Giáo pháp Tịnh độ được thành lập bởi 48 nguyện lực sâu
nặng đại từ đại bi của Phật A Di Đà, thâu nhận tất cả chúng sinh trong mười
phương, hễ ai đầy đủ lòng tin đều được vãng sinh.
Tin là tin có Tây Phương Tịnh độ, tin có Phật A Di Đà
thâu nhận chúng sinh, tin những chúng sinh bọn ta có phần vãng sinh. Tuy bảo
rằng Phật Di Đà tiếp dẫn chúng sinh vãng sinh, nhưng cần phải tin chỉ tùy tâm
tự hiện, đạo cảm ứng qua lại, rốt cuộc chẳng phải từ bên ngoài mà được. Người
tin như thế, đó chính là niềm tin chân thật.
Tin mà không thật hành thì chẳng thành tựu lòng tin.
Hành là như trong kinh Lăng Nghiêm nói: “Nhiếp cả sáu căn, Tịnh niệm tiếp nối”.
Kinh A Di Đà bảo rằng: “Nghe nói về Phật A Di Đà, nắm giữ danh hiệu, một ngày,
hai ngày, cho đến bảy ngày nhất tâm không loạn”. Thực hành như thế, đó gọi là
thực hành chân chánh.
Thực hành mà chẳng có nguyện thì chẳng thành tựu sự
thực hành.
Nguyện là phải tương ưng với từng nguyện trong 48
nguyện của Phật A Di Đà, đó là đại nguyện.
Tín Hạnh Nguyện là ba chân của cái đảnh, thiếu một tất
không thể được. Nên biết, một niệm hiện giờ vốn tự viên mãn thường hằng, Tín
Hạnh Nguyện nguyên là tánh đức như thế, xưa nay vốn có của chính mình. Nay chỉ
là làm hiển bày phát khởi ánh sáng của bản tánh mà thôi.
Ngay khi vọng tâm tạp loạn, liền đề khởi một niệm như
đối trước đấng Từ Tôn, nắm vững sáu chữ Hồng danh, mỗi câu mỗi câu miệng niệm
tai nghe, sự tạp loạn ấy tự nhiên theo đó lặng lẽ. Từ một niệm đến mười niệm,
cho đến niệm niệm chẳng đổi dời, đó chính là chỗ trong kinh gọi Tịnh niệm tiếp
nối.
Người niệm Phật cần phải có lòng tin tha thiết, chánh
nhân mạnh mẽ, nghĩ nhớ về sự sinh tử luân hồi đáng buồn thương, chán nản cảnh
trần lao lăng xăng mà đau lòng. Đề khởi một danh hiệu Phật, ngay đó liền không
có cái thấy nào khác, cho đến nhất tâm không loạn, năng sở đều quên, chẳng cần
nói về việc đến nhà, đâu nhọc gì đề cập đến danh từ thẳng tắt, đây thật đáng
gọi là: Thuật thần diệu để chứng đắc sự tu hành, con đường chân chánh vượt qua
phương tiện.
13. Trích
dẫn “Tịnh độ hoặc vấn” của Đại sư Thiên Như:
Kiếp người mong manh như đá chạm nháng lửa, như chớp
giật lưng trời, mới còn đó đã mất đi, có chi là trường cửu? Thừa lúc chưa già
chưa bệnh, gác qua thế sự, rủ sạch thân tâm, còn sống được một ngày lo một ngày
niệm Phật, được một thời công phu tu một thời Tịnh nghiệp, dù có chết tốt hay
chết xấu, lộ phí của ta đã chuẩn bị sẵn rồi, con đường phía trước chắc chắn là
êm đẹp.
Ở đời, nếu là người thiết tha nghĩ đến vô thường, dụng
tâm chân thật, thì chẳng cần biết khổ hay vui, thuận hay nghịch, ồn ào hay yên
lặng, rảnh hay bận, mặc kệ việc chung hay riêng, tiếp người đãi khách, lắm
duyên phiền nhiễu, ứng phó nhiều mặt, đều không cản trở được việc niệm Phật của
người ấy.
Nếu duyên thế tục còn nặng, khả năng mình còn kém,
cũng nên tranh thủ chút thời gian trong lúc bận rộn, cốt tìm lấy chút yên lặng
trong chỗ ồn ào. Mỗi ngày có thể niệm ba vạn câu hoặc một vạn, hoặc ba ngàn,
hoặc một ngàn, nên định chắc số lượng làm thời khóa, không được phép bỏ qua một
ngày. Nếu quá bận rộn, không có thời gian rảnh rỗi thì mỗi sáng sớm phải niệm
mười niệm, tích góp lâu ngày sẽ thành công, cũng chớ để luống qua. Ngoài việc
niệm Phật, có thể lễ Phật tụng kinh, sám hối, phát nguyện, kết đủ mọi duyên, làm
đủ các phước thiện, bố thí tùy sức, tu các thiện nghiệp để trợ giúp việc niệm
Phật. Dù làm được một việc lành nhỏ, cũng nên hồi hướng về Tây Phương. Nếu dụng
công như thế, không chỉ chắc chắn được vãng sinh mà còn nâng cao phẩm vị.
Chuyên trì danh hiệu, thêm lễ Phật sám hối rất phù hợp
với thuyết chuyên tu không gián đoạn của ngài Thiện Đạo. Chuyên tu không gián
đoạn, tức thân phải chuyên lễ Phật A Di Đà không lễ các Phật khác; miệng phải
chuyên xưng danh hiệu Phật A Di Đà không xưng hiệu Phật khác hoặc tụng các kinh
khác; ý phải chuyên quán tưởng Phật A Di Đà không quán tưởng gì khác. Nếu khởi
tham sân si làm gián đoạn công phu liền phải sám hối ngay, không để cách ngày,
cách đêm và cách giờ. Thường giữ được thanh tịnh cũng gọi là chuyên tu không
gián đoạn.
Phương pháp buộc niệm chẳng hạn cuộc đi đứng nằm ngồi,
chẳng cần niệm ra tiếng tổn khí, chỉ cốt ở chỗ chí thành, tưởng thầm niệm thầm,
niệm niệm tiếp nối tâm không gián đoạn, dám bảo đảm mắt thịt ở hiện đời liền có
thể thấy Phật, hoặc thấy ánh sáng, hoặc được xoa đảnh, đâu phải đợi đến lúc
mạng chung! Đây là một pháp môn thẳng tắt, rất đơn giản, rất trọng yếu, cực kỳ
linh nghiệm.
14. Trích
dẫn “Mộng du tập” của Đại sư Hám Sơn:
Phật nói pháp tu hành ra khỏi sinh tử, phương tiện
nhiều môn, chỉ có pháp niệm Phật cầu sinh Tịnh độ là thẳng tắt nhất. Trong kinh
nói: “Nếu muốn tịnh cõi Phật, phải thanh tịnh tâm mình”. Ngày nay, tu hành Tịnh
nghiệp, nên lấy việc thanh tịnh tâm làm gốc. Muốn tịnh tự tâm, trước nhất phải
giữ giới thanh tịnh. Vì mười việc ác của thân miệng ý là nhân khổ của ba đường
ác, chỗ cốt yếu của việc trì giới trước nhất phải làm cho ba nghiệp thanh tịnh,
thì tâm tự tịnh. Nếu thân không giết hại, trộm cướp, tà dâm, nói dối thì thân
nghiệp thanh tịnh. Miệng không nói dối, nói lưỡi đôi chiều, nói lời ác độc, nói
lời thêu dệt thì khẩu nghiệp thanh tịnh. Ý không tham lam, không sân hận, si mê
thì ý nghiệp thanh tịnh. Mười việc ác này dứt hẳn, ba nghiệp trong sạch, đó là
điều thiết yếu của sự tịnh tâm. Ở trong tâm thanh tịnh này dấy khởi tâm chán khổ
nơi cõi Ta Bà, phát nguyện vãng sinh miền An Dưỡng, lập chánh hạnh niệm Phật.
Tâm niệm Phật phải thiết tha vì sinh tử. Đầu tiên, ngoài đoạn ngoại duyên, kế
đến bên trong đơn độc đề khởi nhất niệm. Dùng một câu A Di Đà Phật làm mạng
căn, niệm niệm không lãng quên, tâm tâm chẳng gián đoạn. Trong 24 giờ, đi đứng
nằm ngồi, khi ăn lúc uống, cúi ngửa tới lui, động tĩnh bận rảnh, trong mọi thời
không u mê, không ngu muội, hoàn toàn không có duyên gì khác, dụng tâm như thế
lâu ngày thuần thục, cho đến trong mộng cũng không quên mất, thức ngủ như nhau
tức là công phu miên mật, trở thành một khối tức là lúc công phu đắc lực. Nếu
niệm đến nhất tâm không loạn, lúc lâm chung cảnh giới Tịnh độ hiện ra trước
mắt, tự nhiên không bị sinh tử ràng buộc, bèn cảm Phật A Di Đà phóng quang tiếp
dẫn. Đây là hiệu quả chắc chắn vãng sinh.
Tu tuệ ở chỗ quán tâm, tu phước ở nơi vạn hạnh. Quán
tâm lấy niệm Phật làm bậc nhất, vạn hạnh lấy cúng dường làm trước tiên, hai
điều ấy chính là bao gồm hết thảy. Tất cả mọi sinh hoạt hằng ngày của chúng ta,
khởi tâm động niệm đều là vọng tưởng, là gốc sinh tử, cho nên chuốc lấy quả báo
khổ. Nay đem tâm vọng tưởng đổi thành niệm Phật thì mỗi niệm đều trở thành nhân
Tịnh độ, đó là quả báo vui. Nếu niệm Phật tâm không gián đoạn, vọng tưởng tiêu
diệt, ánh sáng của tâm phát lộ, trí tuệ hiện tiền thì thành tựu Pháp thân Phật.
Chúng sinh sở dĩ bần cùng không có phước huệ, là do
nhiều đời nhiều kiếp chưa từng có một niệm cúng dường Tam Bảo để cầu phước đức,
mãi bị sinh tử làm khổ thân, niệm niệm tham cầu thú vui ngũ dục để vun bồi gốc
khổ. Nay đem tâm tham cầu cho riêng mình, chuyển đổi mà cúng dường Tam Bảo, đem
thân mạng hữu hạn tùy tâm tùy sức cúng dường mười phương, cho đến một nén
hương, một cành hoa và lúa, gạo, thức ăn, phước ấy vô cùng, do đó cảm nên Hoa
Tạng trang nghiêm Phật quả, làm nơi tự thọ dụng sau này cho mình, bỏ đây không
có hạnh vi diệu để thành Phật.
Pháp môn niệm Phật cầu sinh Tịnh độ là mong thấu suốt
vượt thoát sinh tử. Nếu chẳng biết cội rễ của sinh tử, rốt cuộc hướng đến chỗ
nào để thấu suốt vượt thoát. Vậy cái gì là cội rễ sinh tử? Người xưa nói:
“Nghiệp chẳng nặng chẳng sinh Ta Bà, ái chẳng đoạn chẳng sinh Tịnh độ”. Vậy ái
là gốc sinh tử. Từ lúc mới có sinh tử đến nay, đời đời kiếp kiếp, bỏ thân này
thọ thân khác đều do ái dục, nên bị lưu chuyển đến ngày nay. Nay niệm Phật,
niệm niệm phải đoạn gốc ái này. Nghĩa là hằng ngày ở nhà niệm Phật, thấy con
cháu, việc nhà, của cải không có gì chẳng thuộc về ái. Như thế, không có một
việc gì, không có một niệm nào chẳng phải là thứ dẫn đến sinh tử. Khi đang niệm
Phật, trong tâm chưa từng có một niệm buông bỏ gốc ái. Niệm Phật như thế, càng
niệm ái càng tăng trưởng. Lại như lúc tình cảm con cháu khởi lên, phải xoay trở
lại quán xét kỹ câu niệm Phật, quả thật có thể chống chọi và đoạn trừ được ái
này chăng? Nếu không đoạn được, làm sao vượt thoát sinh tử? Vì duyên ái đã
nhiều kiếp huân tập sâu dày, còn niệm Phật chỉ mới phát tâm, lại chẳng tha
thiết chân thật, nên không đắc lực. Nếu hiện tại không làm chủ được cảnh ái,
khi gần chết chắc chắn chỉ thấy gốc ái sinh tử hiện ra, rốt cuộc chẳng làm chủ
được. Cho nên, khuyên người niệm Phật, đầu tiên là tâm phải tha thiết đối với
việc sinh tử, phải tha thiết đối với việc đoạn dứt sinh tử, cần phải trong mỗi
niệm đoạn dứt cội gốc sinh tử. Như thế, mỗi niệm mỗi niệm là lúc liễu ngộ sinh
tử, gọi là trước mắt đều là việc sinh tử, trước mắt thấu suốt sinh tử không.
Như thế, mỗi niệm chân thật thiết tha thì hiệu quả rõ ràng. Nếu không thoát
khỏi sinh tử thì chư Phật mắc tội nói dối.
Học đạo không có khả năng đặc biệt gì khác, chỉ là
phải làm cho đạo lực tăng trưởng, nghiệp lực tiêu mòn, lâu ngày thuần thục trở
thành một khối, tự nhiên mỗi niệm đều là Di Đà, nơi nào cũng là Cực Lạc. Gần
đây, nhận thấy người học đạo chỉ biết tham cầu huyền diệu, chẳng biết quyết tâm
công phu ở chỗ căn bản, đến khi gặp cảnh vinh nhục, họa hoạn sinh tử liền thấy
họ bấn loạn tay chân, đó chẳng phải là do người khác làm thành mà chính họ tự
lầm đó thôi. Cội gốc sinh tử tức là mọi thứ vọng tưởng trong hàng ngày của
chúng ta. Các thứ nghiệp phiền não, nhân ngã, yêu ghét, tham dục, nóng giận, si
mê, nếu còn một mảy may chưa đoạn dứt tức là cội gốc sinh tử. Nay muốn tham
thiền đốn ngộ vượt thoát sinh tử, xin tự lường xét! Quả như có thể ngay một
niệm nhanh chóng đoạn dứt phiền não trong nhiều kiếp, như cắt đứt tơ rối hay
chăng? Nếu chẳng thể đoạn dứt phiền não, dù có thể đốn ngộ cũng trở thành
nghiệp ma, sao lại xem thường? Từ trước, chư Tổ đốn ngộ cũng do tích lũy công
phu tu hành dần dần trong nhiều đời mà được, cho nên việc đốn ngộ nói thì dễ
nhưng thật rất khó. Nếu không có hai ba chục năm quyết tâm công phu, làm sao
được một niệm đốn ngộ ở trong chỗ nhiệt não? Quan trọng là tự biết căn cơ mình
thế nào mà thôi!
Còn như pháp môn niệm Phật, người đời chẳng biết chỗ
vi diệu cho là cạn cợt, kỳ thực mỗi bước đều đạp trên đất chân thật. Tại sao?
Vì chúng ta từ khi chào đời đến nay, mỗi niệm mỗi niệm vọng tưởng phan duyên
tạo nghiệp sinh tử, chưa từng có một niệm soi sáng lại tâm mình, chưa từng có
một niệm chịu đoạn dứt phiền não. Nay quả như có thể đem tâm vọng tưởng đổi
thành niệm Phật, thì trong mỗi niệm đoạn dứt phiền não. Nếu trong mỗi niệm đoạn
được phiền não, tức là mỗi niệm thoát khỏi sinh tử. Nếu có thể giữ một niệm
niệm Phật không đổi dời, nhất tâm không loạn, so với việc tham thiền còn rốt
ráo hơn. Tóm lại, chỉ nơi một niệm chân thật thiết tha mà thôi. Song tham thiền
nhất định phải chết hết tâm thế gian, chẳng chứa một niệm vọng tưởng; niệm Phật
là đem ý tưởng thanh tịnh chuyển đổi ý tưởng nhiễm ô, dùng ý tưởng, dẹp trừ ý
tưởng chính là một cách thay đổi, tùy theo căn cơ của chúng ta thích hợp để làm
thôi.
Tu Tịnh độ không cần cầu tỏ ngộ tâm tánh, chuyên dùng
niệm Phật làm chánh hạnh, lại lấy bố thí trai Tăng, tu các phước điền công đức
để trợ giúp trang nghiêm cõi Phật. Người niệm Phật trong lòng tuy phát nguyện
vãng sinh, nhưng phải biết chặt đứt gốc sinh tử trước, mới có hiệu quả nhanh
chóng. Gốc sinh tử là sự tham đắm các thứ thọ dụng ở thế gian và sắc đẹp, tiếng
hay, ăn ngon, mặc đẹp ở hiện nay, tất cả đều là gốc khổ. Phải tận lực dứt bỏ
hết thảy tâm sân nộ, phẫn hận, chấp trước, si ái, và mọi giáo pháp tà vạy của
tà ma ngoại đạo tà sư nói. Chỉ tin sâu một môn niệm Phật, mỗi ngày tụng hai
quyển kinh Di Đà, niệm Phật bao nhiêu câu, hoặc không tính số, chỉ là tâm tâm
không quên danh hiệu Phật. Phật là giác, nếu mỗi niệm không quên Phật, tức niệm
niệm giác ngộ sáng suốt. Nếu tâm quên Phật tức là bất giác. Nếu niệm đến chỗ
trong mộng có thể niệm tức là thường giác không mê. Hiện tại, nếu tâm này không
mê thì lúc lâm chung tâm này chẳng mờ, ngay chỗ tâm này không mê mờ chính là
hướng đi. Nay việc nước đa đoan, quyết không thể tham thiền, mà chỉ nên niệm
Phật là hay nhất. Không câu nệ trong động tịnh bận rảnh, mọi nơi đều niệm được,
chỉ là nhất tâm không quên thì đâu còn pháp hay khéo nào khác nữa!
Tham thiền phải lìa vọng tưởng, niệm Phật ở chỗ chuyên
tưởng. Do chúng sinh đã chìm trong vọng tưởng từ lâu, lìa nó thật khó khăn. Nếu
ngay nơi ý tưởng nhiễm ô chuyển biến trở thành ý tưởng thanh tịnh, đó là lấy
độc trị độc, là phương pháp thay đổi mà thôi. Thế nên, tham cứu khó ngộ, niệm
Phật dễ thành. Quả thật tâm vì sinh tử khẩn thiết, dùng tâm tham cứu mà niệm
Phật, còn lo gì một đời này không vượt thoát sinh tử!
Niệm Phật tức là tham thiền, hoàn toàn không có hai
pháp. Khi niệm Phật, trước đồng loạt buông bỏ tất cả phiền não, vọng tưởng,
tham dục, sân hận, si mê, luyến ái, các thứ ý niệm tạp loạn trong lòng của
chính mình, buông bỏ đến chỗ không thể buông bỏ, chỉ đề khởi một câu A Di Đà
Phật rõ ràng phân minh, trong lòng không gián đoạn như chỉ xỏ ngọc, lại như đầu
mũi tên cắm vào tâm điểm không có mảy may kẽ hở. Gắng sức giữ vững như thế, ở
mọi nơi chẳng bị cảnh duyên dẫn dắt quên mất, hằng ngày lúc động tĩnh không xen
tạp, không rối loạn, mộng thức như nhau, niệm đến lúc sắp lâm chung nhất tâm
không loạn, tức là lúc siêu sinh Tịnh độ.
Pháp môn này, thứ nhất phải có chí quyết định; thứ hai
phải buông bỏ được; thứ ba phải tùy duyên, tùy duyên thì an mệnh; thứ tư phải
nhận rõ không mê lầm; thứ năm phải có tâm chán khổ khẩn thiết, tâm chán khổ khẩn
thiết, tự nhiên diệt trừ ý niệm tham dục, chẳng còn lui sụt. Dùng năm yếu quyết
này đơn độc giữ gìn một niệm.
Phương pháp tu hành cũng có thứ bậc, như công khóa của
người xuất gia không cần câu nệ hình thức bên ngoài, chỉ lấy niệm Phật làm
chính. Mỗi ngày dậy sớm lễ Phật, tụng một quyển kinh Di Đà, cầm chuỗi niệm danh
hiệu Phật A Di Đà hoặc ba ngàn, năm ngàn câu, hoặc một vạn, niệm xong liền đối
trước Phật hồi hướng phát nguyện vãng sinh Tịnh độ. Đó là thời khóa buổi sáng,
tối cũng như vậy, ngày ngày lấy đó làm thời khóa cố định, nhất quyết không thể
thiếu. Đem pháp này chỉ bảo cho quyến thuộc như pháp cùng tu càng hay, đó là
pháp thực hành thường nhật. Nếu vì việc lớn sau cùng, thực hành công phu càng
phải khẩn thiết, mỗi ngày ngoài hai thời công khóa, trong 24 giờ chỉ đem một
câu A Di Đà Phật đặt trong lòng, niệm niệm chẳng lãng quên, tâm tâm không mờ
tối, chẳng nghĩ nhớ tất cả việc đời, chỉ lấy một câu Phật làm mạng căn của
chính mình, nắm chặt nơi lòng quyết không buông bỏ, cho đến khi ăn uống sinh hoạt,
đi đứng ngồi nằm, một câu Phật này luôn luôn hiện tiền. Nếu lúc gặp những cảnh
giới phiền não, thuận nghịch, mừng giận, tâm bất an, phải cố đề khởi niệm Phật
khẩn thiết, ngay đó phiền não liền bị tiêu diệt. Vì mỗi niệm phiền não vốn là
gốc khổ của sinh tử, nay dùng niệm Phật để tiêu diệt phiền não, tức là nơi Phật
cứu độ khổ não sinh tử. Nếu niệm Phật mà tiêu được phiền não thì có thể cắt đứt
sinh tử, chẳng còn pháp nào khác. Niệm Phật cho đến lúc làm chủ được phiền não,
thì ngay trong mộng cũng tự làm chủ được. Nếu trong mộng tự làm chủ được, thì
ngay trong lúc bệnh khổ cũng tự chủ được. Nếu trong lúc bệnh hoạn khổ đau tự
chủ được, thì lúc lâm chung tâm sáng suốt rõ ràng, bèn biết lối đi. Việc này
hành không khó, chỉ cần là tâm phải tha thiết vì sự sinh tử.
Đơn độc nương tựa một câu Phật hiệu, chớ hướng ra
ngoài nghĩ ngợi những chuyện khác, lâu ngày thuần thục, tự nhiên được đại an
lạc tự tại và được đại hoan hỷ thọ dụng, mà dục lạc thế gian không thể sánh
bằng. Bỏ qua pháp môn này, không còn pháp môn thẳng tắt giản đơn nào khác.
15. Trích
dẫn “Linh Phong Tưng Luận” của Đại sư Ngẫu Ích:
Niệm Phật cầu sinh Tịnh độ là một pháp môn thâu nhiếp
trọn vẹn trăm ngàn pháp môn, chẳng phải nêu một mà phế bỏ tất cả. Chỉ cần vào
sâu một môn, lấy niệm Phật làm chánh hạnh, tất cả giới định tuệ làm trợ hạnh.
Chánh, trợ cùng thực hành như thuyền thuận gió, lại thêm đôi chèo tốt, dây
thừng to thì mau chóng đến bờ. Pháp niệm Phật tuy nhiều, Trì danh là giản tiện
nhất; pháp Trì danh cũng nhiều, nhớ số là ổn thỏa nhất. Người chân thật tu trì,
đâu mong cầu khác lạ với hàng ngu phu ngu phụ!
Ra khỏi nhà lửa ba cõi, có hai con đường ngang và dọc.
Dùng tự lực đoạn hoặc vượt thoát sinh tử, gọi là ra khỏi ba cõi theo chiều dọc,
đó là việc khó, phải dần dần mới thành công. Nhờ Phật lực tiếp dẫn vãng sinh
Tây Phương, gọi là ra khỏi ba cõi theo chiều ngang, đó là việc dễ, lại nhanh
chóng thành công. Tổ Huệ Viễn nói: “Thành công cao, dễ tiến tu; niệm Phật là
bậc nhất”. Kinh Đại Tập nói: “Thời mạt pháp, ức ức người tu hành, hiếm có ai
thành đạo, chỉ nương nơi pháp môn niệm Phật mà được giải thoát”, ví như thuyền
vượt qua biển chẳng nhọc công sức. Người có thể tin tưởng lối tắt Tây Phương,
chí thành phát nguyện, nhất tâm niệm Phật cầu vãng sinh là bậc đại trượng phu
chân chánh. Nếu lòng tin không chân thật, phát nguyện không khẩn thiết, thực
hành không gắng sức, Phật dù có đại từ bi làm thuyền, nhưng nếu chúng sinh
chẳng chịu lên thuyền, cũng không làm sao được!
Muốn nhanh chóng thoát khỏi nỗi khổ luân hồi, không gì
bằng trì danh niệm Phật cầu sinh về thế giới Cực Lạc. Muốn chắc chắn vãng sinh
cõi Cực Lạc, không gì bằng lấy lòng tin làm người dẫn đường phía trước, sự phát
nguyện làm người thúc đẩy ở sau. Tin sâu, nguyện tha thiết, dù tâm tán loạn
niệm Phật cũng được vãng sinh. Tin không chân thật, nguyện không mạnh mẽ, dù
nhất tâm không loạn cũng chẳng được vãng sinh.
Sao gọi là tin?
1. Tin
nguyện lực của Phật A Di Đà.
2. Tin
lời dạy của Phật Thích Ca.
3. Tin
lời khen ngợi của chư Phật trong sáu phương.
Không tin những điều ấy, thật không thể cứu độ. Cho
nên, trước phải tin sâu đừng sinh khởi nghi hoặc.
Sao gọi là nguyện?
Lúc nào cũng chán nản nỗi khổ sinh tử nơi Ta Bà, ưa
thích niềm vui giác ngộ nơi Tịnh độ. Có làm việc gì, hoặc thiện hoặc ác, thiện
thì hồi hướng cầu vãng sinh, ác thì sám hối nguyện cầu vãng sinh, hoàn toàn
không có hai chí hướng. Đó là nguyện.
Tín Nguyện đã đầy đủ thì niệm Phật mới là chánh hạnh,
sửa ác làm lành đều là trợ hạnh. Tùy công phu sâu cạn phân ra chín phẩm bốn
cõi, chẳng lạm mảy may, chỉ cần chính mình kiểm xét, chẳng cần hỏi han kẻ khác.
Người tin sâu, nguyện thiết, niệm Phật, nhưng khi niệm
Phật tâm nhiều tán loạn, chỉ được sinh về Hạ phẩm Hạ sinh. Tâm loạn dần ít,
được sinh về Hạ phẩm Trung sinh. Không còn tán loạn, được sinh về Hạ phẩm
Thượng sinh.
Niệm đến Sự nhất tâm không loạn, chẳng khởi tham sân
si, được sinh về ba phẩm Trung. Niệm đến Sự nhất tâm không loạn, tự nhiên trước
đoạn kiến tư trần sa hoặc, cũng có thể hàng phục và đoạn trừ vô minh, được sinh
về ba phẩm Thượng.
Thế nên, Tín
Nguyện Trì danh niệm Phật có thể trải qua chín phẩm, xác thật không sai lầm.
Hơn nữa, người Tín Nguyện Trì danh tiêu trừ hàng phục
nghiệp chướng, còn lậu hoặc được vãng sinh thì ở cõi Phàm Thánh Đồng Cư.
Đoạn sạch kiến
tư hoặc mà vãng sinh thì ở cõi Phương Tiện Hữu Dư.
Phá tan một
phần vô minh mà vãng sinh thì ở cõi Thật Báo Trang Nghiêm.
Trì niệm đến
chỗ cứu cánh, đoạn sạch vô minh mà vãng sinh thì ở cõi Thường Tịch Quang.
Thế nên, Trì danh có thể làm thanh tịnh bốn cõi, cũng
là điều xác thực không sai lầm.
Hỏi: Làm sao Trì danh có thể đoạn trừ vô minh?
Đáp: Danh hiệu Phật được trì, không luận là ngộ cùng chẳng
ngộ, đều là Nhất cảnh Tam đế. Tâm niệm hay trì, không luận là thông đạt hay
không thông đạt, đều là Nhất tâm Tam quán. Chỉ vì chúng sinh vọng tưởng chấp
trước, tình kiến phân biệt, cho nên không khế hợp chỗ chân thường viên mãn. Đâu
biết rằng, tâm hay trì niệm tức là Thỉ giác, danh hiệu Phật được niệm tức là
Bản giác. Nay ngay đó trì niệm, ngoài sự trì niệm không có Phật, ngoài Phật
không có sự trì niệm, năng sở không hai, thì Thỉ giác hợp với Bản giác, gọi là
Cứu cánh giác .
Pháp môn niệm Phật không có gì kỳ đặc, chỉ cần tin
sâu, giữ chặt, ngay đó niệm đi! Một ngày đêm niệm đến mười vạn, năm vạn, ba vạn
câu làm chuẩn, nhất định không thiếu. Trong một ngày niệm ra tiếng một cây
hương, niệm thầm một cây hương, xoay vần không gián đoạn, phải lấy nhất tâm
không loạn làm kỳ hạn, cho đến hết đời này thề không thay đổi. Như thế, nếu
không được vãng sinh thì chư Phật ba đời đã nói dối. Một khi đã được vãng sinh
vĩnh viễn không bao giờ thối lui, tất cả các pháp môn đều được hiện tiền. Rất
kỵ hôm nay thế này, ngày mai thế khác. Chẳng hạn như gặp người theo giáo môn
thì nghĩ đến việc tầm chương, trích cú; gặp người tu thiền lại muốn tham cứu
hỏi đáp; gặp người trì luật thì nghĩ đến việc đắp y, ôm bát. Như thế, nơi nơi
đều không rõ, việc việc cũng chẳng hay. Ông đâu biết rằng: “Niệm Phật A Di Đà
đã thành thục, giáo lý cùng tột của ba tạng, mười hai phần giáo đều ở trong đó;
một ngàn bảy trăm tắc công án, nghĩa thiền cùng tột cũng ở trong đó; ba ngàn
oai nghi, tám muôn tế hạnh, ba tụ tịnh giới, cũng ở trong đó. Người chân thật
niệm Phật: thân tâm, thế giới đều buông bỏ, đó là đại bố thí; không khởi tham,
sân, si, đó là đại trì giới; không chấp thị phi, nhân ngã, đó là đại nhẫn nhục;
không còn một chút gián đoạn, xen tạp, đó là đại tinh tấn; không còn rong ruổi
theo vọng tưởng, đó là đại thiền định; không bị lối tẻ khác mê hoặc, đó là đại
trí tuệ”.
Hãy tự kiểm
điểm xem, nếu thân tâm thế giới chưa chịu buông bỏ, niệm tham sân si vẫn còn dấy
lên, thị phi nhân ngã còn ôm giữ, gián đoạn xen tạp còn chưa trừ, vọng tưởng
còn rong ruổi chưa dứt, những lối tẻ khác còn có thể mê hoặc tâm trí, thì biết
chẳng phải là chân thật niệm Phật. Muốn đạt tới cảnh giới nhất tâm không
loạn, đầu tiên khi hạ thủ công phu, cần phải dùng tràng hạt, niệm niệm ghi nhớ
rõ ràng, ấn định thời khóa nhất định không được thiếu, lâu ngày thuần thục,
không niệm cũng tự niệm, sau đó nhớ cũng được, không nhớ cũng được. Nếu bước
đầu vội muốn lộ vẻ mình hay giỏi, muốn tỏ ra không trước tướng, muốn học lối
viên dung tự tại, rốt cuộc niệm lực khó thành. Đây nói chung bởi tin chưa sâu,
thực hành chưa hết sức, dù cho ông có là người giảng rộng mười hai phần giáo,
hay trình bày được một nghìn bảy trăm chuyển ngữ cũng chỉ là việc làm bên bờ
sinh tử. Đến lúc lâm chung, những thứ đó nhất định không dùng được! Trân
trọng!”.
16. Trích
dẫn “Ấn Quang văn sao” của Đại sư Ấn Quang:
Chúng ta nghe về pháp môn Tịnh độ, nên tin Ta Bà rất
khổ, Tây Phương rất vui, nên tin từ nhiều đời đến nay nghiệp chướng sâu nặng,
nếu không nhờ sức mạnh của Phật thì khó mà nhanh chóng thoát ra. Nên tin cầu
vãng sinh chắc chắn hiện đời được sinh, nên tin niệm Phật nhất định được Phật
từ bi thâu nhận. Do đó, một lòng kiên định, nguyện rời khỏi Ta Bà như tù nhân
muốn thoát ra lao ngục, hoàn toàn không có tâm lưu luyến buộc ràng; nguyện vãng
sinh Tây Phương như người khách nhớ về cố hương, lẽ nào lại có ý niệm dây dưa?
Từ đây, tùy phần tùy sức, chí tâm trì niệm Thánh hiệu A Di Đà Phật. Không luận
là khi nói, nín, động, tịnh, đi, đứng, ngồi, nằm, đón đưa tân khách, mặc áo ăn
cơm, cốt phải làm cho Phật chẳng rời tâm, tâm chẳng rời Phật.
Niệm Phật khó quy nhất, phải nhiếp tâm niệm kỹ. Phép
nhiếp tâm không gì hơn chí thành, tha thiết, nếu không chí thành mà muốn quy
nhất ấy là điều rất khó. Đã chí thành, niệm còn chưa thuần, phải lắng tai nghe.
Không luận niệm thầm hay ra tiếng, đều phải niệm khởi từ tâm, tiếng ra từ nơi
miệng rồi lại vào tai. Tâm và miệng rành rẽ, tai nghe rõ ràng, nhiếp tâm như
thế vọng niệm tự dứt. Nếu làn sóng vọng tưởng dâng trào quá mạnh, nên dùng pháp
“Thập niệm ký số”, đem hết tâm lực chuyên vào câu niệm Phật, dù muốn khởi vọng
cũng không có xen hở để nổi lên. Pháp này nhiếp tâm rất tuyệt diệu. Tôi nhiều
phen dùng thử mới biết là rất hiệu nghiệm. “Thập niệm ký số” là khi niệm Phật
phải ghi nhớ rành rẽ từ một đến mười câu, hết mười câu liền trở lại một, cứ như
thế xoay vần mãi. Nhưng phải niệm trong vòng mười câu mà thôi, không được hai
hoặc ba mươi câu, không được dùng chuỗi, chỉ dùng tâm ghi nhớ. Nếu niệm luôn
một mạch mười câu thấy khó thì phân làm hai hơi, từ một đến năm, từ sáu đến
mười. Nếu hoặc còn thấy kém sức lại chia làm ba hơi, từ một đến ba, bốn đến
sáu, bảy đến mười. Cần để ý: Niệm rõ ràng, nhớ rõ ràng và nghe phải rõ ràng,
vọng niệm mới không xen vào được. Dùng pháp này lâu sẽ được nhất tâm. Chỉ những
khi nào làm việc, hoặc khó ký số nên khẩn thiết niệm suông, đợi lúc xong việc
lại nhiếp tâm ký số. Như thế thì vọng tưởng không còn tung hoành, bởi tâm
chuyên chú an trụ vào danh hiệu Phật.
Nhiếp tâm niệm Phật là con đường quyết định không thay
đổi. Phương pháp nhiếp tâm chỉ có “nghe lại” rất là bậc nhất. Pháp
môn Tùy Tức Bảo Vương nhiếp cả Ngũ Đình Tâm Quán, nếu có thể theo hơi thở mà
niệm, tức là gồm đủ hai môn: Sổ tức và niệm Phật. Nhiếp tâm niệm Phật thì lòng
tham nhiễm lần lần dứt tuyệt, sân hận không còn lẫy lừng, khi hôn trầm tán loạn
đã lui, trí tuệ liền hiện, phá luôn cả si mê nữa. Pháp môn Nhiếp sáu căn của Bồ
Tát Đại Thế Chí, theo ngu ý những người niệm Phật lơ là hiện thời, dường như
chẳng nên dùng, vì nếu không lần chuỗi ghi số, họ sẽ trở thành biếng trễ. Khác
hơn thế, những ai quyết tâm niệm Phật, nếu bỏ pháp này nhất định khó thành Tam
Muội. Pháp nhiếp sáu căn với bậc lợi cơ, trong một hai thất quyết sẽ được nhất
tâm. Dù cho hạng ngu kém như tôi, nếu cố gia công hoặc tám năm hay mười năm,
tưởng may ra có thể được không loạn.
Truy đảnh dễ bị bệnh. Niệm lớn, niệm nhỏ, niệm
kim cang, niệm thầm, tùy theo tinh thần của mỗi người điều đình mà dùng, đâu
nên chấp chặt vào một pháp để đến nỗi phải bị bệnh. Tùy tức niệm Phật chẳng
bằng lặng lẽ mà nghe, bởi theo hơi thở không khéo sẽ sinh bệnh, lặng lẽ mà nghe
thì không bệnh.
Cảnh tướng Tam Muội chỉ có chứng nhập mới thấu rõ. Nếu
nói về pháp ấy thì khi niệm Phật, ngay nơi niệm nhìn trở lại, chuyên chú một
cảnh, đừng để cho rong ruổi bên ngoài. Mỗi niệm soi lại nguồn tâm, mỗi tâm khế
hợp thể tánh Phật, niệm trở lại chỗ mình niệm, quán trở lại nơi mình quán, ngay
khi niệm tức là quán, ngay khi quán tức là niệm. Cốt yếu là khiến cho toàn niệm
tức là quán, ngoài niệm không có quán; toàn quán tức là niệm, ngoài quán không
có niệm. Quán và niệm tuy đồng như nước với sữa nhưng vẫn chưa đạt đến cội
nguồn, phải ở trên một niệm A Di Đà Phật không ngừng thể cứu, thiết tha nhắc
nhở, càng thể cứu càng thiết tha, càng nhắc nhở càng gần gũi, cho đến sức lực
cùng cực, công phu thuần thục thoát nhiên ý niệm rơi rụng, chứng nhập cảnh giới
vô niệm mà không lúc nào chẳng niệm. Đó gọi là: “Linh quang viên chiếu, vượt
thoát căn trần, thể chân thường hiện bày, chẳng hạn cuộc nơi văn tự, tâm tánh
không nhiễm, vốn tự thành tựu viên mãn, chỉ lìa vọng niệm tức là tánh Phật như
như”. Công phu đến đây là đạt được pháp niệm Phật, đạo cảm ứng qua lại, đây
chính là lúc nên gắng sức. Hiện tại, chưa rời Ta Bà mà thường dự Hải hội, lâm
chung bước lên Thượng phẩm, nhanh chóng chứng đắc Phật thừa.
Niệm danh hiệu Phật đừng dùng pháp Niệm Quán tâm, nên
dùng pháp Niệm Nhiếp tâm. Trong kinh Lăng Nghiêm, Bồ Tát Đại Thế Chí nói:
“Nhiếp cả sáu căn, Tịnh niệm tiếp nối, được Tam ma địa, đây là bậc nhất”. Khi
niệm Phật, trong tâm (ý căn) phải niệm rành rẽ rõ ràng, trong miệng (thiệt căn)
phải niệm rành rẽ rõ ràng, trong tai (nhĩ căn) phải nghe rành rẽ rõ ràng.
Ba căn ý, lưỡi, tai, mỗi mỗi thâu nhiếp nơi danh hiệu Phật, thì mắt cũng sẽ không
nhìn Đông ngó Tây, mũi cũng không ngửi mùi vị khác, thân cũng không lười biếng
giải đãi, gọi là thâu nhiếp cả sáu căn. Thâu nhiếp cả sáu căn mà niệm, tuy
chẳng thể hoàn toàn không vọng niệm, nhưng so với kẻ không thâu nhiếp trong
lòng đã thanh tịnh nhiều rồi, cho nên gọi là Tịnh niệm. Tịnh niệm nếu có thể
thường thường tiếp nối không gián đoạn, tự nhiên tâm trở về một chỗ. Cạn thì
được nhất tâm, sâu thì được Tam Muội. Có thể thật sự thâu nhiếp cả sáu căn mà
niệm, chắc chắn nghiệp chướng tiêu trừ, căn lành tăng trưởng, chẳng cần quán
tâm mà tâm tự thanh tịnh sáng ngời, sao lại gây ra bệnh tâm hỏa bốc lên?
Phương pháp Quán tâm chính là pháp tu Quán của Giáo
gia, người niệm Phật không hợp cơ cho lắm. Thâu nhiếp cả sáu căn, Tịnh niệm
tiếp nối là pháp vi diệu vô thượng cho mọi căn cơ, cả Thánh lẫn phàm, lợi khắp
thượng trung hạ. Nên biết “điều thâu nhiếp” chú trọng ở chỗ nghe, ngay cả trong
lòng thầm niệm cũng phải nghe. Vì trong lòng khởi niệm thì có âm thanh, tai của
chính mình nghe tiếng trong lòng của chính mình, vẫn là rành rẽ rõ ràng. Quả
như có thể từng chữ từng câu nghe rõ ràng thì sáu căn trở về nơi một, so với
người tu pháp quán khác rất là ổn thỏa, rất đỡ tốn sức lực, rất khế lý khế cơ.
Niệm Phật tuy quý nơi tâm niệm, nhưng cũng không nên
bỏ sự đọc tụng ra tiếng, vì thân miệng ý giúp đỡ lẫn nhau. Dù rằng tâm có thể
nhớ nghĩ, song nếu thân không lễ kính, miệng chẳng trì tụng, cũng khó được lợi
ích. Cho nên, kinh Đại Tập nói: “Niệm lớn thấy Phật lớn, niệm nhỏ thấy Phật
nhỏ”. Cổ đức cũng bảo: “Niệm lớn tiếng thấy thân Phật cao lớn, niệm nhỏ tiếng
thấy thân Phật bé nhỏ”. Với hạng phàm phu, tâm thường hôn trầm tán loạn, nếu
không nhờ sức thân lễ, miệng niệm tụng tất khó được nhất tâm.
Pháp môn niệm Phật chú trọng ở lòng tin và sự phát
nguyện. Có lòng tin và phát nguyện, dù chưa được nhất tâm cũng có thể vãng
sinh. Được nhất tâm nhưng nếu không có lòng tin và phát nguyện cũng không được
vãng sinh. Người đời phần nhiều chú trọng nhất tâm, chẳng chú trọng lòng tin và
phát nguyện, đó là đã mất chỗ cốt yếu. Hơn nữa, khi sống chưa được nhất tâm, và
còn nghi sợ chẳng được vãng sinh thì hoàn toàn trái ngược với lòng tin chân
thật và sự phát nguyện thiết tha. Do vậy, càng thêm Tín Nguyện để đạt đến nhất
tâm, đó là ý niệm tốt. Nếu vì không được nhất tâm mà thường lo chẳng thể vãng
sinh, thì trở thành ý niệm sai lầm. Điều đó không thể không biết!
Niệm Phật tối yếu ở chỗ thoát sinh tử. Đã vì thoát
sinh tử thì đối với nỗi khổ sinh tử tự nhiên sinh lòng chán nản, đối với niềm
vui Tây Phương tự nhiên khởi tâm ưa thích. Như thế, hai pháp Tín Nguyện ở ngay
nơi tâm niệm đầy đủ trọn vẹn. Lại thêm chí thành khẩn thiết như con nhớ mẹ mà
niệm, thì sức mạnh của Phật, sức mạnh của pháp, sức mạnh của công đức Tín
Nguyện nơi tự tâm, cả ba hiển bày trọn vẹn, như vầng nhật tỏ sáng giữa trời không,
dù có sương dầy băng tuyết, không bao lâu cũng sẽ tan chảy.
Muốn cho tâm không tham luyến việc ngoài, chuyên niệm
Phật được quy nhất, cũng không có phương pháp chi kỳ lạ, chỉ đừng quên cái chết
rình rập bên mình, không biết xảy ra lúc nào. Tâm luôn nghĩ nhớ: “Ta từ xa xưa
đến nay tạo ra vô lượng vô biên nghiệp ác, như trong kinh nói: “Giả sử nghiệp
ác kia có hình tướng thì khắp mười phương hư không cũng chẳng dung chứa hết”,
duyên đâu may mắn, nay được thân người lại nghe Phật pháp, nếu không một lòng chuyên
niệm Phật cầu sinh Tây Phương, khi cái chết đến thình lình, chắc chắn phải bị
đọa vào ác đạo. Chừng ấy nếu vào địa ngục thì bị non đao, rừng kiếm, lò lửa,
vạc dầu, một ngày đêm sống chết đến vạn lần, sự khổ cùng cực không thể diễn tả.
Nếu ra khỏi địa ngục lại đọa vào loài ngạ quỷ, súc sinh; dù được làm người ngu
si tạo nghiệp lại đọa lạc trải qua kiếp số nhiều như cát bụi, luân hồi trong
sáu nẻo, dù muốn thoát ra cũng không thể được”. Hay nghĩ nhớ như vậy, những
điều mong cầu trên liền được thành tựu. Cho nên, trong kinh thường nói, nghĩ về
nỗi khổ nơi địa ngục mà phát tâm Bồ Đề, đó là lời khai thị thiết yếu nhất của
đức Thế Tôn. Niệm Phật phải luôn luôn nghĩ mình sắp chết, sắp rơi vào địa ngục,
thì chẳng khẩn thiết tự nhiên cũng khẩn thiết, chẳng tương ưng tự nhiên cũng
tương ưng. Dùng tâm sợ khổ mà niệm Phật là pháp vi diệu bậc nhất để thoát khổ,
cũng là pháp vi diệu bậc nhất để tùy duyên tiêu nghiệp.
Người niệm Phật không nên tập theo lối tham cứu của
nhà tu Thiền. Vì người tham cứu hầu hết đều không chú trọng về việc Tín Nguyện
vãng sinh. Dù có niệm Phật, họ chỉ chú trọng khán “niệm Phật đó là ai?” để cầu
khai ngộ. Nếu khai ngộ hoặc nghiệp hết sạch, có thể thoát sinh tử. Nếu hoặc
nghiệp chưa hết, không thể nhờ vào tự lực để thoát sinh tử. Lại không có Tín
Nguyện thì chẳng thể nhờ vào Phật lực thoát khỏi sinh tử. Tự lực và Phật
lực cả hai đều không nương cậy được, sao có thể thoát luân hồi?
Người niệm Phật không nên bắt chước kẻ ngu tối làm
những việc: hườn thọ sinh, gởi giấy tiền vàng mã. Bởi sự hườn thọ sinh, trong
kinh Phật không có nói, do người sau ngụy tạo. Còn gởi giấy tiền vàng mã là
muốn cho mình khi chết rồi thành quỷ, nên mới sắm trước tiền của đồ vật cho
thân quỷ dùng. Đã có tâm niệm muốn làm quỷ thì khó được vãng sinh. Như người
nào chưa làm thì thôi, nếu đã làm phải bạch rõ trước bàn Phật như vầy: “Đệ tử
là… chỉ cầu vãng sinh, những đồ minh khố đã gởi đi trước, xin đem chẩn tế cho
cô hồn”. Như thế, mới không chướng ngại cho sự sinh về cõi Phật.
Người niệm Phật nên ăn chay trường. Như chưa được thế,
thì giữ Lục trai hoặc Thập trai, để lần lần bỏ hẳn các thứ thịt của chúng sinh,
mới là hợp lý. Lục trai là các ngày: mùng 8, 14, 15, 23, 29, 30; nếu thêm vào
đó mấy ngày: mùng 1, 18, 24, 28 thì thành ngày Thập trai. Những tháng thiếu nên
ăn trước một ngày. Lại tháng giêng, tháng năm, tháng chín là ba trai ngoạt, nên
ăn chay trường và làm các việc công đức. Dù chưa ăn chay được, cũng nên mua
thịt cá đã làm sẵn, chớ sát sinh trong nhà.
Người niệm Phật, việc quan trọng nhất là “thành khẩn”,
làm tròn bổn phận, trừ dẹp tà vạy, giữ tâm thành kính, không làm các việc ác,
thực hành mọi điều lành, giữ tâm tốt, nói lời lành, làm việc thiện. Những điều
khả năng mình có thể làm được gắng sức làm, như không làm được cũng nên phát
tâm lành ấy, hoặc khuyên người có khả năng làm, hoặc thấy người làm sinh tâm
vui theo. Thốt lời khen ngợi việc lành cũng thuộc về công đức của tâm và miệng.
Nếu việc mình không thể làm, khi thấy người khác làm được sinh tâm ganh ghét,
đó là tâm hạnh của kẻ tiểu nhân gian ác. Như thế, nhất định sẽ bị mất phước tổn
thọ, không được kết quả tốt, cần để ý răn chừa!
Người niệm Phật phải hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư
trưởng, tâm từ bi không giết hại, tu mười nghiệp lành (thân không sát sinh,
trộm cướp, tà dâm; miệng không nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, nói hung
ác; ý không tham dục, giận hờn, ngu si tà kiến). Lại cần phải: cha lành, con
thảo, anh em thương kính, chồng vợ thuận hòa, chủ nhân hậu, tớ trung thành, mỗi
người đều giữ tròn bổn phận. Ta chỉ nên làm hết nhiệm vụ mình, đừng so đo phiền
trách người khác đối với mình có trọn cùng không. Nếu người nào đối với gia
đình xã hội làm tròn bổn phận, đó là người lành. Người lành mà niệm Phật dễ có
cơ cảm, quyết định khi lâm chung được Phật tiếp dẫn sinh về Tây Phương vì tâm
hạnh hợp với Phật. Lại phải khuyên cha mẹ, anh em, chị em, vợ con, xóm giềng,
bạn bè thường niệm Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm. Vì việc này lợi ích rất lớn, nỡ
nào để cho đấng sinh thành, người quyến thuộc và bạn bè của ta không được sự
lợi ích này ư? Huống chi, khuyên người niệm Phật cầu sinh Tây Phương, tức là
giúp kẻ phàm phu thành Phật, công đức rất lớn, nếu đem công đức ấy hồi hướng
vãng sinh tất sẽ mãn nguyện.
Người niệm Phật khi tụng kinh, trì chú, lễ bái, sám
hối, cứu tai nạn, giúp kẻ nghèo, tất cả công đức lành đều phải hồi hướng vãng
sinh Tây Phương, không nên cầu đời sau hưởng phước báo ở cõi trời, cõi người.
Vừa có tâm niệm ấy thì mất phần vãng sinh. Chưa thoát khỏi sinh tử, hưởng phước
càng nhiều tất nghiệp càng lớn, qua một đời sau nữa khó khỏi đọa vào đường địa
ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Chừng ấy, muốn trở lại làm thân người, được nghe pháp
hiện đời giải thoát của môn Tịnh độ, còn khó hơn lên trời.
Quán Thế Âm Bồ Tát thệ nguyện rộng sâu, tìm tiếng cứu
khổ. Khi gặp những tai nạn: đao binh, nước lửa, đói kém, cào cào, ôn dịch, khô
hạn, cướp bóc, oan gia, thú dữ, rắn độc, ác quỷ, yêu mị, nghiệp bệnh, kẻ tiểu
nhân hãm hại… nếu phát tâm sửa lỗi làm lành, lợi mình lợi người, chí thành khẩn
thiết niệm Quán Thế Âm không xen hở, quyết định sẽ được sức từ bi ủng hộ tránh
khỏi tai nguy. Nếu vẫn còn giữ lòng bất thiện, dù có xưng niệm, chẳng qua là
gieo chút căn lành về sau, không được sự cảm ứng hiện tại, vì chư Phật, Bồ Tát
thành tựu niệm lành cho người, tuyệt không thành tựu niệm ác cho người. Như
không phát tâm sửa lỗi làm lành, lầm lạc muốn đem công đức niệm Phật, Bồ Tát để
cầu cho việc ác của mình thành tựu, quyết không được cảm ứng. Rất không nên
phát tâm điên đảo ấy!
Người niệm Phật, nếu tấm lòng chân thiết, tự có thể
nhờ từ lực của Phật khiến cho khỏi tai nạn đao binh nước lửa. Dù có bị nghiệp
cũ trói buộc, hoặc trường hợp chuyển quả nặng địa ngục thành ra báo nhẹ đời nay
ngẫu nhiên bị tai nạn ấy, nếu lúc thường ngày có lòng Tín Nguyện chân thật
thiết tha, quyết định lúc bấy giờ sẽ được nhờ Phật tiếp dẫn.
Người nữ khi có kinh nguyệt chỉ nên lễ bái ít, còn sự
tụng kinh niệm Phật đều chiếu theo lệ thường. Nên thường thay giặt vải dơ, phải
rửa tay cho sạch sẽ, đừng dùng tay dơ mà lần chuỗi, lật kinh và đốt hương. Khi
sinh sản, lõa lồ không sạch nhưng không cách nào hơn, đó chẳng phải ý mình
buông lung. Nếu chí thành khẩn thiết niệm lớn tiếng Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát,
quyết định sẽ không còn khốn khổ khó sinh và bị những bệnh băng huyết sau khi
sinh. Dù rất khó sinh sắp chết, nên bảo sản phụ và những người giúp đỡ trong phòng
đều niệm lớn tiếng Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát. Người nhà tuy ở phòng khác cũng
nên niệm trợ giúp, quyết định liền được sinh đẻ dễ dàng. Chẳng những không tội
lỗi mà còn khiến mẹ con gieo trồng căn lành lớn. Lúc ấy, không nên niệm thầm vì
niệm thầm tâm lực kém nên sự cảm ứng cũng kém. Hơn nữa, trong khi dùng sức cho
đứa con ra, nếu niệm thầm tất phải tổn hơi mang bệnh.
Giữ một câu A Di Đà Phật, nhặt nhiệm nối nhau thường
nhớ thường niệm. Khi những tâm hờn giận, dâm dục, háo thắng, kiêu mạn, thoạt
nổi lên, phải nghĩ: “Ta là người niệm Phật cầu giải thoát, không nên có tâm
niệm như vậy”, nghĩ rồi liền trừ diệt đi. Như thế, lâu dần những niệm lao thần
tổn thân đều không do đâu sinh khởi, trọn ngày được công đức không nghĩ bàn của
Phật gia trì nơi thân tâm mình, dám đảm bảo trong mười ngày sẽ thấy hiệu quả
lớn. Nếu chỉ niệm một, hai câu liền muốn được công hiệu ngay, đó là lừa mình
dối người, tuy có công đức nhưng muốn do đó lành bệnh quyết không thể được.
Người niệm Phật cần phải chí thành. Hoặc có khi trong
tâm sinh khởi đau buồn, đây cũng là tướng căn lành phát hiện, quyết chẳng thể
để cho thường như thế, nếu không thì ma bi xâm nhập. Phàm lúc có việc thích ý,
không nên quá vui vẻ, nếu không ắt bị ma hoan hỷ xâm nhập. Khi niệm Phật mắt
nên nhìn xuống, không nên đề khởi tinh thần quá lắm, đến nỗi gây ra bệnh tâm
hỏa bốc lên. Hoặc có những bệnh trên đầu phát ngứa, phát đau… cần phải điều
đình vừa phải. Niệm lớn tiếng không nên quá gắng sức để đề phòng sinh bệnh, lần
chuỗi niệm có thể ngăn ngừa sự lười biếng. Khi tĩnh tọa, nhất định không nên
lần chuỗi, lần chuỗi thì tay động tâm chẳng thể định, lâu ngày ắt sinh bệnh.
Khi nằm chỉ nên niệm thầm bốn chữ, để khỏi vì nhiều chữ mà khó niệm. Nếu niệm
ra tiếng, một là không cung kính, hai là bị hao hơi.
Niệm Phật nhắm mắt dễ đi vào hôn trầm, nếu chẳng khéo
dụng tâm đôi khi có ma cảnh. Lúc ông niệm Phật, nếu cảm thấy có vật gì xoa cổ
và kềm chế trên đầu, đó là khi niệm Phật tâm tưởng hướng lên nên gây ra tướng
tâm hỏa bốc lên. Nếu mắt mở vừa phải nhìn xuống và tâm tưởng hướng xuống, thì
tâm hỏa chẳng bốc lên, bệnh này liền hết. Nhất định chẳng thể cho đây là công
phu, lại không nên sợ đây là ma cảnh, chỉ chí thành nhiếp tâm mà niệm, đồng
thời tưởng thân mình ngồi hoặc đứng trên hoa sen, nhất tâm tưởng về hoa sen nơi
mình ngồi hoặc đứng, tự nhiên có thể nhanh chóng lành bệnh. Nếu không dám tưởng
mình ngồi hoặc đứng trên hoa sen, e dẫn đến việc ma thì chỉ tưởng dưới gót
chân, bệnh tâm hỏa bốc lên đầu sẽ không phát sinh.
Thấy Phật không phải dễ, khi chưa được nhất tâm quyết
không thể mống niệm muốn thấy Phật. Khi được nhất tâm, tâm hợp với đạo, tâm hợp
với Phật, muốn thấy liền thấy ngay, dù không thấy cũng không ngại. Vội gấp muốn
thấy Phật thì vọng tưởng rối ren, tâm niệm cầu mong cố kết nơi lòng, đây là
chứng bệnh lớn lao nguy hiểm của người tu hành. Như thế lâu ngày, những oan gia
đời trước nương theo vọng tưởng của hành nhơn, hóa làm thân Phật, để mong báo
oán. Lúc ấy, tự mình đã không có chánh kiến, toàn thể là khí phần của ma, một
khi thấy cảnh ấy tất sinh lòng hoan hỷ, ma nương theo đây mà vào tâm phủ làm
cho hành nhơn điên cuồng, dù có Phật sống cũng không cứu được. Chỉ được nhất
tâm, lo gì việc thấy Phật và không thấy? Sau khi nhất tâm, tự biết tốt hay
không. Không thấy Phật cố nhiên có thể công phu tiến lên, dù thấy đi nữa lại
càng dụng tâm chuyên tu, quyết không có lỗi nhận lầm, chỉ có sự lợi ích tiến
thêm mà thôi.
Đóng cửa nhập thất, từ chối những việc không cấp thiết
rất là có ích. Trong thất dụng công, nên lấy việc chuyên tinh thuần nhất làm
chánh. Nếu quả như tâm được thuần nhất ắt có sự cảm thông không thể nghĩ bàn,
cảm thông thì tâm càng chuyên nhất, gọi là gương sáng trên đài gặp vật thì hiện
bóng, tự chúng lăng xăng nào có dính dáng gì đến ta. Khi tâm chưa chuyên nhất,
quyết không thể đem tâm vọng động mong cầu cảm thông, tâm mong cầu cảm thông
này chính là sự chướng ngại lớn nhất của việc tu hành. Huống gì dùng tâm vọng
động hy vọng đạt được những việc khác thường, có khi dẫn đến những ma sự, phá
hoại tâm thanh tịnh.
Gần đây, người tu hành phần nhiều hay bị ma dựa, đều
do dùng tâm vọng động mong được những cảnh giới lạ thường. Đừng nói cảnh ấy là
ma, dù có cảnh thù thắng, nếu sinh lòng vui mừng tham trước cũng bị tổn hại,
huống chi cảnh ấy chưa hẳn thật là cảnh thù thắng. Nếu người có công hàm dưỡng,
dứt hẳn tâm vọng động, khi thấy các cảnh giới cũng như chưa thấy, không vui
mừng, tham trước, sợ hãi, nghi ngờ, thì dù gặp ma cảnh cũng được lợi ích, nói
gì là cảnh nhiệm mầu? Sở dĩ được như thế, bởi không bị ma chuyển nên có thể
tiến triển thêm.
Những bóng đen chẳng phải là bóng chư Phật, Bồ Tát,
cũng chẳng phải hình ảnh kẻ oan gia đối đầu. Vì nếu Phật, Bồ Tát hiện thân, tất
phải tỏ rõ có thể trông thấy mặt mày; còn nếu là kẻ oan gia thì nó sẽ hiện ra
tướng ghê gớm đáng sợ. Mấy bóng ấy có lẽ là những cô hồn hữu duyên từ kiếp
trước, muốn nhờ sức tụng kinh niệm Phật để siêu sinh về cõi lành. Sau thời khóa
tụng hồi hướng, nên cầu nguyện luôn cho các vong ấy được tiêu trừ ác nghiệp,
thêm lớn căn lành, nhờ sức từ của Phật vãng sinh về Tây Phương. Như thế, các
vong kia sẽ được lợi ích, không luống uổng một phen khổ sở mong cầu.
Chúng ta nhiều đời đã tạo mọi thứ nghiệp, may mắn được
nghe Phật pháp nên chân thật tu trì, mới mong có thể tiêu trừ nghiệp cũ, siêu
độ oan gia. Nếu chịu phát tâm Bồ Đề và thành tâm siêu độ, thì dù thắt gút khó
mở đến đâu cũng liền được cởi mở. Niệm Phật mà bị khó thở, ắt không phải cơ thể
yếu đuối mà chính là do nghiệp chướng gây ra, chỉ khẩn thiết chí thành mà niệm.
Nếu niệm không được thì tâm thường nghĩ tưởng, có thể niệm được cần phải dùng
miệng niệm, không thể niệm được thì chỉ dùng tâm niệm ghi nhớ, lâu dần nghiệp
ấy liền tiêu. Từ nay về sau, nơi tâm niệm hành vi phải giữ cho hiền hòa mới
được phước lành. Nếu chẳng thế, lại thêm tánh gian xảo, khắc hiểm, thì cũng như
chót núi đá chơ vơ, mưa bao nhiêu cũng không đọng lại chút nào, dù loại cây cỏ
chi cũng không sinh trưởng nổi.
17.Trích dẫn
“Ngữ lục” của Đại sư Triết Ngộ:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét