Tất cả pháp môn lấy việc minh tâm làm thiết yếu, tất
cả hạnh môn lấy việc tịnh tâm làm thiết yếu. Song mà, cốt yếu của chỗ minh tâm
không gì bằng niệm Phật. “Nhớ Phật, niệm Phật, hiện tiền tương lai nhất định
thấy Phật. Chẳng nhờ phương tiện tự được tâm khai ngộ”. Niệm Phật như thế chẳng
phải là chỗ cốt yếu của sự minh tâm sao?
Hơn nữa, chỗ cốt yếu của việc tịnh tâm cũng không gì
bằng niệm Phật. Một niệm tương ưng, một niệm là Phật; mỗi niệm tương ưng, mỗi
niệm là Phật. Thanh châu gieo vào nước đục, nước đục không thể không trong;
Phật hiệu gieo vào tâm loạn, tâm loạn không thể không thành Phật. Niệm Phật như
thế chẳng phải cốt yếu của tịnh tâm sao?
Một câu Phật hiệu đều thâu nhiếp chỗ cốt yếu của hai
môn ngộ và tu. Nói về ngộ thì tín ở trong ấy, nói về tu thì chứng ở trong ấy.
Tin hiểu, tu chứng đều thâu nhiếp; chỗ cốt yếu của Đại thừa, Tiểu thừa và tất
cả các kinh điển đều bao hàm trọn vẹn. Vậy thì một câu A Di Đà chẳng phải là
đạo chí yếu sao?
Một tâm niệm
hiện giờ của chúng ta hoàn toàn chân mà thành vọng, hoàn toàn vọng mà tức là
chân, trọn ngày bất biến, trọn ngày tùy duyên. Hễ không theo duyên pháp giới
Phật mà niệm Phật thì niệm chín pháp giới kia. Không niệm Tam thừa thì niệm Lục
phàm; không niệm người trời thì niệm Tam đồ; không niệm ngạ quỷ, súc sinh thì
niệm địa ngục. Bởi vì, hễ còn nơi hữu tâm thì không thể vô niệm. Tâm thể vô
niệm chỉ riêng Phật chứng ngộ, từ Đẳng Giác trở xuống đều là còn niệm. Nếu khởi
một niệm tất rơi vào mười pháp giới, không có niệm nào ra ngoài mười pháp giới.
Vì mười pháp giới bao hàm tất cả, mỗi khi khởi một niệm là một duyên để thọ
sinh. Nếu người biết lý này mà không niệm Phật thì chưa có điều đó.
1. Nếu tâm này có thể tương ưng với bình đẳng, đại từ,
đại bi, công đức của y báo chánh báo và Vạn đức Hồng danh tức là niệm pháp
giới Phật.
2. Nếu tâm này có thể tương ưng với tâm Bồ Đề, Lục độ
Vạn hạnh, tức là niệm pháp giới Bồ Tát.
3. Dùng tâm vô ngã tương ưng với mười hai nhân duyên,
tức là niệm pháp giới Duyên Giác.
4. Dùng tâm vô ngã quán sát Tứ đế, tức là niệm pháp
giới Thanh văn.
5. Hoặc tương ưng với Tứ thiền, Bát định và Thượng
phẩm Thập thiện, tức là niệm pháp giới Trời.
6. Nếu tương ưng với ngũ giới, tức là niệm pháp giới
Người.
7. Nếu tu các pháp giữ giới làm lành mà còn tâm sân
hận, kiêu mạn, hơn thua, tức là rơi vào pháp giới A tu la.
8. Nếu dùng tâm chậm yếu niệm Hạ phẩm thập ác, tức là
rơi vào pháp giới Súc sinh.
9. Hoặc dùng tâm vừa hưỡn vừa gấp tương ưng với Trung
phẩm thập ác, thì rơi vào pháp giới Ngạ quỷ.
10. Nếu dùng tâm mãnh liệt tương ưng với Thượng phẩm
thập ác, tức là rơi vào pháp giới Địa ngục.
Thập ác là sát sinh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, nói
thêu dệt, nói lời ác, nói hai lưỡi, tham, sân, tà kiến. Ngược lại những điều
này tức là Thập thiện. Nên thầm tự kiểm điểm những ý niệm sinh khởi hằng ngày,
xem coi tương ưng với pháp giới nào nhiều. Nếu tương ưng với pháp giới nào
mạnh, chỗ an thân lập mạng sau này không cần phải nhọc hỏi người khác nữa.
Một niệm hiện giờ của chúng ta duyên sinh không tánh,
không tánh duyên sinh, chẳng sinh pháp giới Phật thì sinh chín pháp giới kia.
Nếu ước về duyên sinh không tánh thì chúng sinh và chư Phật bình đẳng một tánh
không. Ước về không tánh duyên sinh, thì mười pháp giới hơn kém cách xa.
Vua A Xà Thế
lúc lâm chung, do người đuổi ruồi lấy phất trần phất qua mặt. Ông khởi một niệm
sân hận liền đọa làm rắn độc.
Một người phụ nữ qua sông xảy tay, làm đứa con rơi
xuống nước. Vì mò tìm con nên bị chết chìm, bởi lòng từ mà được sinh lên cõi
trời.
Ôi! Một niệm từ bi và sân hận, bèn phân ra cõi trời và
súc sinh. Thế thì một niệm duyên sinh lúc lâm chung, có thể không cẩn thận được
sao? Nếu dùng tâm này, duyên niệm Phật A Di Đà cầu sinh Tịnh độ sẽ thấy Phật,
được vãng sinh. Nhưng một niệm này không thể cầu may mà được, cần phải giữ gìn
chân thật thường ngày thuần thục. Thế nên, chúng ta niệm ngàn muôn lần một câu
A Di Đà này, cho đến niệm trọn ngày trọn năm, đều là để làm thuần thục một niệm
này mà thôi. Nếu được một niệm thuần thục, thì khi lâm chung chỉ có một niệm
này không còn niệm nào khác. Đại sư Trí Giả nói: “Khi lâm chung, tâm ở nơi định
là tâm thọ sinh Tịnh độ”. Chỉ có một niệm này, không còn niệm nào khác, như vậy
chẳng phải là tâm ở nơi định hay sao? Nếu niệm được như thế mà không thấy Di Đà
thì còn thấy ai? Chẳng sinh về Tịnh độ thì còn sinh về nơi nào? Chỉ e chúng ta
tự tin không nổi thôi.
“Thật vì
sinh tử, phát tâm Bồ Đề.
Lấy Tín Nguyện sâu, trì danh hiệu Phật”.
Mười sáu chữ này là toàn bộ cương lĩnh của pháp môn
niệm Phật. Nếu tâm “thật vì sinh tử” không phát khởi thì tất cả lời khai thị
đều trở thành luận bàn vô ích.
Tất cả nỗi thống khổ ở thế gian không gì hơn sinh tử.
Chẳng thoát khỏi sinh tử, thì sinh tử tử sinh, sinh sinh tử tử, ra khỏi một bào
thai lại vào một bào thai, bỏ một đãy da lại lấy một đãy da, khổ đã chẳng kham,
huống chi luân hồi chưa ra khỏi, khó tránh đọa lạc. Một niệm sai lầm liền vào
nẻo ác, ba đường dễ vào khó ra, địa ngục trường kỳ thống khổ. Vừa nghĩ đến điều
này trong lòng như lửa đốt. Thế nên, hiện nay xét nghĩ thống thiết về sinh tử
như an táng mẹ cha, như cứu lửa cháy đầu.
Song mà, ta có sinh tử, ta mong cầu ra khỏi, mà tất cả
chúng sinh đều ở trong sinh tử cũng nên ra khỏi. Họ với ta vốn đồng một thể,
đều là cha mẹ nhiều đời, là chư Phật vị lai. Nếu chẳng nghĩ suy độ khắp, chỉ
mong cầu lợi ích riêng mình, đối với lý có điều thiếu sót, nơi lòng có chỗ chưa
an. Huống nữa, nếu không phát tâm rộng lớn thì ở ngoài không thể cảm thông với
chư Phật, bên trong không thể khế hợp bản tâm; bên trên không thể thành Phật
đạo trọn vẹn, ở dưới không thể lợi ích chúng sinh rộng lớn. Ân ái từ vô thỉ làm
sao giải thoát, oán hờn lầm lỗi bao đời làm sao cởi mở, tội nghiệp nhiều kiếp
khó thể sám trừ, căn lành bao đời khó thể thành thục. Tùy sự tu hành, vướng
nhiều chướng duyên, dù có được thành tựu cuối cùng cũng rơi vào nơi nhỏ hẹp
nghiên lệch.
Thế nên, phải xứng với bản tánh phát tâm Đại Bồ Đề.
Tâm rộng lớn đã phát nên tu hạnh rộng lớn. Nhưng trong tất cả hạnh môn, thì môn
thực hành dễ nhất, thành tựu dễ nhất, ổn thỏa hoàn toàn, viên đốn cùng tột, thì
không gì bằng “lấy Tín Nguyện sâu, trì danh hiệu Phật”.
Bảo rằng tin sâu nghĩa là: Phạm âm của Thích Ca Như
Lai quyết không lừa dối, tâm đại từ bi của Thế Tôn Di Đà quyết chẳng nguyện suông.
Hơn nữa, lấy nhân niệm Phật cầu vãng sinh, tất cảm quả thấy Phật vãng sinh, như
trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu; vang thì ứng tiếng, bóng ắt theo hình.
Nếu nhân đã chân thì quả sẽ thật. Điều ấy có thể không
đợi hỏi Phật cũng tự tin được. Huống chi, một niệm tâm tánh hiện giờ của chúng
ta, trọn ngày tùy duyên, trọn ngày bất biến, dọc ngang cùng khắp. Ngay nơi thể
không gì ở ngoài, Di Đà Tịnh độ đều ở trong đây. Đem tâm Phật của ta, niệm Phật
nơi tâm của ta. Lẽ nào Phật nơi tâm của ta chẳng ứng với tâm Phật của ta hay
sao?
Truyện vãng sinh ghi chép tướng lành lúc lâm chung
hàng hàng lớp lớp, lẽ nào lại lừa gạt ta sao? Tin như thế rồi nguyện ưa thích
thiết tha. Lấy niềm vui ở cõi kia, xem lại nỗi khổ nơi Ta Bà, tâm chán lìa sẽ
sâu sắc như rời hầm phẩn, như ra lao ngục. Lấy nỗi khổ nơi Ta Bà trông về niềm
vui Cực Lạc, tâm chán nản ưa thích tự nhiên khẩn thiết như về cố hương, như đến
Bảo sở. Nói tóm lại, như khát nghĩ đến uống, như đói nghĩ đến ăn, như bệnh khổ
nghĩ đến thuốc hay, như trẻ thơ nghĩ về từ mẫu, như tránh kẻ thù cầm dao bức
bách, như rơi vào nước lửa cấp thiết cầu cứu vãn. Nếu có thể khẩn thiết như
thế, tất cả cảnh duyên không thể dẫn dắt được.
Sau đó, lấy tâm Tín Nguyện này chấp trì danh hiệu. Trì
một tiếng là một hạt giống nơi chín phẩm, niệm một câu là một chánh nhân của sự
vãng sinh. Cần phải tâm tâm tương tục, niệm niệm không khác, chỉ chuyên tâm,
chỉ cần mẫn, không xen tạp, không gián đoạn, càng lâu dài càng bền chắc, càng
trì niệm càng thiết tha. Trải qua lâu dài tự thành một khối vào nơi nhất tâm
không loạn. Quả thật như thế, nếu không vãng sinh thì Thích Ca Như Lai là người
nói dối, Thế Tôn Di Đà chỉ lập nguyện suông. Lẽ nào lại có việc ấy hay sao?
Hiện trạng sinh tử của chúng ta chỉ do hai thứ: tâm
lực và nghiệp lực.
Tâm lực là tâm niệm có nhiều mối, khi lâm chung đi
theo mối nặng nhất. Nghiệp lực cứ như người mang nợ, chủ nợ mạnh lôi kéo trước
tiên. Nghiệp lực tuy lớn, nhưng tâm lực lại càng lớn hơn. Bởi nghiệp không tự
tánh, hoàn toàn nương nơi tâm.
Tâm hay tạo nghiệp, tâm hay chuyển nghiệp, nên khi tâm
chú trọng thì làm cho nghiệp thêm mạnh, mới hay dẫn dắt thọ sinh. Nếu ta dùng
tâm chú trọng tu Tịnh nghiệp thì Tịnh nghiệp mạnh. Tâm chú trọng, nghiệp mạnh
chỉ hướng tới Tây Phương, khi lâm chung quyết định sinh về Tây Phương, chẳng
sinh vào nơi khác. Ví như cây to, tường cao bình thường nghiêng về phía Tây,
ngày kia khi ngã đổ tất không về chỗ khác.
Thế nào là tâm chú trọng? Chúng ta tu tập Tịnh nghiệp,
lòng tin quý ở nơi sâu, chí nguyện quý ở nơi tha thiết. Do tin sâu, nguyện tha
thiết, nên tất cả tà thuyết không thể lay động mê hoặc, tất cả cảnh duyên không
thể kéo lôi. Giả sử khi ta đang niệm Phật, bỗng Tổ Đạt Ma hiện ra bảo rằng: “Ta
có pháp Thiền chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật. Ông hãy bỏ niệm Phật,
ta sẽ trao cho ông pháp Thiền ấy!”. Lúc ấy, chỉ nên lễ bái Tổ sư mà thưa:
“Trước kia con đã thọ giáo pháp môn niệm Phật của Thích Ca Như Lai, phát nguyện
thọ trì trọn đời chẳng đổi. Tổ sư tuy có truyền đạo vi diệu, nhưng con không
dám trái với thệ nguyện của chính mình!”. Dù Phật Thích Ca hiện thân bảo rằng:
“Trước kia ta nói pháp môn niệm Phật chỉ là phương tiện nhất thời thôi. Nay có
pháp môn thù thắng hơn cả pháp ấy, ông nên ngừng niệm Phật ta sẽ nói pháp thù
thắng này ngay!”. Bấy giờ, chỉ nên cúi đầu bày tỏ với Phật: “Trước kia con tiếp
nhận pháp môn Tịnh nghiệp của Thế Tôn, phát nguyện nếu còn một hơi thở quyết
chẳng đổi thay. Như Lai tuy có pháp thù thắng, nhưng con không dám trái với bản
nguyện của chính mình!”.
Dù Phật Tổ hiện thân còn chẳng thay đổi lòng tin,
huống là thuyết giả dối của ma vương ngoại đạo, há đủ để dao động ta sao? Tin
được như thế mới gọi là lòng tin sâu chắc.
Về phần nguyện, ví như có vòng sắt nóng đỏ xoay vần
trên đầu, cũng không vì sự khổ ấy mà thối thất chí nguyện vãng sinh. Nếu như có
cảnh dục lạc tuyệt vời của Chuyển Luân Vương hiện đến, cũng không vì sự vui
sướng đó mà thối thất chí nguyện vãng sinh. Gặp những cảnh duyên thuận nghịch
cùng cực như thế còn chẳng thay đổi chí nguyện, huống là cảnh thuận nghịch nhỏ
nhặt ở thế gian, lẽ nào có thể lôi kéo được sao? Nguyện như thế, nguyện ấy mới
đáng gọi là chí nguyện tha thiết.
Lòng tin sâu chắc, chí nguyện tha thiết gọi là tâm chú
trọng. Dùng tâm này tu Tịnh nghiệp thì Tịnh nghiệp rất mạnh mẽ, do tâm chú
trọng nên dễ thuần thục, do nghiệp mạnh mẽ nên dễ chín mùi. Khi Tịnh nghiệp Cực
Lạc thành thục, duyên nhiễm Ta Bà phải hết. Nếu duyên nhiễm đã hết, thì lúc lâm
chung dù có muốn cảnh luân hồi hiện ra cũng không được. Nếu Tịnh nghiệp đã
thành thục, lúc lâm chung tuy muốn cảnh Tịnh độ và Phật A Di Đà chẳng hiện cũng
không thể được. Nhưng Tín Nguyện này lúc bình thời phải rèn luyện cho thuần
thục, khi lâm chung mới khỏi lạc vào đường khác.
Biển cả Phật pháp nhờ lòng tin được vào. Một môn Tịnh
độ, lòng tin càng thiết yếu.
Thuở xưa, Vương Trọng Hồi hỏi Dương Vô Vi:
- Niệm Phật thế nào để được không gián đoạn?
Dương Vô Vi đáp:
- Sau khi đã tin không còn nghi nữa.
Vương Trọng Hồi vui vẻ rồi đi. Không bao lâu, Dương Vô
Vi chiêm bao thấy Vương Trọng Hồi cảm tạ rằng:
- Nhờ sự chỉ bảo của ông tôi được lợi ích lớn, nay đã
sinh về Tịnh độ rồi!
Một là: Thật vì sinh tử, phát tâm Bồ Đề, đó là con đường
chung của người học đạo.
Hai là: Lấy Tín Nguyện sâu, trì danh hiệu Phật làm chánh tông
của Tịnh độ.
Ba là: Dùng sự nhiếp tâm chuyên chú mà niệm, làm phương tiện
tu hành.
Bốn là: Lấy sự nhiếp phục phiền não hiện hành, làm việc chính
của sự tu tâm.
Năm là: Lấy sự giữ vững bốn giới trọng làm căn bản vào đạo.
Sáu là: Lấy mọi thứ khổ hạnh làm trợ duyên tiến đạo.
Bảy là: Lấy nhất tâm không loạn làm chỗ trở về của Tịnh hạnh.
Tám là: Lấy những điềm lành làm chứng nghiệm vãng sinh.
Tám việc này đều nên giảng nói tận tường. Người tu
Tịnh nghiệp không thể không biết.
Chấp trì danh hiệu là chăm chăm giữ lấy, gìn chặt
trong lòng không tạm thời quên lãng. Nếu vừa có một niệm gián đoạn, hoặc xen
tạp thì chẳng phải chấp trì. Mỗi niệm tiếp nối, không xen tạp, không gián đoạn,
là tinh tấn thật sự. Tinh tấn không ngừng thì lần lần vào chỗ nhất tâm không
loạn, thành tựu trọn vẹn Tịnh nghiệp. Nếu đến chỗ nhất tâm không loạn vẫn còn
tinh tấn không ngừng, ắt sẽ khai mở trí tuệ, phát khởi biện tài, được thần
thông, thành tựu Niệm Phật Tam muội, cho đến mọi thứ tướng lành linh ứng lạ kỳ
đều hiện tiền. Nhưng không thể đem lòng trông mong hiệu nghiệm, chỉ nên gắng
sức nơi nhất tâm không loạn mà thôi.
Ngay khi niệm Phật, nên buông bỏ muôn duyên, chỉ
chuyên nhất một niệm như cứu lửa cháy đầu, như an táng cha mẹ, như gà ấp trứng,
như rồng dưỡng châu, không mong hiệu quả nhỏ bé, chẳng mong cầu mau chóng thành
tựu, chỉ một lòng thường niệm như thế, đó gọi là môn Thiền thâm diệu vô thượng.
Thế thì căn thân thế giới, mỗi niệm thầm chuyển biến theo tâm mình, tâm phàm
mắt thịt chẳng thể thấy biết được. Đến lúc lâm chung, Phật A Di Đà cùng Thánh
chúng bỗng hiện ra trước mắt, hoặc hiện hương lạ nhạc trời, các thứ tướng lành.
Lúc ấy, người đời mới bảo rằng Tịnh nghiệp thành tựu, nhưng đâu phải lúc ấy mới
thành tựu Tịnh nghiệp!
Niệm Phật nên phát sinh bốn thứ tâm:
1. Phát sinh
tâm hổ thẹn, vì từ vô thỉ kiếp đến nay chúng ta đã tạo nhiều nghiệp chướng.
2. Phát sinh tâm vui thích, vì được nghe pháp môn này.
3. Phát tâm đau buồn, vì nghiệp chướng từ vô thỉ nên
khó gặp được pháp này.
4. Phát tâm cảm kích, vì Phật từ bi như thế.
Nếu có được một trong bốn thứ tâm này, Tịnh nghiệp
liền có thể thành tựu. Niệm Phật phải lâu dài, phải không gián đoạn, nếu gián
đoạn Tịnh nghiệp sẽ không thành tựu. Niệm Phật lâu dài nhưng phải mạnh mẽ,
không thể lười mỏi, nếu lười mỏi Tịnh nghiệp cũng không thể thành tựu. Lâu dài
mà không mạnh mẽ thì sẽ thối lui; mạnh mẽ mà không lâu dài thì không tiến bộ.
Ngay khi niệm Phật, không thể có tư tưởng khác, không
có tư tưởng khác tức là “Chỉ”. Ngay khi niệm Phật phải rõ ràng phân minh, hay
rõ ràng phân minh tức là “Quán”. Trong một niệm Chỉ Quán đầy đủ, chẳng phải có
pháp Chỉ Quán nào khác. Chỉ là nhân của định, định là quả của Chỉ. Quán là nhân
của tuệ, tuệ là quả của Quán. Một niệm không sinh, rõ ràng phân minh là lặng lẽ
mà sáng soi; rõ ràng phân minh, một niệm không sinh là sáng soi mà lặng lẽ.
Người được như thế, Tịnh nghiệp nhất định thành tựu. Người thành tựu như thế
đều là Thượng phẩm. Một người cho đến trăm ngàn muôn ức người, tu như thế đều
thành tựu như thế.
18. Trích
dẫn “Pháp vựng” của Đại sư Viên Anh:
Một câu danh hiệu Phật có đủ thần lực
chẳng thể nghĩ bàn, có thể trị tất cả tâm bệnh phiền não. Mỗi khi gặp nghịch
cảnh tâm sinh phiền não, liền kinh hành niệm Phật, bốn bước một câu Phật hiệu,
xoay vần qua lại niệm mấy vòng, dần dần cảm thấy cõi lòng mát mẻ, nóng bức tự
dứt. Có khi việc nhiều phiền nhiễu, đêm khuya không thể ngủ yên, cũng chuyên
xưng danh hiệu Phật, trải qua giây lâu thì thân tâm an định liền ngủ được,
không có chiêm bao. Khi chép kinh, một nét một câu Phật hiệu, tinh thần không
tản mác, vọng niệm không dấy khởi, viết lâu cũng không cảm thấy nhọc nhằn. Quả
như có thể tin một pháp niệm Phật này, chuyên tâm xưng niệm không có gián đoạn,
niệm đến chỗ tâm không cảnh lặng, tự nhiên phiền não không do đâu mà sinh khởi.
Kinh Lăng Nghiêm nói: “Thâu nhiếp tâm là Giới”. Niệm
Phật chính là phương pháp thâu nhiếp tâm, tức dùng chánh niệm của việc niệm
Phật làm dừng mọi vọng niệm đuổi theo cảnh duyên. Nếu vọng tâm đuổi theo duyên
sắc trần, liền chuyên niệm A Di Đà Phật, Tịnh niệm tiếp nối, tự nhiên không
theo sắc trần lưu chuyển, thâu nhiếp trở về chánh niệm niệm Phật. Khi tâm đuổi
theo các duyên thinh trần… mỗi mỗi đều thâu nhiếp trở về chánh niệm niệm Phật,
như thế tự nhiên không đến nỗi phá giới làm việc ác. Niệm Phật, niệm đến chỗ
mỗi niệm tương ưng với Phật, các vọng niệm đương nhiên chẳng khởi, ý nghiệp
liền thanh tịnh, mọi giới luật tự nhiên đầy đủ. Hai nghiệp thân và miệng cũng
do ý nghiệp sinh khởi, ý nghiệp không nghĩ tưởng làm việc sát sinh, trộm cắp,
tà dâm, không nghĩ tưởng nói lời dối trá, thêu dệt, hung ác, hai chiều thì thân
và miệng tự nhiên không dẫn đến việc phạm giới. Thế nên, niệm Phật là pháp môn
Tịnh nghiệp, niệm một danh hiệu Phật liền có thể làm cho ba nghiệp thanh tịnh,
đó là sự minh chứng niệm Phật đầy đủ Giới học.
19. Trích
dẫn “Khai thị lục” của Đại sư Quảng Khâm:
Chúng ta đã nghe Phật pháp, phải tin sâu có thế giới
Cực Lạc ở phương Tây, có đức Phật A Di Đà đại từ đại bi. Phật A Di Đà phát 48
đại nguyện, chỉ cần niệm danh hiệu thì Ngài liền tiếp dẫn chúng ta đến Tây
Phương. Ngài có nguyện ấy, chúng ta cũng phải có nguyện vãng sinh Tây Phương
ấy. Đầy đủ Tín Nguyện Hạnh, tùy thời niệm Phật. Lúc sắp mạng chung, chúng ta có
chánh niệm, có thể niệm Phật, Phật A Di Đà liền đến tiếp dẫn. Nếu còn nhớ nghĩ
đến một cây kim cọng cỏ nào của thế giới Ta Bà thì phải bị luân hồi trở lại.
Niệm Phật cũng không phải là đơn giản, cần phải buông
bỏ toàn thân, các thứ phiền nhiễu trong ngoài đều phải vất bỏ, nhất tâm thanh
tịnh xưng danh hiệu Phật, sau đó mới có thể tương ưng. Nếu hay đem một câu sáu
chữ Hồng danh niệm rõ ràng rành rẽ, nghe rõ ràng rành rẽ, chẳng có mảy may nghi
ngờ, những tạp niệm khác tự nhiên tiêu trừ, quyết định sẽ chứng được nhất tâm
không loạn. Nếu mọi người tin lời tôi, chân thật niệm Phật, đi đứng nằm ngồi
chẳng lìa Phật hiệu, thậm chí trong chiêm bao cũng giữ vững được, đem một câu
Phật hiệu thận trọng ghi nhớ nơi lòng, chẳng bị lục căn trần cảnh xâm phạm và
quấy nhiễu. Đến chỗ đó tự nhiên tâm không tham luyến, ý chẳng điên đảo, đợi đến
khi công phu thuần thục, thế giới Tây Phương Cực Lạc tự nhiên hiện tiền. Quyết
không thể lơ là xem thường!
Khi niệm Phật, nếu có tâm tán loạn, biện pháp duy nhất
là niệm liên tục, đem toàn bộ tinh thần trụ vào sáu chữ Hồng danh là được.
20. Những lời khai thị về Pháp môn niệm Phật của
Pháp Nhiên Thượng Nhân trích trong cuốn “Niệm Phật Tông Yếu”:
Ngài nói: “ Nam Mô A Di Đà Phật, các hạnh vãng sanh,
niệm Phật là đệ nhất”.
Sau đó Ngài dạy liên tiếp những điều sau:
1. Thánh Đạo Môn tuy thâm diệu, nhưng thời điểm và căn
cơ chẳng tương ứng. Tịnh Độ Môn hình như là nông cạn, nhưng thời điểm và căn cơ
đều tương ứng. Thời Mạt Pháp một vạn năm, các kinh điển khác đều tiêu diệt, chỉ
còn pháp môn niệm Phật A Di Đà để cứu độ chúng sanh.
2. Tông Tịnh Độ siêu hơn các tông. Hạnh Niệm Phật siêu
hơn các hạnh. Bởi vì thâu nhiếp tất cả các cơ vậy.
3. Chẳng luận có tội hay vô tội, chẳng kể là trì giới
hay phá giới, nếu căn cứ vào thời điểm và căn cơ thì chỉ có pháp môn Tịnh Độ
(Hạnh Niệm Phật) là yếu pháp để thoát khỏi sinh tử trong đời này.
4. Để đời này thoát khỏi sinh tử, không gì hơn vãng
sinh Tịnh Độ. Để được vãng sinh Tịnh Độ, không gì hơn Niệm Phật.
5. Tu Niệm Phật để cầu vãng sinh Tịnh Độ, thì tương
ứng với tâm của Đức Thích Ca, Đức A Di Đà. Tu các hạnh khác để cầu vãng sanh
Tịnh Độ thì mâu thuẫn với tâm của Đức Thích Ca, Đức A Di Đà.
6. Để được vãng sinh cõi Cực Lạc, thì dù diệu hạnh gì
chăng nữa cũng không hơn niệm Phật. Vì sao thế? Vì niệm Phật là hạnh tương ưng
với Bổn Nguyện của Đức Phật A Di Đà vậy.
7. Ngoài niệm Phật, tất cả hạnh khác đều chẳng tương
ưng với Bổn Nguyện của Đức Phật A Di Đà. Bởi vậy, tuy là diệu hạnh cũng không
bằng niệm Phật. Muốn được sinh sang cõi nước đó, nên thuận theo Bổn Nguyện của
Đức Phật A Di Đà.
8. Niệm Phật là hạnh tương ưng với Bổn Nguyện của Đức
Phật A Di Đà, nên mười phương hằng sa chư Phật đều chứng thành. Các hạnh khác
chẳng tương ưng Bổn Nguyện, nên chư Phật chẳng chứng thành. Bởi thế nên thường
niệm Phật để mười phương chư Phật hộ niệm.
9. Kinh QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ chép rằng: “Quang minh soi
chiếu khắp mười phương thế giới, thâu nhiếp không rời các chúng sinh niệm
Phật”. Quang minh của Đức A Di Đà chỉ soi chiếu người niệm Phật, chẳng soi
chiếu người tu các hạnh khác. Bởi thế người cầu sinh sang cõi Cực Lạc phải biết
Niệm Phật là trọng yếu.
10. Bổn Nguyện thâm trọng sau năm kiếp tư duy chép
trong kinh PHẬT THUYẾT VÔ LƯỢNG THỌ là: “Chẳng kể thiện hay ác, chẳng quản trì
giới hay phá giới, chẳng tính tại gia hay xuất gia, chẳng luận có trí hay không
có trí. Chỉ pháp Đại Bi Bình Đẳng, nay đã thành Phật ”. Trụ vào cái Tâm Tha Lực
(nguyện lực của Đức A Di Đà) mà Niệm Phật thì chỉ trong khoảnh khắc, đã được dự
vào sự nhiếp thọ của Đức Phật A Di Đà.
11. Niệm Phật không có hình thức. Ngoài việc xưng Danh
hiệu, không có hình thức gì cả.
12. Niệm Phật hoàn toàn không có hình thức. Chỉ cần
biết rằng: “Hễ xưng Danh hiệu Đức Phật A Di Đà thì được sinh sang cõi Cực Lạc
”, do đó chí tâm niệm Phật để cầu vãng sinh.
13. Niệm Phật lấy không hình thức làm hình thức. Chỉ
biết rằng thường niệm Phật thì đến lúc lâm chung nhất định Phật lai nghinh mà
vãng sinh sang cõi Cực Lạc.
14. Vấn đề niệm Phật tuy có nhiều ý nghĩa, nhưng xưng
Lục Tự Hồng Danh ( NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT ) thì đã bao hàm tất cả.
15. Niệm Phật chẳng phải là quán Pháp Thân Phật, chẳng
phải là quán tướng hảo của Phật. Chỉ một lòng chuyên xưng danh hiệu Đức A Di
Đà, đó là niệm Phật.
16. Chỉ biết rằng: “Bổn Nguyện của Đức A Di Đà chẳng
hư dối, hễ xưng niệm danh hiệu của Ngài thì nhất định được vãng sinh”. Ngoài ra
không cần nghĩ gì khác.
17. Tất cả căn cơ cứ tùy theo thiên tính mà niệm Phật
để vãng sinh. Cái thân hiện nay do túc nghiệp đời trước mà có, nên trong đời
này không thể thay đổi. Như người nữ mà muốn đổi thành người nam trong đời này
thì không thể được.
Cứ tùy theo thiên tính mà niệm Phật. Người trí thì lấy
trí mà niệm Phật vãng sinh. Người ngu thì dùng ngu mà niệm Phật vãng sinh. Có
đạo tâm cũng niệm Phật vãng sinh. Không đạo tâm cũng niệm Phật vãng sinh. Người
có tà kiến cũng niệm Phật vãng sinh.
Hàng phú quý, hạng bần cùng, người tham lam, kẻ tánh
nóng, bậc có từ bi, hạng không có từ bi, do BỔN NGUYỆN KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN CỦA
ĐỨC A DI ĐÀ, hễ niệm Phật thì đều được vãng sinh.
21.Trích dẫn
“Long thơ tịnh độ văn” của Cư sĩ Vương Nhật Hưu:
Bồ Tát Thường Bất Kinh nói: “Ta chẳng dám khinh các
Ngài, các Ngài đều sẽ thành Phật”.
Thế là mọi người đều có thể trở thành Thánh Hiền, có
thể thành Phật. Pháp môn niệm Phật là con đường trọng yếu thẳng tắt, không ai
không tu được. Thế nên, khuyên khắp mọi người tu trì. Bài kệ Khuyên Tu Tây
Phương, Bồ Tát Đại Từ nói:
“Khuyên
đặng hai người tu, sánh bằng mình tinh tấn.
Khuyên
đặng hơn mười người, phước đức đã vô lượng.
Bằng
khuyên trăm nghìn người, gọi là chơn Bồ Tát.
Lại
khuyên hơn số vạn, tức là A Di Đà”.
Xem đây thời biết, thuyết Tây Phương đâu không làm cho
tâm mình rộng lớn, giúp cho mọi người cùng biết pháp môn này để tích lũy vô
lượng phước báo hay sao?
Phàm những bậc có ân đức với ta như thầy bạn, cha mẹ,
thậm chí tôi tớ, thảy đều khuyên bảo tu Tịnh độ để đáp đền. Tất cả loài có tri
giác cùng không tri giác, có tình thức cùng không tình thức, ta đều muốn đem
pháp này giáo hóa, khiến cùng vãng sinh Tịnh độ. Tất cả loài phi cầm tẩu thú,
dưới đến loài bò bay máy cựa, hễ có hình tướng thấy được ta đều nên vì chúng
niệm Phật vài câu, phát nguyện lành rằng: “Nguyện các ngươi đều sinh về thế
giới Cực Lạc, sau khi ta đắc đạo sẽ độ hết các ngươi”. Đối với những loài không
thể thấy hình tướng, cũng nên phát nguyện lành ấy. Như thế thì niệm lành thuần
thục, đối với tất cả chúng sinh đều là có duyên, ắt được Thượng phẩm Thượng
sinh, sau này hóa độ, ai cũng vui theo.
Trai Tăng, cúng Phật, dâng hương, hiến hoa, treo phan,
xây tháp, niệm Phật, lễ sám, mọi việc phụng sự Tam Bảo, đem công đức này hồi
hướng nguyện sinh Tây Phương đều được. Hoặc làm mọi phương tiện việc lành lợi
ích trong thế gian, hoặc hiếu dưỡng cha mẹ, thương mến anh em, tông tộc thuận
hòa. Hương thôn xóm làng, thân nhơn quyến thuộc, tiếp với nhau bằng lễ nghĩa,
làm việc ơn nghĩa cho nhau. Cho đến kẻ thờ Vua thời hết lòng vì nước, kẻ làm
quan thời nhơn từ lợi dân. Làm người lớn thời khéo điều hòa trong chúng. Làm
bực hạ, thời khéo thờ bề trên. Hoặc dạy bảo kẻ ngu mê; hoặc giúp đỡ kẻ côi cút,
yếu đuối; hoặc giúp người cấp nạn; hoặc cho kẻ bần cùng; hoặc sửa cầu, đào
giếng; hoặc tặng thuốc, cho cơm; hoặc bớt phần mình, nuôi kẻ thiếu lợi ích tha
nhơn; hoặc chia của lợi người mà phần mình bớt ít; hoặc dạy người làm phải; hoặc
khen ngợi việc lành, cản ngăn điều dữ. Tùy sức, tùy trường hợp làm tất cả việc
lành, lấy công đức đây mà hồi hướng, nguyện sinh Tây Phương cũng đặng.
Hoặc vì trong thế gian, làm tất cả việc lợi ích, chẳng
luận là lớn hay nhỏ, chẳng luận là nhiều hay ít. Hoặc lấy một đồng tiền cho
người, hoặc bưng một bát nước cho người, nhẫn đến lượm một cây gai giữa đường
cũng là việc thiện. Ta nên khởi một niệm tưởng rằng: đem duyên lành này, hồi
hướng cầu sinh về Tây Phương Cực Lạc. Thường khiến tâm giữ một niệm như vậy,
đừng cho gián đoạn, mỗi niệm mỗi niệm chí thú nơi cõi Cực Lạc, quyết định một
ngày kia được sinh về Thượng phẩm Thượng sinh.
Người tu Tịnh độ nên tùy trường hợp ra công làm lành,
để giúp sự tu hành mau tiến triển.
Chư Tăng phải tu Tịnh độ, mau khỏi luân hồi, gặp Phật
Di Đà, mới là xong việc của người xuất gia. Phàm thọ nhận người ta một đồng
tiền, hộ ta một bữa ăn, ta đều sẽ vì kia mà giảng nói pháp môn Tịnh độ này để
đáp đền ân đức. Dù không tin cũng khiến cho họ biết, nghe quen lần rồi tự tin, thường
khuyến hóa người khác như thế, hiện đời được người kính nể, đời sau chắc chắn
sinh lên Thượng phẩm.
Kẻ sĩ chuyên cần nơi học vấn, dốc lòng hiếu thuận, xa
nghĩ về tổ tiên của ta đến nay có mấy người còn sống, nên lưu tâm nơi đạo này.
Quan lại tu phước, làm mọi việc phương tiện thương
người lợi vật, dùng đó hồi hướng Tây Phương, thoát khỏi luân hồi, thọ mạng và
an vui vô cùng.
Người giàu sang
phải tùy phận làm ăn nuôi sống, bớt chút ít giúp người, không keo kiệt đối với
tiền của là thiện, tham lam tiền của là ác. Nên nghĩ phước thế gian có ngày
hết, nếu đem hồi hướng Tây Phương thì vô tận.
Người nhiều khó khăn vất vả, chớ oán trời, chớ trách
người, nên siêng năng sám hối, thường niệm Phật để tiêu trừ nghiệp chướng cũ,
tăng trưởng duyên lành. Nếu có thể dạy người và bảo người thay nhau khuyến hóa,
hiện đời tiêu trừ tai nạn được phước, đời sau ắt được sinh lên phẩm Thượng của
bậc Trung.
Người làm nghề nông và buôn bán đều nên tự nghĩ, việc
cày ruộng cuốc đất sao tránh khỏi sát hại các loại vật mạng vi tế, chẳng phải
là ít; nghề buôn bán sao tránh khỏi sự dối trá chút ít, nên khéo léo gìn lòng
giữ cho vẹn toàn, nhưng biết sám hối là tốt.
Người thợ khi làm việc, chớ quá mong cầu tài vật tiền
của, làm việc cho hết lòng, nên thường niệm Phật, nguyện sau khi thấy Phật được
đạo, trước sẽ độ tất cả những chúng sinh đã bị mình sát hại từ trước đến nay và
những người đã từng qua lại, kế đó độ kẻ oán người thân và chúng sinh hữu duyên
vô duyên. Như thế, mỗi niệm chẳng dứt, niệm tự thuần thục, quyết định được vãng
sinh Cực Lạc. Nếu dạy bảo người và khiến người rộng khuyến hóa, thời hiện đời
đặng phước, thân đời sau ắt sinh lên phẩm Thượng bậc Trung vậy.
Người chài lưới, đi săn, đồ tể, làm bếp, mở tiệm ăn,
đều nên tự nghĩ: cá, tôm, cầm thú cùng có tánh mạng, ta nay sát hại mắc tội vô
lượng. Nếu có thể đổi nghề thì tốt nhất, nếu chưa có thể nhanh chóng sửa đổi
thì phải giảm bớt. Vả lại, đừng sát hại những con vật nhỏ mạng nhiều, và các
loài ốc, sò, ba ba, lươn, những vật khó chết ấy. Thường niệm Phật sám
hối, phát đại nguyện rằng: “Nguyện sau khi ta thấy Phật đắc đạo rồi, độ hết tất
cả những vật mạng bị ta giết hại ăn dùng, từ trước đến giờ đều sinh về Tịnh
độ”. Niệm niệm không dứt, niệm tự thuần thục, cũng được sinh về thế giới Cực
Lạc. Nếu đem pháp này dạy người và khiến người truyền bá rộng ra, thì hiện đời
cũng có thể tiêu tai diệt tội, thân sau đâu chỉ ở phẩm Hạ của bậc Hạ vậy.
Người ở chốn phong trần phải tỉnh ngộ đoạn trừ dâm
nghiệp, bằng chưa đoạn liền nên thường niệm Phật phát lời đại nguyện rằng:
“Nguyện ta nghiệp ác lần tiêu, nghiệp lành mỗi ngày thêm lớn. Áo cơm vừa đủ,
sớm bỏ nghề này. Sau khi ta thấy Phật đắc đạo rồi, độ hết tất cả người nhân ta
mà làm nghiệp dâm, đều được sinh về Tịnh độ”.
Người tội ác, bệnh khổ phải gấp sám hối, hồi tâm niệm
Phật, thệ nguyện không làm ác sát sinh nữa, không não hại tất cả chúng sinh
nữa, nguyện đời này sớm lìa bệnh khổ, sau khi thấy Phật được đạo, độ hết tất cả
chúng sinh bị ta sát hại trong đời này và đời trước, tất cả kẻ oán người thân
đều sinh về Tịnh độ. Niệm niệm không dứt, niệm tự thuần thục, nhất định vãng
sinh cõi Cực Lạc. Nếu đem pháp này chỉ dạy mọi người, khiến người thay nhau
khuyến hóa, thì hiện đời có thể diệt trừ tai nạn tội lỗi, bệnh khổ nhất định
được lành, phước báo vô cùng, đời sau ắt vãng sinh về cõi Cực Lạc.
22. Trích
dẫn “Tịnh độ thặng ngôn” của Cư sĩ Quang Vĩ:
Miệng niệm danh hiệu Phật, mắt nhìn
tượng Phật, tai nghe tiếng niệm Phật, âm thanh từ lưỡi phát ra, thiền vị thấm
nhuần vui thích nơi lòng, mũi nghe mùi hương, bỏ sáu trở về một làm sao loạn
được! Nay ta niệm Phật là một phương tiện, tự xem tâm này như cái bình báu
trong sạch, hiệu Phật như hạt gạo, từng chữ từng câu như bỏ gạo vào bình, lần
lượt bỏ vào, gạo đã vô tận, bình cũng không đầy, không để hạt nào rơi rớt ngoài
bình. Lại nghĩ bình này đường kính không đầy một tấc, bên trong chứa đựng Tam
thiên Đại thiên thế giới, trăm ức vi trần số Phật, Tam thập lục vạn ức nhất
thập nhất vạn cửu thiên ngũ bá đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật an trụ trong
ấy, ta cũng cùng với các Ngài hội tụ một nơi, dạo chơi an nghỉ, mới là chỗ an
thân lập mạng của ta.
Tôi trước nay niệm Phật, chỉ niệm một cách mơ hồ. Nay
mới biết mỗi chữ từ trong tâm phát ra, mỗi chữ lại trở về tâm. Khi niệm Phật,
trước phải nhắm mắt ngồi ngay thẳng, ngưng thần định tĩnh, không thể có mảy may
tâm tạp loạn, xao động, ganh đua, tâm mờ tối biếng nhác.
Niệm ra tiếng, cốt yếu khiến cho tiếng phát ra từ tâm,
tâm nhờ miệng truyền, hơi thở và tiếng niệm điều hòa, không chậm không mau, mỗi
chữ rõ ràng, mỗi câu tiếp nối, phân ra thì một chữ có thể làm một câu, xuyên
suốt thì trăm ngàn câu như một câu, miên mật khít khao, từ một tiếng cho đến
ngàn muôn tiếng, từ một khắc cho đến 24 giờ, không dứt không nối, không thiếu
không xót, lâu dần thuần thục, hoa nở thấy Phật, đến thời tự thấy hiệu nghiệm
23. Trích
dẫn “Khuyến tu tịnh độ thiết yếu” của Cư sĩ Chân Ích Nguyện:
Niệm Phật chính là phải ở chỗ ồn náo để
rèn luyện, chẳng câu nệ đi đứng nằm ngồi. Ở nơi huyên náo có thể nhất tâm không
loạn, một tiếng niệm Phật ấy còn hơn niệm nhiều tiếng ở nơi yên tịnh. Đó gọi là
“tâm tịnh thì cõi nước thanh tịnh”.
Trọn ngày tuy bận rộn, lẽ nào lại không có một chút
thời giờ rảnh rỗi? Sao không bớt thời gian uống trà, nói chuyện phiếm, để thâu
nhiếp tâm tư mà niệm Phật? Người nhọc nhằn về tâm tư có thể nhờ đây để dưỡng
tâm; người nhọc nhằn về sức lực cũng có thể nhờ danh hiệu Phật tích chứa sức
mạnh. Việc ấy có lợi ích không tổn hại, còn có điều nào hơn đây nữa?
Phải nên gấp rút khẩn thiết chân thật, phát khởi sức
lực dũng mãnh, duyên đời có thể buông bỏ thì buông bỏ, mạng người vô thường
quyết đừng lưu luyến mà tự làm lầm mình. Dù có điều chưa có thể buông bỏ cũng
chẳng ngại ông niệm Phật. Ví như có một việc khẩn thiết ở nơi lòng, tuy làm
việc khác nhưng vẫn không sao quên được. Có thể niệm Phật như thế tự nhiên không
có tạp niệm, cũng không đến nỗi một ngày nóng mười ngày lạnh. Còn có người tâm
chân thật khẩn thiết, do thuở xưa nghiệp nặng nên bị ma nhiễu loạn. Có ma bên
trong, ma bên ngoài. Ma bên trong là trong tâm khi tỉnh lúc mê, tất cả tham sân
si ái, tâm này vừa lìa thì tâm kia lại khởi. Ma bên ngoài là gặp cảnh khó khăn
đủ mọi chướng duyên, bức hại thân tâm, chẳng được an ổn, liền đối trước Phật
phát nguyện, siêng năng cầu sám hối. Song, quan trọng ở chỗ tâm niệm Phật chẳng
do ma sự mà thối lui, mặc cho mọi thứ chướng duyên, một câu Phật hiệu này quyết
chẳng rời tâm ta. Sức ma tuy mạnh, dựa vào Vạn đức Hồng danh này chống cự với
nó, chẳng tính lợi hại sống chết chỉ lo chuyên niệm, thề không thối lui, lâu
ngày dài tháng tất được lòng từ bi của Phật âm thầm trợ giúp, chướng duyên tiêu
tan, Tịnh duyên thành tựu. Phật chẳng phụ lòng người, ắt làm mãn nguyện chúng
sinh.
Phương pháp niệm Phật quý ở chỗ đóng cửa âm thầm tu
trì. Không luận là ngồi xếp bằng hay kinh hành niệm, trì thầm hay niệm ra
tiếng, đều phải nhất tâm nắm chặt danh hiệu Phật, mỗi chữ mỗi chữ rõ ràng, vừa
cảm thấy lờ mờ liền gấp rút đề khởi sự tỉnh giác soi chiếu. Hoặc rơi vào vô ký,
hoặc sa vào vọng tưởng, luôn luôn tỉnh giác, luôn luôn đề khởi, đem một câu
Phật hiệu này huân vào áp bức ý căn, đoạn dứt hôn trầm tạp niệm, đó là con
đường chân chánh của pháp niệm Phật. Không thể quá gấp, gấp thì khó được lâu
dài; không thể quá hưỡn, trì hưỡn thì dễ rời rạc. Lại không thể trông mong nhập
định, hoàn toàn chẳng để khởi ý niệm.
Nếu buông bỏ không niệm nơi miệng rất dễ rơi vào chỗ
hôn trầm nhẹ. Bởi vì niệm Phật quan trọng ở nơi nhất tâm không loạn, lúc lâm
chung hoàn toàn nhờ vào niệm này vào thẳng thai sen. Đến khi đạt đến chỗ nhất
tâm cùng cực, chẳng mong Thiền định hiện tiền cũng tự hiện, đây là khi công phu
thuần thục, hoàn toàn khác xa với người buông bỏ không niệm nơi miệng rơi vào
chỗ hôn trầm nhẹ.
Còn như Thể cứu, niệm tức vô niệm thì không ngại vô
niệm mà niệm. Một niệm này tức là Tam đế: Không, Giả, Trung; tức là bốn pháp
giới Sự Lý; tức là hai môn quán Duy thức, Duy tâm; tức là tâm mầu nhiệm Niết
Bàn, Thật tướng Vô tướng. Đó chính là pháp niệm Lý nhất tâm của bậc thượng căn,
nhưng cũng không rời nhất tâm nắm chặt câu Phật hiệu, mỗi chữ mỗi chữ rõ ràng
mà niệm. Đây là điều trọng yếu của phép tắc Trì danh nơi chánh hạnh.
Lại
cần phải tu rộng rãi về trợ hạnh:
1. Lễ
kính Tam Bảo:
Năm
vóc chuyên cần, tu rộng rãi về sự cúng dường, đó là việc bổn phận của người tu
hành.
Người đời niệm
Phật phần nhiều lười biếng, không chỉ hằng ngày chẳng thường lễ bái, thậm chí
gặp Phật cũng không lạy, còn như tất cả sự cúng dường phần nhiều thiếu sót. Lý
do chẳng qua là vì miệng niệm thì dễ, thân lễ bái thì khó; nói suông thì dễ, ra
sức thực hành thì khó. Chẳng biết rằng, việc khó làm có thể làm được, điều đó
mới đáng quý.
Tuy nói tu hành ở bên trong chẳng phải ở bên ngoài,
nhưng dáng vẻ cung kính ở bên ngoài cũng không thể thiếu. Vả lại, ở ngay nơi
bên ngoài có thể chứng tỏ ở bên trong, cho nên người xưa nói: “Người tu hành
chân thật, xem hình vẽ, tượng gỗ đồng với Phật thật. Thương như cha mẹ, kính
như quân vương, sớm chiều yết kiến, hết lòng thành kính, lạy xuống như núi đổ,
đứng dậy tợ mây thăng, ra thì chấp tay vái chào. Người mà chấp tay vái chào thì
dù xa trăm ngàn dặm cũng như thường ở trước mặt”.
Khi ăn lúc uống, trước phải nên cúng dường. Trong Văn
Long Thơ Tịnh Độ nói: “Cúng Phật, trai Tăng, dâng hương, hiến hoa, treo phan,
xây tháp, các việc sùng phụng Tam Bảo đều có thể hồi hướng Tây Phương”. Huống
gì người cầu vãng sinh Tịnh độ, đã là đệ tử Tam Bảo, nếu không kính trọng Tam
Bảo thì tâm cầu vãng sinh ấy ắt không chân thật khẩn thiết. Thế nên mọi người
phải dốc hết tâm lực quyết đừng lười biếng lơ là!
2. Sám
hối nghiệp chướng:
Sám
là ăn năn lỗi đã qua, hối là chừa bỏ những lỗi lầm về sau. Người tu hành lấy
sám hối làm chính yếu. Bồ Tát Phổ Hiền còn có lời nguyện về sám hối, huống gì
kẻ phàm phu.
Do từ vô lượng kiếp đến nay, ba nghiệp thân miệng ý
gây ra những lỗi lầm sâu nặng, đều có thể trở thành nhiều sự chướng ngại nên
gọi là nghiệp chướng. Nếu không sám hối, nghiệp chướng không tiêu trừ, ví như
áo nhơ cần phải giặt giũ, ví như gương dính bụi cần phải lau chùi. Nhơ hết áo
sạch, bụi hết gương sáng, nghiệp chướng không còn thân tâm thanh tịnh.
3. Ngăn
ác làm lành:
Trong
Văn Long Thơ Tịnh Độ nói: “Trì trai giới hoàn toàn, lại lễ Phật niệm Phật, đọc
tụng kinh điển Đại thừa, hiểu Đệ nhất nghĩa, lấy đó hồi hướng Tây Phương tất
lên Thượng phẩm Thượng sinh”
Nói “Trai” nghĩa là không ăn thịt, không uống rượu,
không ăn ngũ tân.
Nói “Giới” nghĩa là không sát sinh, trộm cướp, tà dâm tức là ba nghiệp của thân; nói dối, nói lời thêu dệt, nói lưỡi đôi chiều, nói lời hung ác là bốn nghiệp của miệng; tham dục, sân hận, tà kiến là ba nghiệp của ý. Có thể giữ gìn không phạm đó là mười điều lành, nếu phạm không giữ gìn đó là mười điều ác.
Nói “Giới” nghĩa là không sát sinh, trộm cướp, tà dâm tức là ba nghiệp của thân; nói dối, nói lời thêu dệt, nói lưỡi đôi chiều, nói lời hung ác là bốn nghiệp của miệng; tham dục, sân hận, tà kiến là ba nghiệp của ý. Có thể giữ gìn không phạm đó là mười điều lành, nếu phạm không giữ gìn đó là mười điều ác.
Giữ bốn giới trước, thêm giới không uống rượu, đó là
năm giới. Người giữ năm giới mà tu Tịnh độ cũng không mất phần vãng sinh Trung
phẩm. Nếu không thể giữ năm giới thì phải giữ gìn giới sát. Sát sinh là điều
đứng đầu trong năm giới. Không sát sinh là đại thiện, sát sinh là đại ác. Đại
sư Liên Trì nói: “Xin khuyên người đời, đã là niệm Phật thì phải y theo lời
Phật dạy, phải tích đức tu phước, phải hiếu thuận với cha mẹ, phải trung thành
phụng sự quân vương, anh em phải yêu thương lẫn nhau, vợ chồng phải quý kính
nhau. Phải chí thành thật thà giữ chữ tín, phải nhu hòa nhẫn nhục, phải công
bình chánh trực, phải khéo vun bồi âm đức, phải từ bi thương xót tất cả, không
sát hại sinh mạng, không lăng nhục người dưới, không áp bức dân thường. Nếu có
tâm không tốt sinh khởi liền gắng sức niệm Phật, nhất định phải niệm cho thối
lui tâm không tốt này. Như thế, mới là người niệm Phật chân chánh, nhất định
được vãng sinh”.
4. Cắt bỏ
tình ái:
Người đời đối với người cốt nhục phần nhiều thường ái
luyến. Lại xem tài sản như tánh mạng, cũng đều tham đắm không quên.
Lòng trược thế bên đây nặng nề, tâm Tịnh độ bên kia tự
nhiên nhẹ bổng. Đến lúc mạng chung, thần thức ắt đi về chỗ nặng. Ví như một cây
to nghiêng nặng về bên nào, sau này lúc ngã đỗ sẽ tự nhiên ngã đỗ về bên ấy. Đó
là lẽ tất nhiên.
Từ trước đến nay, vợ con cốt nhục đều là có duyên tụ
hội, duyên hết ly tan. Sau khi ly tan, người này và kẻ kia đều không nhận ra
nhau. Như ông từ nhiều đời đến nay, vợ con cốt nhục không ít, nhưng hiện giờ ở
đâu? Ông vẫn còn thương yêu họ chăng? Nghĩ đến đây không thể không lạnh nhạt.
Trong đó, lại có duyên ác tụ hội, quyến thuộc tức là oan gia, bất giác âm thầm
bị hại, đâu không phải là thương yêu sai lầm rồi sao? Còn như các thứ tài sản
và mọi điều ham thích chớp mắt đều trở thành không, càng phải nên nhìn thấu
đáo.
5. Cởi mở
oan kết:
Phàm oán thù chưa kết không nên kết, như các việc sát
sinh, trộm cướp, tà dâm, và lòng tham lam sân hận đều là nhân kết thành oán
thù. Có thể cấm ngăn thì không kết, không kết thì không có oán thù, còn đã kết
thì nên cởi mở.
Nếu như quyến thuộc trở thành oán thù, người ngoài
bỗng nhiên chống đối mình, cho đến chó cắn rắn mổ chẳng phải là không có nguyên
nhân, đều do oan trái đời trước, cần phải hoan hỉ chịu đựng cởi mở với chúng.
Quyết không thể bên kia qua bên đây lại, càng kết càng sâu.
Tuy Tịnh độ là pháp môn vượt thoát theo chiều ngang,
nhưng nếu có thể quyết tâm cầu vãng sinh thì dù cho kẻ oán thù lớn nhất cũng
không thể ngăn trở ta vãng sinh. Nhưng cứu xét kỹ, chẳng bằng sớm nên cởi mở
thì sẽ cảm thấy tâm không ngăn ngại.
Lại phải biết từ nhiều đời nhiều kiếp đến nay, oán thù
không ít, nhân duyên chưa gặp, đâu thể mỗi mỗi đều cởi mở được hết. Cần phải
nhờ vào sự phát nguyện ở trước Phật, nguyện dùng công đức niệm Phật này làm lợi
ích khắp cả oan gia oán thù. Nếu khi ta thành Phật thì độ những chúng sinh này
trước. Dùng tâm từ bi tiêu trừ lòng oán hận cũ của những người kia, lại thêm
nguyện lực thì thật có lợi ích, tự nhiên hóa hận thù thành ân đức.
6. Gắng
sức mạnh mẽ:
Hiện
nay, người tu Tịnh độ cũng có người chẳng bằng ta, cũng có người hơn ta. Người
không bằng ta quyết không nên so sánh với họ, nói ta hơn họ như thế không có
tiến bộ. Cần phải so sánh với người hơn ta, nghĩ rằng ta với họ cùng niệm Phật
như nhau, tại sao họ tinh tấn? Tại sao ta lười biếng? Vì sao họ chuyên nhất? Vì
sao ta lại tán loạn? Kia đã trượng phu ta đây cũng vậy. Nếu không gắng sức mạnh
mẽ, mắt nhìn họ đã vượt lên Cực Lạc, còn ta vẫn như cũ nổi chìm trong biển khổ.
Hiện nay gọi là đạo hữu bạn bè, nói cười thân thiết,
nhưng chớp mắt đã phân chia Thánh phàm, cách xa như trời với vực. Lẽ nào lại
chẳng hổ thẹn sao? Lẽ nào lại chẳng đau xót sao? Suy xét như thế, tự nhiên mạnh
mẽ tiến tới, một đời giải quyết xong xuôi, không đợi đến đời sau.
Người tu hiện nay, có kẻ phát nguyện đời sau tiếp tục
tu hành. Theo họ nói, tự lường xét đời nay công hạnh cạn mỏng, đời sau gia thêm
công hạnh nữa mới mong thành tựu. Như thế thật là rất sai lầm! Trong kinh nói:
“Một khi mất thân người, muôn kiếp khó được lại”, dù cho được thân người nhưng
có thể bảo đảm còn biết tu hành chăng?
Lại theo họ nói, đời nay phát nguyện, nhờ vào nguyện
lực này đời sau quyết định biết tu hành. Điều này lại sai lầm nữa! Đã phát
nguyện đắc lực như thế, sao không phát nguyện hiện đời liền vãng sinh Tịnh độ,
tự nhiên ắt được vãng sinh, cần gì phải đợi đến đời sau. Hơn nữa, đời này ông
không cầu vãng sinh, đời sau lại có thể cầu vãng sinh chăng? Chẳng may, đời sau
gặp chướng duyên khác không còn tu hành, như thế không chỉ chẳng thể vãng sinh
mà cũng khó bảo đảm được không mất thân người. Cho nên, người xưa nói:
“Thân này
chẳng chịu đời nay độ,
Lại đợi
đời nào độ thân này”.
Người niệm Phật quyết phải lập chí vững chắc, xem hiện
cư trú nơi Ta Bà như người khách ở tạm, lại phải xem mình là người nơi Tịnh độ,
phẩm bậc cao siêu biết chừng nào! Như thế, tự nhiên miên mật tinh tấn đến lúc
chứng quả mới thôi. Đây là một pháp rất thiết yếu của sự vãng sinh Tịnh độ.
Lược nói như thế về sáu trợ hạnh trên, nếu nói rộng ra
thì có vạn hạnh, đều ở nơi tâm khiêm tốn mong cầu lợi ích của mọi người, thật
sự gắng sức đảm đang. Phàm là những việc có trợ giúp cho Tịnh duyên đều siêng
năng làm là được rồi!
24. Trích
dẫn “Phật học thiển thuyết” của Cư sĩ Vương Bác Khiêm:
Pháp môn Tịnh độ lấy ba pháp Tín Nguyện
Hạnh làm tông. Ba điều trọng yếu này, thiếu một tất không được.
Sao gọi
là Tín?
Tín
là cửa bước vào đạo. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, là mẹ sinh
ra các công đức”, nếu không tin sao có thể tu hành? Nếu lòng tin không sâu,
nhất định tu không đắc lực. Cho nên, người niệm Phật: một là, phải tin lời Phật
Bổn Sư chỉ dạy chúng ta niệm Phật quyết không sai. Hai là, phải tin nguyện lớn
của Phật A Di Đà, ta nếu niệm Phật, Ngài nhất định đến độ ta. Ba là, phải tin
Tây Phương quả thật có một thế giới Cực Lạc. Bốn là, phải tin mọi sự thù thắng
vi diệu trang nghiêm nơi thế giới Tây Phương Cực Lạc mà trong kinh Di Đà đã nói
quả thật có rất nhiều lợi ích.
Sao gọi
là Nguyện?
Đã
tin cõi Ta Bà có đủ mọi đau khổ, liền nguyện mau rời khỏi Ta Bà. Đã tin cõi Cực
Lạc có mọi điều vui, liền nguyện vãng sinh Cực Lạc. Nguyện này đã lập, vững
chắc như kim cương. Thái Sơn có thể dời, nguyện này không thể mất. Không chỉ
đối với mọi thinh sắc, tài lợi nơi cõi Ta Bà chẳng có một mảy may tham luyến,
dù cho có người nói: Có một thế giới khác còn đẹp hơn cõi Cực Lạc, nhưng ta
cũng qua thẳng Tây Phương, không nguyện đến chỗ nào khác. Dù cho có người nói:
Có một pháp môn khác còn hay hơn pháp môn niệm Phật, ta cũng quyết tâm vững
lòng niệm Phật, chẳng muốn đi học pháp môn khác. Cần phải lập nguyện như thế,
mới có thể bước lên con thuyền đại nguyện của Phật Di Đà, đến bờ Liên Trì nơi
cõi ấy.
Sao gọi
là Hạnh?
Đã tin có Tây Phương, đã nguyện sinh về Cực Lạc, cần
phải dũng mãnh tinh tấn thực hành pháp niệm Phật, lại thêm không làm các việc
ác, thực hành mọi điều lành.
Tây Phương tuy cách xa mười muôn ức cõi Phật, nếu ta
nhất tâm niệm Phật, niệm đến chỗ cùng tột thì vừa cất niệm liền đến ngay. Nếu
tâm chẳng chuyên nhất niệm Phật, phàm phu mang nghiệp lực sao có thể đến cảnh
giới của Phật, Bồ Tát?
Đã tin rồi, nguyện rồi, cần phải nhất tâm niệm Phật,
khẩn thiết chí thành mà niệm. Bởi vì sinh tử vô thường, niệm Phật tâm không
chuyên nhất không thể cảm ứng được Phật tiếp dẫn. Nhận lấy giấy bắt của Diêm
Vương, chỉ đành đi theo họ để chịu nỗi khổ sinh tử mà thôi.
Cho nên, người tu hành, niệm Phật cần phải dũng mãnh
tinh tấn, chuyên nhất tâm ý, quét sạch hết tất cả vọng tưởng, buông bỏ tất cả
duyên đời, miên mật khít khao, tâm miệng hợp nhau, trong một ngày 24 giờ, không
một giờ một phút một giây nào không niệm Phật (chữ niệm là từ tâm phát ra,
không phải nơi miệng, trong miệng không niệm, tâm niệm cũng như nhau. Nhưng chỉ
dựa vào tâm niệm thì dễ lười biếng, mỗi ngày ít nhất nơi miệng cần phải trì
niệm một ngàn câu càng nhiều càng tốt).
Đi cũng niệm Phật, đứng cũng niệm Phật, ngồi cũng niệm
Phật, nằm cũng niệm Phật, rảnh cũng niệm Phật, bận cũng niệm Phật. Tuy trong
lúc vội vàng hấp tấp cũng không rời Phật. Đợi đến khi công phu thuần thục, dù
trong khi ngủ hay trong mộng cũng đang niệm Phật, niệm đến nhất tâm không loạn,
quyết định về Tây, quyết định thành Phật.
25. Trích
dẫn “Phật học toàn tập” của Lão Cư sĩ Lý Bỉnh Nam :
Người tu Tịnh độ đều biết “muôn người tu, muôn người
vãng sinh”, đó là lời nói của Tổ sư quyết không sai lầm. “Tu” là y theo pháp
của pháp môn Tịnh độ mà tu, chỉ cho phần chánh hạnh và trợ hạnh.
Chánh hạnh là công phu căn bản, chỉ niệm sáu chữ Hồng
danh (Nam
mô A Di Đà Phật). Ai cũng biết niệm, người không học Phật cũng biết niệm, nhưng
chẳng biết ý nghĩa. Nay xin giải thích sơ lược:
1. Một câu Nam mô A Di Đà Phật là Pháp giới
Tàng thân, bao quát cả chư Phật khắp mười phương ba đời.
2. Một câu Nam mô A Di Đà Phật, bao quát hết
ba tạng và mười hai bộ kinh, ngay một chữ “A” đã gồm thâu pháp của toàn bộ Tam
tạng.
3. Sáu chữ Hồng danh là vua trong các câu chú. Sáu chữ
Nam
mô A Di Đà Phật là bí mật không phiên dịch, đều chẳng phải văn tự Trung Hoa.
Pháp này cao tột, hơn trì bất cứ lời chú nào.
4. Học Phật nên tu định. “Hoa Nghiêm Đại Định” tức là
“Di Đà Đại Định”. Nhất tâm không loạn tức là định, được nhất tâm là thành công,
đó là chỗ tuyệt diệu của pháp môn Tịnh độ.
Niệm Phật là công phu chánh, có thể hiển bày Bản tánh
Chân như. Niệm Phật được nhất tâm, tâm sáng tánh tỏ thì thành công. Sáu chữ
Hồng danh Nam mô A Di Đà Phật tức là bản tánh của ông, bản tánh tức là tâm của
ông, tâm ông chính là Phật, Phật chính là tâm ông. Tâm và Phật vốn là một, vì
bị vô minh che đậy nên Phật là Phật, tâm là tâm, đem tâm và Phật phân làm hai
đều do ông tự tạo. Nay ông niệm Phật, chính là hiển bày bản tánh của ông. “Phật
mười phương ba đời cùng đồng một Pháp thân”, Phật quá khứ có Pháp thân, Phật vị
lai cũng có Pháp thân, Phật vị lai chính là chúng ta, chúng ta và Pháp thân
Phật Thích Ca, Di Đà là một chẳng phải hai. Niệm Phật là khai mở hiển bày bản
tánh, là công phu chánh.
Tâm tánh chúng ta bị vô minh che lấp, không phải dễ
hiểu rõ vô minh. Nói cách khác, vô minh chính là việc sát sinh, trộm cắp, tà
dâm, tham lam, nóng giận, si mê mà hằng ngày chúng ta làm. Tu là trừ bỏ vô minh
này, chẳng gây tạo nghiệp sát sinh, trộm cắp, tà dâm; chẳng khởi tham lam, nóng
giận, si mê, làm cho bản tánh tỏa sáng, đó là tu.
Người thường vừa niệm Phật vừa nhiễm vô minh, làm sao
có thể rõ tâm thấy tánh? Cho nên, phải dùng trợ lực diệt trừ sát sinh, trộm
cắp, tà dâm, tham lam, nóng giận, si mê. Trợ tu như thế nào? Tuy không rõ Phật
pháp, chỉ cần phân biệt được thiện ác và hiểu rõ hai câu thì được. Hễ là việc
xấu đừng làm, đó là “không làm các điều ác”, dù cho nhẫn không được cũng cắn
răng quyết không làm điều ác. Tìm việc lành để làm, ban đầu phải gắng sức mà
làm, đó là “thực hành các việc lành”. Làm lành bỏ dữ, giữ tâm tốt, nói lời tốt,
làm việc tốt, đó là phương pháp trợ giúp công phu chánh để trừ bỏ vô minh, cho
nên gọi là trợ hạnh. Trợ hạnh nói rộng ra là tu Sáu pháp Ba la mật, nhưng khó
hiểu không cần nói. Hễ làm việc ác dù tặng ông mười muôn cân kim cương cũng
không làm, đối với điều lành dù bị bất cứ trở ngại nào cũng phải làm, hai điều
đó là “tùy duyên tiêu nghiệp cũ, chẳng gây tai ương mới”. Thường ngày, gặp điều
lành thì làm, gặp việc ác thì bỏ. Nếu khi niệm Phật thì buông bỏ muôn duyên,
vừa khởi niệm ác liền dùng một câu Nam mô A Di Đà Phật đè bẹp chúng, thâu nhiếp
ba nghiệp thân, miệng, ý an trụ. Y theo đó mà làm, lâu ngày có thể thành công,
cho nên nói: “Muôn người tu, muôn người vãng sinh”.
Kiết thất là ở chỗ hạn định thời gian để cầu chứng
đắc. Tu pháp môn niệm Phật Tịnh độ phải được nhất tâm không loạn mới có thành
tựu. Kiết thất niệm Phật bảy ngày, nếu công phu tốt, niệm một ngày liền được
nhất tâm. Đây phải là người niệm Phật nhiều năm, còn phải hiểu rõ giáo lý mới
có thể thành tựu. Hạng kế đó hai, ba, bốn, năm, sáu ngày không nhất định. Hạng
sau nữa niệm đến bảy ngày mới chứng nhất tâm. Ở đây là từ việc vào thất tu Tịnh
nghiệp bảy ngày mà nói, ngày đêm niệm Phật không ngừng, trong bảy ngày liền có
thể trừ kiến hoặc và tư hoặc; chỉ có đoạn kiến hoặc, tư hoặc mới thật sự được
nhất tâm. Song, đoạn trừ kiến hoặc tư hoặc rất khó, nên có phương pháp đặc
biệt, trước mong điều phục vọng hoặc mà thôi. Ngay khi khởi hoặc, dùng danh hiệu
Phật điều phục nó, công phu thuần thục hoặc khởi liền điều phục ngay. Như thế
là được Tương tợ nhất tâm, cũng có thể còn nghiệp mà vãng sinh. Nay y theo thứ
lớp nói sơ lược về pháp tu chánh và trợ của Tịnh độ.
Trước
tiên nói về công phu chánh:
Trong
bảy ngày cần phải luôn luôn giữ lòng cung kính. Vừa vào cổng chùa liền xem đồng
như thấy Phật. Nên biết Pháp thân Như Lai khắp cả chỗ nơi, không chỉ tượng Phật
trên đại điện mới xem là Phật mà thật ra mỗi sắc mỗi hương đều là sắc vi diệu,
tâm vi diệu của Phật. Như thế nơi mình ở, mỗi mỗi xem là Phật, vậy thì lời nói
và hành động tự nhiên cung kính không còn lười biếng. Cung kính là bí quyết
tiến đến Bồ Đề. Đây là tầng công phu thứ nhất.
Đã ngồi yên
định nên buông bỏ muôn duyên, quét sạch mọi vọng niệm tạp sự trong thường ngày,
sau đó thâu nhiếp tâm một nơi, buộc vào một câu Hồng danh. Ví như ghe thuyền
trên dòng nước chảy xiết, buộc vào cây cọc thì không bị trôi mất. Đây là tầng
công phu thứ hai.
Khi trì danh cần phải đem sáu chữ Hồng danh này, từ
tâm phát khởi, từ miệng niệm ra, từ tai nghe vào, ví như ba bánh xe xoay vần
tới lui, cốt phải tâm tưởng rành rẽ rõ ràng, miệng niệm rành rẽ rõ ràng, tai
nghe rành rẽ rõ ràng. Như thế, tự niệm tự nghe, mỗi chữ mỗi chữ thành khẩn, chớ
để đánh mất một câu. Đó là tầng công phu thứ ba.
Vả lại, khi chúng ta niệm Phật, chẳng luận miệng niệm
hay ý trì, nên khiến cho hoàn toàn không có xen tạp những âm thanh khác, chỉ
còn tiếng Phật hiệu. Vì Pháp thân Phật Di Đà khắp tất cả chỗ nơi, ánh sáng của
Phật cũng cùng khắp tất cả chỗ nơi, nên khi niệm Phật từ ta mà phát ra tiếng
nơi tâm, tiếng nơi tâm vào trong ánh sáng của Phật, ánh sáng của Phật vào trong
tiếng nơi tâm, như thế tiếng nơi tâm và ánh sáng của Phật giao dung thì ta tức
là Phật A Di Đà, Phật A Di Đà tức là ta. Đó là tầng công phu thứ tư.
Y theo những
điều nói trên tinh tấn tu hành, tiến vào từng tầng, khiến cho nghiệp lực tiêu
mòn, đạo lực tăng trưởng, đợi đến tầng thứ tư tức là ngày thành công nhất tâm.
Kế đến
nói về công phu trợ:
Phương pháp công phu chánh cố nhiên là thẳng tắt nhanh
chóng, nhưng chúng sinh từ vô thỉ kiếp đến nay phiền não tập khí sâu dày, vọng
niệm lăng xăng. Nay muốn dùng một câu danh hiệu Phật bỗng chốc ép buộc khiến
chẳng tạo nghiệp, không vọng tưởng, hoàn toàn chẳng phải trong thời gian ngắn mà
có thể làm được, nên cần phải phụ vào công phu trợ hạnh. Nếu có thể hằng ngày
tỉnh xét lầm lỗi của mình, thành tâm sám hối, khiến cho tiêu trừ nghiệp chướng;
còn thấy người khác làm lành thì vui theo khen ngợi, để tăng phước đức. Sám
hối, tùy hỷ, như thế đều hồi hướng vãng sinh Tây Phương, đó là phần thứ nhất
trong trợ hạnh.
Tiếp theo
là pháp ưa thích và chán nản:
Trong
sinh hoạt hằng ngày, chẳng luận ăn mặc, đi đứng, nói chung mọi thứ nơi Ta Bà
đồng loạt đều xem là ô uế, chán nản muốn xa lìa, mọi thứ vui cùng tột được nói
trong ba kinh Tịnh độ đều xem là thanh tịnh mà ưa thích hâm mộ. Chán nản muốn
xa lìa thì không có tâm tham luyến; ưa thích, hâm mộ tự nhiên tăng thêm nguyện
cầu sinh. Đợi đến khi ưa thích và chán nản cùng cực thì thân tuy cư ngụ nơi Ta
Bà mà đã chẳng phải là kẻ khách ở lâu nơi Ta Bà, tuy chưa lên Cực Lạc sớm đã dự
vào hàng khách quý nơi Liên Bang. Đó là bí quyết vi diệu của Tịnh tông, là phần
thứ hai trong trợ hạnh.
Hơn nữa, có pháp phương tiện điều phục vọng hoặc: phải
biết người niệm Phật không được nhất tâm, là do vọng niệm làm rối loạn. Vọng
niệm chính là hoặc, cũng chính là ma. Kinh Niết Bàn nói: “Bậc Tu Đà Hoàn đoạn
trừ kiến hoặc như ngăn chặn dòng sông bốn mươi dặm”, nên biết muốn mong cầu
đoạn dứt ngay thật không phải dễ. Nay chính là phương pháp điều phục vọng hoặc
tạm thời. Cổ đức nói: “Chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”, nếu có thể niệm
khởi liền giác, vừa giác liền dùng danh hiệu Phật trấn áp. Như thế, ma đến thì
Phật trấn áp, ví như lấy đá đè cỏ, lâu ngày vọng hoặc tự nhiên không còn khởi,
cũng được phương tiện nhất tâm, đợi đến sau khi về Tây lại tiếp tục đoạn trừ
vọng hoặc. Đó là phương pháp đặc biệt của Tịnh độ, là phần thứ ba trong trợ
hạnh.
Qua những đoạn kinh, luận, những lời khai thị của
Phật, Bồ Tát, Tổ Sư và chư thánh hiền. Chúng ta thấy, tuy Phật, Bồ Tát và chư
vị hiền nhân đưa ra nhiều cách thức, nhiều phương pháp tu tập niệm Phật để được
sanh về Tây Phương Cực Lạc. Nhưng tất cả những cách thức, phương pháp này điều
không ra ngoài nội dung là Tín, Hạnh, Nguyện và thực hành niệm Phật với bất cứ
hình thức nào, miễn sao trong miệng, trong tâm khi nào cũng niệm Phật. Ngoài ra
là làm tất cả việc lành để hổ trợ cho Chánh hạnh niệm Phật sớm được vãng sanh”.
Lời bàn:
Qua những đoạn kinh, luận, các lời khai thị của Phật,
Bồ Tát, Tổ Sư và chư vị Hiền nhân đã được trích dẫn ở trên. Chúng ta thấy các
Ngài luôn luôn tha thiết kêu gọi, khuyến khích, chỉ dạy mọi người siêng năng,
tinh tấn tu tập, niệm Phật để được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.
Các Ngài thấy thế gian này đầy dẫy sự khổ đau phiền
lụy, miền Cực Lạc thì an vui tột bậc. Các Ngài không nỡ, không đành nhìn thấy
chúng sanh đau khổ mà không cứu. Giống như người mẹ hiền luôn lo lắng, chăm sóc
đứa con thơ không để cho con phải đói khát. Các Ngài tìm đủ mọi cách, mọi phương
tiện chỉ dạy chúng sanh, chúng ta tu tập để thoát khổ được vui.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét