bộ luận để xiểng dương Đại Thừa. Trong đó có bộ Đại Thừa Khởi Tín Luận khuyên tu niệm Phật như sau:
Nên mạnh mẽ tinh tấn, ngày đêm sáu thời, lễ bái chư Phật; thành tâm sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỷ, hồi hướng về quả Bồ Ðề. Tu tập như thế không thôi nghỉ thì sẽ được khỏi các chướng, căn lành thêm lớn". Lại nói: "Như Lai có thẳng phương tiện để nhiếp hộ kẻ tín tâm. Ấy là dùng nhân duyên chuyên nhớ niệm Phật tùy nguyện cầu sanh về Tịnh Ðộ ở phương khác, do được thường thấy Phật nên vĩnh viễn xa lìa ác đạo. Như trong Tu Đa La nói: "Nếu người chuyên niệm Phật A Di Đà ở phương Tây, đem những căn lành mình tu hồi hướng về cõi kia, thì được vãng sanh. Do thường thấy Phật nên không còn lo thối chuyển.
8. Long Thọ Bồ Tát khuyên người niệm Phật
Ngài là một trong những vị tổ nổi tiếng. Ngài sanh dưới cây đại thọ có rồng ở nên có tên là Long Thọ. Ngài và các vị như tổ Mã Minh, Bồ Tát Thế Thân v.v… là những vị nổi tiếng  hoằng dương Đại Thừa. Chính nhờ các Ngài mà giáo lý Đại Thừa phát triễn rực rỡ từ đó đến ngày nay. Ngài sáng tác rất nhiều bộ luận. Trong đó, bộ Luận Đại Trí Độ và bộ Luận Tỳ  Bà Sa dạy về Pháp môn niệm Phật như sau:
Luận Đại Trí Độ:
Niệm Phật Tam Muội có thể trừ các thứ phiền não và tội đời trước. Lại nữa, Niệm Phật Tam Muội có phước đức lớn hay độ chúng sanh. Cho nên các Bồ Tát muốn độ sanh, nếu tu các pháp tam muội khác, tất không bằng môn Niệm Phật Tam Muội, vì môn này có phước đức lớn, mau diệt các tội. Phật là pháp vương, Bồ Tát là pháp tướng, chỗ Bồ Tát tôn trọng duy có Phật, Thế Tôn. Bồ Tát thường khéo tu nhân duyên niệm Phật, nên thường gặp chư Phật, như kinh Bát Chu có nói: "Bồ Tát vào tam muội này, liền hiện sanh về cõi Phật A Di Đà".
Luận Tỳ Bà Sa:
Đức A Di Đà có bản nguyện như thế này: "Nếu người xưng niệm danh hiệu và quy y nơi ta, kẻ ấy quyết được quả vô thượng Bồ Đề". Cho nên, phải thường nhớ niệm Phật. Lại dùng kệ khen ngợi Phật rằng:
Trí huệ sáng vô lượng.
Thân như tòa kim sơn.
Con dùng thân, miệng ý,
Chắp tay cúi đầu lạy.
Chân Phật ngàn bức luân,
Sắc hoa sen mềm dịu,
Kẻ thấy đều vui mừng,
Cúi đầu lễ chân Phật.
Tướng bạch hào sáng đẹp,
Trong sạch như trăng Thu,
Ánh tỏa khắp mặt vàng,
Nên con cúi đầu lạy,
Nếu người muốn thành Phật.
Tâm niệm A Di Đà,
Theo thời vì hiện thân,
Cho nên con quy mạng.
Người xưng niệm nơi Phật,
Sức công đức không lường,
Thì liền được vào định.
Cho nên con thường niệm.
Nếu người trồng căn lành,
Nghi thì hoa không nở,
Kẻ lòng tin trong sạch,
Hoa nở liền thấy Phật
Do nhân duyên phước này,
Tất được đức thắng diệu,
Nguyện các loài chúng sanh,
Cũng đều được như vậy.
9. Thiên Thân Bồ Tát khuyên người niệm Phật
Ngài người xứ Thiên Trúc, lúc đầu theo Tiểu Thừa, sau theo Đại Thừa. Ngài trước tác 1000 bộ luận nên có hiệu là Thiên Thân.
Trong bộ Vãng Sanh Luận Ngài dạy:
Vô Lượng Thọ Kinh Luận nói: "Nếu tu ngũ niệm môn thành tựu, kết quả sẽ được vãng sanh về Cực Lạc, thấy Phật A Di Đà. Ngũ niệm môn là gì?
Lễ bái môn
Tán thán môn
Phát nguyện môn
Quán sát môn
Hồi hướng môn.
Lễ bái là thế nào? Ấy là dùng thân lễ Đức Phật A Di Đà, tỏ ý cung kính, cầu Phật nhiếp thọ.
Tán thán môn là thế nào? Đây là dùng miệng khen ngợi sắc thân, danh nghĩa, ánh sáng, trí huệ của Đức Như Lai kia, muốn tu hành như thật cho được tương ưng.
Phát Nguyện môn? Ấy là một lòng chuyên niệm vào nơi chánh định, nguyện sanh về Cực Lạc.
Quán sát là thế nào? Đây là dùng chánh niệm quán sát công đức trang nghiêm của cõi Cực Lạc, công đức trang nghiêm của Phật A Di Đà, và công đức trang nghiêm của chư Bồ Tát, và Thánh Chúng.
Hồi hướng là thế nào? Ấy là tâm từ bi không bỏ những chúng sanh khổ não, nguyện đem căn lành công đức của mình, hồi hướng cầu cho tất cả loài hữu tình đều được sanh về Cực Lạc.
10. Trích dẫn “Thuyết chuyên tu và tạp tu tịnh nghiệp” của tổ Thiện Đạo:
Có người gạn hỏi:
- Sao Hòa thượng không dạy người Quán tưởng Phật, mà chỉ bảo chuyên Trì danh? 
Ngài đáp:
- Chúng sinh đời này phần nhiều chướng nặng tâm thô, thức thần tán động, mà cảnh Tịnh độ rất tế diệu, nên Quán tưởng khó thành. Vì thế, đức Phật xót thương, khuyên thẳng nên xưng danh hiệu. Chính vì xưng danh là hạnh dễ làm, nếu cứ giữ mỗi niệm nối nhau tu như thế suốt đời, thì mười kẻ niệm mười kẻ được vãng sinh, trăm người tu trăm người về Tịnh độ. Tại sao thế? Vì không duyên tạp bên ngoài, nên dễ được chánh niệm. Vì cùng với bản nguyện của Phật hợp nhau. Vì không trái với kinh giáo. Vì thuận theo lời Phật.
- Nếu bỏ chuyên niệm, tu xen tạp những hạnh khác, trong trăm ngàn người chỉ hy vọng được ba bốn kẻ vãng sinh. Bởi tại sao? Vì duyên tạp loạn động khiến cho mất chánh niệm; vì không hợp với bản nguyện của Phật A Di Đà; vì trái với kinh giáo và không thuận lời Phật; vì sự hệ niệm không nối tiếp nhau; vì tâm không thường nhớ báo đáp ơn Phật; vì tuy hành đạo mà thường tương ưng với danh lợi; vì thích theo duyên tạp, làm chướng chánh hạnh vãng sinh của mình và người. Mong tất cả mọi người khéo tự tư duy, khi đi đứng nằm ngồi phải cố gắng nhiếp tâm ngày đêm chớ rời Thánh hiệu, thề quyết giữ đến hơi thở cuối cùng. Như thế tới lúc mãn phần, niệm trước vừa thọ chung, niệm sau liền sinh Cực Lạc. Từ đây, vĩnh viễn hưởng sự vui pháp lạc vô vi cho đến khi thành Phật, há chẳng đáng mừng ư.
11. Trích dẫn “Vãng sinh tịnh độ quyết nghi hạnh nguyện nhị môn” của Đại sư Tuân Thức:
Phàm xử lý việc công hay tư, có nhiều việc để làm, tuy vội vàng mà trong lòng chẳng quên Phật và nhớ Tịnh độ. Ví như người đời có việc cấp thiết trong lòng, dù nói năng, đi lại, ngồi nằm nhưng vẫn âm thầm nghĩ nhớ việc ấy rất rõ ràng. Tâm của người niệm Phật cũng phải như thế. Nếu như lãng quên thì phải luôn luôn thâu nhiếp trở lại, lâu dần thành thói quen, tự nhiên thường nhớ. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Nếu tâm chúng sinh nhớ Phật niệm Phật, hiện tại tương lai nhất định thấy Phật, cách Phật không xa. Chẳng nhờ phương tiện, tự được tâm khai ngộ”. Buộc tâm như thế, tự nhiên thường ngăn chặn tất cả niệm ác; dù muốn làm ác nhưng do nhớ Phật nên việc ác không thể thành; dù cho khi theo niệm ác tạo nghiệp ác nhưng tâm vẫn thường hổ thẹn khiêm tốn, ví như trong mình có mùi thơm, tự nhiên không còn mùi hôi thối.
Hơn nữa, phải biết lúc tâm vừa khởi niệm ác vi tế thì liền nhớ Phật, do sức mạnh của Phật nên niệm ác tự dứt, như người gặp nạn cầu người kia cứu giúp, nhất định được thoát khỏi. Nếu lúc thấy người khác chịu khổ, do trong tâm niệm Phật nên thương xót mong họ lìa khổ. Nếu là người phán xét tội nhân để hình phạt và hạ ngục, do niệm Phật nên sinh tâm thương xót, tuy y theo pháp luật nhưng phải thầm nguyện rằng: “Ta thi hành pháp luật, chẳng phải là bản ý của ta, nguyện người được vãng sinh Tịnh độ, thệ sẽ cứu tế lẫn nhau”. Nói chung, trải qua tất cả mọi nơi mọi việc, hoặc thiện hoặc ác, do tâm nhớ Phật nên thường thệ nguyện. Trong Nguyện Vương của ngài Phổ Hiền nói: “Tất cả việc ác thảy đều chẳng thành, còn làm việc lành thì đều mau thành tựu”. Đó tức là ý này. Niệm Phật liên tục trong lòng, có thể làm thành tất cả công đức của nhân Tịnh độ.

12. Trích dẫn “Tam thời hệ niệm Phật sự” của Đại sư Trung Phong:

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét