Đặc biệt, các Ngài đem pháp môn thù thắng, vi diệu,
thẳng tắt, dễ tu, mau chứng chỉ dạy cho chúng sanh, chúng ta tu tập để sớm được
giải thoát giác ngộ đó là Pháp môn Tịnh độ, niệm Phật cầu sanh về Tây Phương
Cực Lạc. Tuy mỗi vị có một cách hướng dẫn, chỉ dạy khác nhau về cách niệm Phật,
nhưng chúng ta có thể rút ra những ý chung như sau:
1. Các Ngài luôn luôn nhấn mạnh ba điều kiện của hành giả tu Pháp mônTịnh độ đó
là Tín, Hạnh và Nguyện. Đặc biệt trong ba điều kiện này, hai điều kiện Tín và
Nguyện rất quan trọng, người mà không có niềm tin thì sẽ không thực hành. Nhưng
nếu thực hành mà không có Nguyện thì không có mục đích, phương hướng nên cũng
khó thành công. Vậy muốm cho sự vãng sanh được bảo đảm, vững chắc người niệm
Phật phải trang bị đầy đủ ba điều kiện này như lời Phật, chư Bồ Tát, chư Tổ,
chư Hiền Nhân chỉ dạy.
2. Về Phương diện thực hành, các Ngài chú trọng, đặt
nặng vào pháp Trì danh niệm Phật. Vì pháp Trì danh là pháp dễ tu, dễ thực hành
mà mau có kết quả.
3. Các Ngài cũng phân biệt, chỉ rõ cho hành giả niệm
Phật biết được Chánh hạnh và Trợ hạnh. Chánh hạnh là chuyên tâm niệm Phật cầu
nguyện vãng sanh, còn Trợ hành là làm tất cả việc lành hồi hướng vãng sanh. Nếu
người tu Tịnh độ có đầy đủ nhân duyên, điều kiện như giàu có, rảnh rổi thì thực
hành, tu tập cả Chánh hạnh và Trợ hạnh thì mau có kết quả và ở phẩm vị cao. Còn
những ai không đầy đủ điều kiện, nhân duyên như nghèo khó, bận rộn nên thực
hành phần Chánh hạnh, nghĩa là trong bận rộn nhưng chúng ta phải luôn nhớ Phật,
niệm Phật và hồi hướng cầu nguyện vãng sanh Cực Lạc.
Nói chung, qua những lời chỉ dạy của Phật, Bồ Tát, Tổ
Sư, chư Hiền Nhân ở trên. Chúng ta nên ứng dụng thực hành. Tùy theo trình độ
căn cơ, sở thích của mình mà chọn một cách tu tập, niệm Phật cho phù hợp, để
sớm được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, sớm thành Phật đạo. Đây là mục đích
tối hậu của người tu Pháp môn Tịnh độ.
ĐỜI
LÀ BIỂN KHỔ NGỤC TÙ KHÔNG NÊN THAM ĐẮM
Thế gian này, cuộc đời này là vô thường,
sanh diệt, khổ đau. Trong kinh Đức Phật thường nói cuộc đời là biển khổ. Cổ đức
có bài thơ:
Biển khổ mênh
mông sóng ngất trời
Khách trần
chèo một chiếc thuyền chơi
Thuyền ai
ngược gió hay xuôi gió
Ngẫm lại chỉ ở
trong biển khổ thôi.
Chúng ta biết, ý thức được cuộc đời này là
khổ, thân này là khổ thì chúng ta mới nhàm chán thế giới này, thân này, mới lo
tu, lo niệm Phật để được giải thoát, giác ngộ. Sau đây, chúng tôi xin trình bày
những điều khổ căn bản của thân người, của thế gian mà Đức Phật dạy:
1.
Tam khổ
Tam khổ là ba loại khổ gồm Khổ khổ, Hoại
khổ và Hành khổ
Khổ
khổ
Khổ khổ là cái khổ chồng lên cái khổ,
nghĩa là cái khổ này chưa hết cái khổ khác lại đến, cứ như thế làm cho chúng
sanh, con người đau khổ triền miên. Ví như; có người nghèo khổ, cơm không đủ ăn,
áo không đủ, không có nhà cửa, lại còn bị bệnh tật liên miêm. Bao nhiêu cái khổ
cứ chồng chất lên cuộc đời của họ làm cho họ đau khổ, sầu não. Lại một ví dụ
khác, như có những gia đình ở vùng thôn quê nghèo khổ, vùng này hay bị thiên
tai, vào mùa mưa bảo tố lũ lụt kéo về, không may cho những gia đình này, gia
tài của cải, nhà cửa bị nước cuốn đi, gia đình còn có người vì thiên tai mà
chết. Sau khi sau khi lũ lụt đi qua, chúng ta thấy sự khổ của họ như thế nào?
Họ thật là đau khổ, bao nhiêu cái khổ chồng chất lên gia đình họ, nào là của
cải mất mát, nhà cửa không còn, đau khổ nhất là bị mất người thân, còn nhiều
cái khổ nữa như thiếu cơm ăn áo mặc, bệnh tật v.v… do hậu quả của thiên tai.
Thật đúng cuộc đời là biển khổ, bao nhiêu sóng khổ dâng trào, chồng chất, đè
lên cuộc đời con người.
Hoại
khổ
Hoại là chỉ cho sự hư hao, mất mát, tan
rã, hủy diệt. Thật vậy, trên thế gian này không có vật gì tồn tại vĩnh viễn mà
tất cả đều chung một quy luật là vô thường. Vật lớn như vũ trụ, thế giới phải
trãi qua bốn gian đoạn là thành, trụ, hoại và không (Thành là thời kỳ bắt đầu
hình thành thế giới. Trụ là thời gian thế giới tồn tại. Hoại là thời gian thế
giới hư hoại, tan rã. Không là sau thời kỳ thế giới hư hoại, tan rã không còn
gì hết. Ví như ta đốt một đống cây to, sau khi cháy xong chỉ còn lại một đống
tro tàn, lại có một ngọn gió mạnh thổi đến, thổi đống tro bay tản mác khắp mọi
nơi. Bây giờ đống củi không còn mà tro tàn của nó cũng bay tứ tung không còn
thấy nữa), vì vậy thế giới có lớn đến
đâu cũng có ngày hoại diệt. Mạng sống của chúng sanh, con người thì phải chịu
chung quy luật là sinh, lão, bệnh, tử. Từ sanh đến tử là một quá trình thay
đổi, biến chuyển, hư hoại. Nói chung, tất cả vạn vật, muôn loài đều chịu chung
quy luật vô thường, sanh diệt, hư hoại nên làm cho chúng sanh, con người đau
khổ.
Hành
khổ
Hành là chỉ cho sự hành động, tạo tác, sự
vô thường, thay đổi. Thân chúng ta phải chịu quy luật vô thường thay đổi nên
mới có cảnh sanh, gìa, bệnh chết. Về tinh thần, tâm ý của con người cũng thay
đổi, khi vui, khi buồn, khi giận. Lại còn bị cảnh ngũ dục, lục trần dằn vặt,
lôi kéo, thúc đẩy làm cho ăn không ngon, ngũ không yên. Cũng do quy luật vô
thường sanh diệt mà chúng ta phải xa lìa, vĩnh biệt những thứ mình yêu thích
như tiền tài, danh vọng, địa vị, bà con, quyến thuộc. Bao nhiêu cảnh vô thường,
sanh diệt, đổi thay của thân, tâm và ngoại cảnh làm cho chúng sanh khổ, con
người đau khổ.
2.
Bát khổ
Bát khổ là tám thứ khổ gồm Sanh khổ, Lão
khổ, Bệnh khổ, Tử khổ, Ái biệt ly khổ, Oán tắng hội khổ, Cầu bất đắc khổ và Ngũ
ấm xí thạnh khổ.
Sanh
khổ
Sanh là sự có mặt, hiện hữu, sanh ra, là
cuộc sống của một một kiếp người. Cuộc sống của chúng ta bắt đầu từ trong thai
mẹ, ngay những ngày tháng đầu tiên chúng ta đã khổ. Lúc này chúng ta phải chịu
cảnh tù túng, tối tăm trong túi da máu thịt của người mẹ, mỗi khi mẹ uống nóng
thì ta chụi cảnh nóng bức, khi mẹ uống lạnh ta chịu cảnh lạnh giá, khi mẹ ăn no
hay đi đứng nằm ngồi ta chịu sự ép ngặt. Chẳng những ta khổ mà mẹ chúng ta cũng
khổ. Từ ngày mang thai mẹ đi đứng khó khăn, ăn không ngon, ngủ không yên, khi
sinh sản đau khổ vô cùng, có khi phải bị mổ xẻ nguy hiểm đến tánh mạng. Trong
Kinh Báo hiếu diễn tả sự đau khổ của người mẹ khi sinh con như sau:
Khi sinh sản
hiểm nguy chi xiết
Sanh đặng rồi
tinh huyết dầm dề
Ví như chọc
huyết trâu dê
Nhất sanh,
thập tử nhiều bề gian nan.
Ngày chúng ta chào đời báo hiệu cho một
chuổi dài đau khổ mới. Đầu tiên chúng ta được sinh ra từ một chổ không mấy
trong sạch, lại bị ép ngặt, mình đầy máu mủ tanh hôi, vì vậy khi vừa thoát ra ngoài, liền cất tiếng khóc vang: “khổ a !
Khổ a!”. Thật đúng như hai câu thơ của Ôn Như Hầu:
Thảo nào lúc mới chôn nhau
Ðã mang tiếng khóc ban đầu mà ra!
Sau khi chào đời, những ngày thơ bé ta
sống trong sự ăn nhơ, ở bẩn, ăn thì ăn cơm mớm, cơm nhai của mẹ, ỉa đái lung
tung phải phiền cha mẹ dọn dẹp, nếu cha mẹ chưa dọn kịp thì ta mằm trên phân,
nước tiểu, có khi còn bóc phân của mình ăn thật là tội nghiệp.
Đến
khi khôn lớn, trưởng thành chúng ta phải vất vả làm việc, phải thức khuy dậy
sớm, buôn tảo bán tần để lo cuộc cho sống của mình, gia đình. Có người làm vất
vả suốt đời cũng không đủ sống, cơm không đủ no, áo không đủ mặt, nhà cửa không
đủ che nắng che mưa. Lại còn những nổi khổ lớn hơn là khổ của sự già, bệnh và
chết, những nổi khổ này nó cứ đeo bám suốt cả kiếp người, nó còn theo mãi chúng
ta trong vô lượng kiếp luân hồi, chỉ khi nào chúng ta giải thoát mới chấm dứt
những nổi khổ này.
Lão khổ
Lão là chỉ cho sự già nua, tuổi xế chiều.
Con người đến lúc già, thân thể hao mòn, tinh thần suy kém, nên khổ thể xác lẫn
tinh thần.
Khổ
về thể xác: Càng già, khí huyết càng hao
mòn. Bên trong, ngũ tạng, lục phủ càng ngày càng mỏi mệt, hoạt động một cách
yếu ớt. Bên ngoài các giác quan dần dần hư hoại, như mắt mờ, tai điếc, mũi
nghẹt, lưỡi đớ, lưng còm, tay chân run rẩy, đi đứng mệt mỏi, ăn uống khó khăn.
Tuổi
già thường đi chung với bệnh tật, vì lúc này cơ thể hao mòn, sức lực yếu đuối,
chất đề kháng kém nên sanh ra nhiều thứ bệnh tật, nhất là khi trái gió trở trời
thì khắp người ê ẩm, đau nhức rất là khổ sỡ.
Khổ
về tinh thần: Càng già thân thể càng suy kém thì trí tuệ cũng càng lu mờ. Do
đó, sanh ra lẫn lộn, quên trước, nhớ sau, hành động như kẻ ngây dại, nói năng
giống người mất trí, ăn rồi bảo chưa ăn, chưa ăn bảo ăn rồi, tính tình khó chịu, hay nói nhảm, hay hờn giận con
cháu. Tuổi già thật là khổ.
Bệnh
khổ
Con người có trăm ngàn thứ bệnh, từ những
bệnh nhẹ như nhức đầu, nghẹt mũi, trúng gió, ngứa ngáy đến những thứ bệnh nặng,
nguy hiểm như lao, ung thư, cùi hủi v.v… Những thứ bệnh này nó hành hạ làm cho con
người khó chịu, rên xiết, đau nhức, khổ sở.
Bệnh tật không chừa một ai, từ người nông
dân nghèo khổ đến những người giàu có, những bậc vua chúa. Người nghèo khi bệnh
hoạn không có tiền để chạy chữa đã khổ. Người giàu tiền của dư giả mà gặp những
bệnh hiểm nghèo như ung thư, cùi hủi thì dù có tiền cũng đành chịu lại càng khổ
hơn. Người nghèo không đủ cơm ăn áo mặc đã khổ. Người giàu cơm nước, áo quần
đầy đủ nhưng lại mang những thứ bệnh như ghẻ lác thì dù áo quần gấm vóc cũng
khó mà mặc. Hoặc mắc những bệnh như đau ruột thừa, đau bao tử, bệnh tiểu đường
thì cao lương mĩ vị đầy tủ, đầy bàn cũng không dám ăn, phải nhịn thèm, nhịn
khát. Cho đến những bậc vua chúa, quan quyền, doanh nhân, những danh tài, những
siêu sao họ đang ở trên đỉnh cao danh vọng, quyền lực, địa vị, tài lợi mà gặp
những căn bệnh hiểm nghèo thì coi như tiền đồ, sự nghiệp, tương lai sụp đỗ,
tiêu tan như mây khói làm cho họ đau khổ vô cùng.
Bệnh tật thì trong một đời người ai cũng
đã từng trãi qua, đã cảm nhận được. Nhưng để thấy rõ hơn thì chúng ta hãy vào
nhà thương, bệnh viện sẽ thấy rõ. Ở bệnh viện biết bao nhiêu bệnh nhân đang rên
xiết, đau khổ. Có người bị mổ xẻ ba bốn lần mà bệnh vẫn không lành. Có người bị
cưa tay, cưa chân. Có người lở loét đầy miệng, đầy lưỡi ăn uống không được. Có
người đau thận, đau ruột tiểu tiện không được phải mổ đặt uống cao su, bao nhựa
cho tiểu tiện tự động chảy ra ngoài. Có người bị bệnh bại liệt đi đứng không
được phải tiểu tiện một chổ rất là dơ bẩn, đau khổ.
Tử
khổ
Tử là chỉ cho cái chết, sự chấm dứt mạng
sống. Trong bốn cái khổ của sanh, già, bệnh và chết thì chết là cái mà con
người sợ hãi, hoảng hốt nhất. Có nhiều người mắc những chứng bệnh nan y ngày
đêm bị hành hạ đau nhức vậy mà họ không dám nghỉ đến cái chết. Thậm chí có
nhiều người mạng sống sắp chấm dứt, họ vẫn cố gắng tìm những loại thuốc quí
hiếm để uống vào, chít vào hầu kéo dài mạng sống được ngày nào hay ngày đó.
Chết có hai loại khổ lớn là khổ về thân xác và khổ về tinh thần.
Khổ về thân xác: Người sắp chết, lúc này lục phủ, ngũ
tạng, tứ chi hư hoại, tan rã làm cho cơ thể đau nhức, nên đa số những người hấp
hối, sắp chết họ trợn mắt, méo miệng, giựt gân, chuyển cốt, uốn mình, nước mắt,
nước mũi chảy tràn, miệng thì rên la mà không thành tiếng rất đau khổ. Những
người mắc những chứng bệnh nan y, đến lúc này bệnh tình hành hạ, hoành hành dữ
dội hơn, lúc bình thường đã đau nhức khó chịu rồi, nhưng đến lúc này lại đau
nhức gấp bội phần.
Khổ về tinh thần: Thân xác đã khổ, về tinh thần lại còn khổ
hơn. Lúc này người chết phải chia tay vĩnh biệt người thân nào là vợ chồng, con
cái, cha mẹ, anh em, bà con, quyến thuộc làm cho họ buồm rầu rơi lệ. Chẳng
những chia tay vĩnh biệt người thân, họ còn phải từ bỏ những gì cả cuộc đời họ
cực nhọc tạo dựng, giữ gìn như vàng bạc, nhà cửa, xe cộ, địa vị, danh vọng. Vì
vậy mà những người giàu bao nhiêu, địa vị danh vọng bao nhiêu thì người ta càng
sợ cái chết. Bao nhiêu sự yêu thích mà bây giờ phải cam chịu từ giả, vĩnh biệt
ra đi với hai bàn tay trắng làm cho con người đau khổ, có nhiều người quá
thương yêu, luyến tiếc đến nổi khi ra đi vẫn không chịu nhắm mắt.
Người chết phải vĩnh biệt người thân, từ
giả cõi đời họ cảm thấy cô đơn lạc lỏng, lạnh lẻo, lại đường trước mờ mịch
không biết về đâu, nên cảm thấy hoang mang, lo sợ. Khi chết còn có bao nhiêu
những cảnh tượng kinh dị, hãi hùng, khủng khiếp hiện ra để hù dọa, lôi kéo làm
cho người chết sợ hãi, đau khổ. Trong kinh Đức Phật dạy; nếu ai sống trên đời
mà tạo nhiều tội lỗi, nghiệp chướng như giết hại, trộm cướp, dâm dật, lừa đảo,
nhất là nghiệp sát hại sanh mạng chúng sanh như giết người, trâu, bò, heo, chó,
gà, vịt, cua, cá v.v… thì khi chết lửa địa ngục hiện ra, quỉ sứ đầu trâu mặt
ngựa hiện đến dẫn thần hồn họ vào địa ngục. Lại còn có những oan gia, trái chủ,
những cô hồn, ma quỉ mà mình đã giết bây giờ cũng hiện ra để tìm cách báo hại,
trả thù làm cho người chết sợ hãi, đau khổ.
Ái
biệt ly khổ
Ái là sự yêu thương, biệt ly, là sự xa
cách, chia lìa. Ái biệt ly gồm có hai loại là Sanh ly và Tử biệt.
Sanh ly khổ: Trên cuộc đời này biết bao nhiêu hoàn cảnh làm cho con
người phải xa lìa người thân, xa lìa nơi mình yêu thương. Một người đang sống
yên vui trên quê hương, tình yêu quê hương đậm đà nhưng vì hoàn cảnh, vì sự
nghiệp, vì kế sinh nhai phải tha phương cầu thực, phải rời quê hương yêu dấu,
nơi chôn nhau cắt rốn, đến một phương trời xa lạ, không người bầu bạn, ngày đêm
vò võ nhớ nhung, nhưng vì cuộc sống người ta phải cam chịu. Ca dao có câu chỉ
tâm trạng của người xa xứ:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.
Có nhiều gia đình đầm ấm, sum vầy, trên
thì ông bà, cha mẹ yêu thương bảo bọc con cháu. Dưới thì con hiền, cháu thảo
hiếu dưỡng ông bà cha mẹ. Cuộc sống đang êm đẹp, ấm cúng như vậy bổng gặp một
biến cố, tai họa ập đến làm gia đình tan nát, chia lìa mỗi người mỗi phương.
Có những cặp vợ chồng đang sống hạnh phúc,
yêu thương nhau, lại do hoàn cảnh hay tai họa phải xa rời làm cho họ nhớ thương
quên ăn bỏ ngủ, ngày đêm mong ngóng chờ trông. Có những cặp tình yêu, những đôi
trai gái yêu nhau tha thiết, thề non hẹn biển, nhưng gặp hoàn cảnh éo le, cha
mẹ hai bên không đồng ý, làm cho họ đau khổ có khi phải tìm đến cái chết.
Nói chung, trên cuộc đời này biết bao
nhiêu là hoàn cảnh, tai họa làm cho con người phải chia ly, nào là do hoàn cảnh
cuộc sống nên người ta phải tha phương cầu thực, nào là do những tai họa như
chiến tranh, thiên tai làm cho mọi người
phải xa nhau, cách trở. Bao nhiêu những biến cố, hoàn cảnh, tai họa này chia
cách cuộc sống hạnh phúc, bình an, yêu thương của nhân loại làm cho con người
buồn phiền, đau khổ.
Tử biệt khổ: Sanh ly thì còn hy vọng, cơ hội gặp lại, chứ tử biệt thì
vĩnh viễn xa nhau. Cuộc sống này biết bao nhiêu người, bao nhiêu thứ để người
ta yêu thương, quý mến, nào là vợ chồng, con cái, cha mẹ v.v… thứ đến là gia
tài, sự nghiệp. Nhưng một khi vô thường đến thì đành bỏ lại tất cả để ra đi một
mình với hai bàn tay trắng. Có người vợ đẹp con ngoan, nhà cao cửa rộng, hạnh phúc đang nồng ấm cũng đành phải ra đi
theo tiếng gọi của vô thường. Có người cả cuộc đời cực nhọc, vất vả để tạo dựng
gia tài, sự nghiệp, đến khi thành công, gia tài chưa kịp hưởng đã phải từ giả
cõi đời. Có người lập chí siêng năng học hành mong đỗ đạt, thành tài để giúp ít
cho đời, nhưng khi công thành danh toại, chưa làm được gì đã vội lìa đời. Tất
cả những gì thương yêu, quí mến, chết phải vĩnh biệt, từ bỏ tất cả làm cho con
người phải ngậm ngùi, luyến tiếc, buồm phiền, đau khổ.
Chẳng những người chết đau khổ mà người
sống cũng đau khổ. Một người chồng hiền lành, lo làm ăn, thương vợ thương con
mà đành ra đi theo tiếng gọi của tử thần làm cho vợ con đau khổ. Một người vợ
hiền thục, sống chung thủy với chồng, luôn tận tụy lo cho chồng, cho con nhưng
không may bị Diêm Vương mời gọi làm cho chồng, con người ta đau khổ. Một đứa
con ngoan hiền, hiếu thảo, học giỏi nhưng không may lại chết sớm làm cho cha mẹ
buồn phiền ngày đêm thương nhớ.
Nói chung, ái biệt ly dù sanh ly hay tử
biệt gì đều làm con người đau khổ, muốn thoát được ái biệt khổ chỉ có con đường
tu tập giải thoát giác ngộ mà thôi.
Cầu
bất đắc khổ
Con người vì nhu cầu cuộc sống cho bản
thân, cho gia đình được hạnh phúc, sung sướng. Vì vậy mà người ta cầu, nhưng
thử hỏi cầu có được không, được thì ít mà không được thì nhiều.
Cuộc sống, điều quý nhất là mạng sống, nên ai không muốn mình, người thân
được mạnh khẻo, sống lâu. Nhưng thân này nó vốn là sanh, lão, bệnh, tử muốn
cũng không được. Mình muốn nó mạnh nó lại yếu, muốn nó đừng bệnh nó lại bệnh,
muốn nó sống lâu nó lại chết sớm. Thật là mọi điều bất như ý.
Ở đời ai không muốn được giàu sang, danh
vọng, địa vị. Nhưng những thứ này đâu phải dễ tìm. Người ta phải vất vã, cực
nhọc, lao tâm, khổ trí mới có được, khi được rồi giữ chúng lại còn khó hơn, có
khi qua một trận bảo lụt, sống thần, động đất, núi lửa, trộm cướp, giặc giả thì
bao nhiêu gia tài, sự nghiệp cả một đời cực nhọc tạo dựng đều tiêu tan như mây
khói làm cho người ta khổ.
Ở trên là nói sự tìm cầu gia tài, sự
nghiệp chính đáng bằng sức lực, tài năng của mình nhưng phải vất vả, cực khổ
mới có được, được rồi lại dễ mất. Còn có một số người tham lam, ít kỷ chỉ biết
lợi cho bản thân mình, không màng đến hạnh phúc, quyền lợi, mạng sống của người
khác. Muốn được giàu sang, danh vọng, địa vị người ta bất chấp mọi thủ đoạn,
tìm trăm phương ngàn kế, mưu này, chước nọ có khi hại đến tánh mạng của người
khác. Do tìm cầu một cách không chính đáng nên họ rất hồi hộp, lo âu, ăn không
ngon, ngủ không yên, khi nào cũng sợ, sợ bị phát hiện, sợ bị bắt, bị vào tù.
Nhưng nhực tế là vậy, nhân nào quả đó không thể trốn tránh được, khi người ta
đã đạt được mục đích, chưa kịp hưởng đã bị bắt, bị giam cầm tù tội làm cho đau
khổ. Mình khổ đã đành mà còn liên lụy đến người thân, làm cho người thân phải khổ theo mình.
Oán
tắng hội khổ
Oán tắng hội khổ là chỉ cho những người
mình không ưa, không thích, những người mình ghét thậm chí là kẻ thù mà phải
chung đụng, có khi phải ở với nhau làm cho mình khổ. Cuộc đời thật là ngang
trái phủ phàng, người mình yêu thích thương mến lại phải xa lìa, ngược lại
người mình ghét cay, ghét đắng lại phải cam chịu sống chung.
Một người không tốt luôn tìm cách nói xấu
mình, hại mình, nhưng vì công việc, nghề nghiệp mà ta cùng sống với họ, làm
việc với họ làm cho ta khó chịu bực mình. Có những người chồng, sáng xỉn, chiều
say suốt ngày nghiện ngập, lại còn đánh đập vợ con. Có những người vợ, bài bạc,
thô lỗ, biến nhác v.v… Sống với những người chồng, người vợ như vậy làm người
ta khổ.
Sống trên đời này con người luôn hồi hộp,
lo âu, ở không yên, đi đâu cũng sợ. Người ta sợ bị lừa đảo, trộm, cướp, xì ke, ma túy, sợ những kẻ đâm
thuê, chém mướng. Những đất nước, dân tộc bị ngoại xâm, ngày ngày người ta phải
sống chung đụng với kẻ thù làm cho người ta ăn không ngon, ngũ không yên rất là
khổ. Có câu văn diễn tả cái khổ sống chung với kẻ thù như sau:
“Thấy mặt kẻ thù, như kim đâm vào mắt; ở
chung với người nghịch, như nếm mật, nằm gai”.
Ngũ ấm xí thạnh khổ
Ngũ
ấm là chỉ cho thân tâm chúng sanh, cụ thể là con người. Ngũ ấm gồm có sắc, thọ,
tưởng, hành và thức. Sắc thuộc về thân. Thọ, tưởng, hành, thức thuộc về tinh
thần, là tâm. Xí thạnh chỉ cho sự thay đổi, chuyển biến, vô thường của thân,
tâm.
Sự
biến chuyển thay đổi của thân
Thân thay đổi, biến chuyển, vô thường theo
bốn gian đoạn là sanh, gìa, bệnh và chết. Đã có thân thì ai cũng khổ vì thân,
thân này nó chịu sự tác động của môi trường, hoàn cảnh, tùy theo môi trường
hoàn cảnh mà ta có nhiều cái khổ khác nhau. Trời quá nóng làm thân nóng bức khó
chịu. Trời quá lạnh làm thân rét buốt tê tái. Thời tiết thay đổi đột ngột cũng
làm cho cơ thể đau nhức, ê ẩm nhất là các cụ già.
Thân này còn có trăm ngàn thứ bệnh hoành
hành, năm ngoái thấy anh kia, chị kia khỏe mạnh, tráng kiện, đẹp đẽ. Năm này
gặp lại thấy âu sầu, tiều tụy, ốm yếu sắp chết đến nơi. Sự thay đổi của cơ thể
rất mau lẹ, chẳng những thay đổi theo năm mà thân này nó thay đổi theo tháng,
theo ngày, mới ngày hôm qua mạnh khỏe, hôm nay ốm yếu bệnh tật. Thân này biến
chuyển thay đổi như vậy làm cho con người đau khổ.
Sự
biến chuyển thay đổi của tâm
Tâm có hai phần là Chân tâm và Vọng
tâm, ở đây chỉ nói phần Vọng tâm. Vọng tâm là ý thức, những suy nghĩ, tính
toán, tưởng tượng. Tâm thay đổi, biến chuyển, vô thường mau lẹ hơn cả thân. Có
người yêu nhau thề non hẹn biển nhưng chỉ trong một thời gian ngắn lại đi tìm
người yêu mới. Có người hứa giúp đỡ cho người chuyện này, chuyện kia nhưng họ
chưa giúp được ai lại thất hứa. Có người hôm qua thấy vui vẻ nay lại buồn rầu.
Nói chung, tâm con người biến chuyển, thay đỗi rất mau nào là vui, buồn, giận,
ghét, hơn thua đủ thứ làm cho con người dằn vặt đau khổ.
3.
Đời Ngũ trược khổ (Ngũ trược ác thế)
Ngũ trược còn gọi là Ngũ trọc, Ngũ là năm,
Trược hay Trọc chỉ cho sự cặn đục, dơ bẩn, cấu uế, bất tịnh. Đời ngũ trược khổ là chỉ cho đời có năm thứ dơ bẩn,
cấu uế làm con người đau khổ.
Trong kinh Đức Phật dạy; vào thời kỳ kiếp
giảm, lúc con người làm đủ mười điều ác thì thế gian sinh ra năm thứ trược đó
là Kiếp trược, Kiến trược, Phiền não trược, Chúng sanh trược và Mạng trược. Năm
thứ trược này làm cho con người đau khổ.
Kiếp
trược
Kiếp sống của con người đầy dẫy sợ dơ xấu,
nguy hiểm, độc ác. Nào là trộm, cướp, giặc giả, chiến tranh, bảo lụt, sống
thần, động đất, núi lửa v.v… Sống trong đời ngũ trược này, con người chịu không
biết bao nhiêu tai họa, do con người hay thiên nhiên gây ra, làm con người đau
khổ.
Kiến
trược
Kiến là thấy, biết, Kiến trược là sự thấy
biết sai lầm, điên đảo. Những kiến thức sai lầm này dẫn dắt con người vào con
đường mê lầm, đau khổ. Kiến trược còn gọi là Ác kiến hay Tà kiến được chia làm
năm loại như sau:
Thân kiến: Nghĩa là chấp thân tâm giả hiệp này là ta. Vì cái chấp sai
lầm ấy, nên thấy có một cái Ta riêng biệt, chắc thật không biến đổi, là quý
báu. Do lầm chấp như vậy nên luôn bảo vệ, giữ gìn lo cho nó đủ thứ. Cũng vì cái
ta này mà tạo không biết bao nhiêu tội lỗi, nghiệp chướng làm khổ đau cho mình
và người.
Biên kiến: Nghĩa là chấp một bên, nghiêng về một phía, có thành kiến
cực đoan. Biên kiến có hai lối chấp sai lầm là:
a. Thường kiến: Nghĩa là chấp rằng khi chết rồi, cái Ta
vẫn tồn tại mãi: người chết sẽ sanh ra người, thú chết sẽ trở lại thú, Thánh
Nhơn chết trở lại làm Thánh Nhơn.
b. Ðoạn kiến: Nghĩa là chấp rằng chết rồi là mất hẳn.
Ðối với người chấp Ðoạn kiến, thì hễ tắt thở là không còn gì tồn tại nữa; tội cũng
không mà phước cũng chẳng còn. Họ không tin nhân quả, luân hồi, nên mặc tình
làm nhiều điều tội lỗi.
Kiến thủ: Nghĩa là chấp chặt sự hiểu biết sai lầm của mình. Hoặc vì
tự ngã, tự ái nên cố chấp cái hiểu biết sai của mình mà không chịu sửa đổi.
Giới cấm thủ: Nghĩa là làm theo những lời răn cấm sai
lầm không đúng với sự thật, chân lý, không đưa đến sự giải thoát. Như cho tu
khổ hạnh ép xác sẽ tiêu trừ tội lỗi. Tin ngày tắm mấy lần ở sông Hằng sẽ hết
tội v.v…
Tà kiến: Nghĩa là chấp theo lối tà, không chơn chánh, trái với sự
thật, trái với luật nhân quả. Nói một cách khác, Tà kiến nghĩa là mê tín dị
đoan, như xin xâm, bói quẻ, cầu cơ, coi sao, cúng hạn, tin ngày giờ tốt xấu,
thờ cúng bình vôi, ông táo v.v…
Phiền
não trược
Phiền não trược là những tâm lý ô nhiễm,
bất thiện, si mê. Đời ngũ trược tâm tánh con người đầy dẫy phiền não. Những
phiền não này bức bách, trói buột, sai
sử con người làm cho đau khổ. Có sáu phiền não căn bản là Tham, Sân, Si, Mạng,
Nghi và Ác kiến.
Tham: Nghĩa là tham lam. Tánh tham có động lực bắt chúng ta phải dòm
ngó, theo dõi những cái gì nó ưa thích, như tiền tài, danh vọng, địa vị, miếng
ăn, chỗ ở v.v... rồi nó xúi chúng ta lập mưu này, chước nọ để tìm kiếm cho được
những thứ ấy. Nhưng lòng tham thì vô
đáy, thế gian có câu: “được voi đòi tiên”, vì vậy mà cả cuộc đời người luôn làm
nô lệ cho lòng tham. Lòng tham thường đi đôi với tánh keo kiệt, bỏn sẻn. Có
nhiều người giàu vô cùng nhưng họ chẳng bao giờ bố thí, giúp đỡ cho ai, ngay
bản thân họ cũng không dám tiêu xài. Tham làm khổ cho mình, người hiện tại và
tương lai.
Sân: Nghĩa là nóng giận. Khi gặp những cảnh trái ý nghịch lòng, như
khi người ta đụng đến lòng tự ái của mình, thì sân nổi lên, sân như một ngọn
lửa dữ đốt cháy lòng ta làm cho ta khổ và mọi người khổ. Có người bình thường
rất hiền lành, nhưng khi lửa sân nổi lên họ dám cầm dao giết người, sau khi
nguôi giận thì hối hận đã muộn.
Si: Nghĩa là si mê, mờ ám. Si như là một tấm màn dày đặc, đen tối
trùm lên trí huệ của ta, làm cho ta không thể nhìn thấy được sự thật, phán đoán
được cái hay, cái dỡ, cái tốt, cái xấu. Do đó, ta gây ra không biết bao nhiêu
tội lỗi, nghiệp chướng làm khổ mình trong hiện tại và tương lai.
Mạn: Nghĩa là tự đề cao mình. Ỷ mình hay, giỏi rồi khinh khi, chê bai,
lấn lướt mọi người. Có khi mình xấu, dỡ, thua người nhưng lại tự cho mình là
tốt đẹp hay giỏi hơn người.
Nghi: Nghĩa là nghi ngờ, không có lòng tin. Người đa nghi thì rất khó
thành công trong công việc. Đối với mình, làm việc gì họ cũng do dự không dám
làm. Đối với người, họ không tin tưởng nên không dám giao công việc cho ai.
Điều quan trọng là nghi giáo pháp của Phật, làm chướng ngại sự tu tập giải
thoát giác ngộ.
Chúng
sanh trược
Chúng sanh phiền não, nghiệp chướng nặng
nề, gây nhiều tội ác, bất thiện như lừa đảo, trộm, cướp, dâm dục, nói dối, ngỗ
nghịch, bất hiếu, không tin nhân quả, không kính Tam Bảo v.v… Những phiền não,
ác nhiệp này làm con người cấu uế, bất tịnh, độc ác, đau khổ. Sau khi chết đọa
vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh chịu khổ vô cùng.
Mạng
trược
Con người làm nhiều tội ác như cướp của,
giết người. Làm nhiều nghề ác như mổ bò, mổ heo, buôn bán rượu, á phiện, vũ khí
v.v… Do làm những ác nghiệp này mà con người thọ lấy quả báo thân thể xấu xí,
bệnh tật, nghèo nàn, thọ mạng ngắn ngủi. Sau khi chết lại đọa vào tam đồ, ác
đạo.
4.
Khổ Ngũ ác, Ngũ thống và Ngũ thiêu của đời ác trược
Sau đây là đoạn trích Đức Phật nói sự khổ
Ngũ ác, Ngũ thống và Ngũ thiêu của đời ngũ trược trích trong Kinh Vô Lượng Thọ:
Đức Phật gọi Bồ Tát Di Lặc mà dạy rằng:
“Này A Dật Đa! Công đức và rí huệ của hàng Thanh Văn và Bồ Tát nước An Lạc của
Đức Vô Lượng Thọ Phật chẳng thể kể nói được.
Lại quốc độ ấy vi diệu an lạc thanh tịnh
dường ấy, sao chư Thiên và mọi người chẳng gắng sức làm lành, phải đều siêng
năng tinh tiến nỗ lực tự cầu tất được siêu tuyệt vãng sanh nước An Lạc, dứt
ngang năm ác đạo, ác đạo tự nhiên đóng bít, con đường đạo tiến lên không cùng
tột dễ đến mà không có người, nước ấy chẳng trái bỏ một ai lại có sức kéo dắt
tự nhiên.
Sao mọi người chẳng vứt bỏ việc đời để
chuyên cần tu hành cầu nên đạo đức để được sự trường sanh hưởng vui không cùng
cực.
Nhưng người đời phần đông phước mỏng, cùng
tranh nhau những sự chẳng cần kíp, ở tại trong chỗ kịch ác tột khổ mà nhọc nhằn
kinh doanh chật vật để tự cung cấp. Không luận là người tôn kẻ ti, người nghèo,
kẻ giàu, trẻ già nam nữ đều lo nghĩ về tiền tài, vất vả sầu khổ mãi nghĩ mãi lo
không lúc nào yên. Có ruộng lo ruộng, có nhà lo nhà, có trâu ngựa lục súc nô tỳ
tiền của y thực trăm ngàn thứ lại lo trăm ngàn thứ. Toan tính cầu lợi lo nghĩ
buồn sợ bỗng chốc bị trộm cướp, nước cuốn, lửa cháy, sung công, tài sản tiêu
tan thân mang tai họa, lại sầu khổ phẫn uất. Nếu tài sản không bị tiêu tan,
thân không bị tai họa, nhưng cuối cùng vô thường bỗng đến, thân chết mạng
chung, tay không mà đi không mang món gì theo được”.
Ðức Phật bảo Ngài Di Lặc Bồ Tát và hàng
chư Thiên nhơn chúng rằng: “Nay ta nói với các người, thế nhơn do những sự việc
ấy nên chẳng đắc đạo.
Phải suy nghĩ chín chắn, nên xa lìa những
điều ác, chọn những điều lành rồi siêng năng thực hành.
Ái dục vinh hoa là những thứ chẳng thể bảo
tồn mãi mãi, rồi đều sẽ ly tan không có gì đáng vui đáng thích.
May mắn gặp Đức Phật tại thế phải kíp
chuyên cần tu tập, người nào có chí nguyện sanh về nước An Lạc thì được trí huệ
sáng suốt, công đức thù thắng. Chẳng nên buông lung theo lòng dục vọng mà phụ
rẫy lời dạy trong kinh luật để rồi phải rơi ở sau người…
Chư Thiên và nhân dân tứ chúng từ nhiều kiếp
đến nay xoay lăn trong ngũ đạo lo sợ khốn khổ chẳng nói hết được. Mãi đến đời
nay vẫn chưa dứt sanh tử. Gặp được Đức Phật nghe thọ kinh pháp và được nghe về
Đức Vô Lượng Thọ Phật, thiệt là được lợi lành rất lớn. Ta mừng cho đó.
Các người ngày nay cũng nên tự nhàm chán
sanh lão bệnh tử thống khổ, thân ngũ ấm hôi nhơ vô thường không có gì đáng vui
thích. Phải tự quyết đoán đoan thân chánh hạnh làm nhiều việc lành, trừ sạch
tâm nhơ bẩn, ngôn hạnh trung tín trong ngoài tương ưng, tự độ mình mà cũng cứu
giúp người khác, thành tâm cầu nguyện chứa nhóm đức lành.
Dầu phải cần khổ tu hành nhưng chỉ là một
đời ngắn ngủi, về sau được sanh về nước An Lạc của Đức Vô Lượng Thọ Phật hưởng
sự khoái lạc vô cực, mãi mãi hiệp với đạo, khỏi hẳn sanh tử, không còn họa hoạn
tham sân ngu si, muốn thọ một kiếp hay trăm ngàn muôn ức kiếp đều tùy ý tự tại,
tất cả đều vô vi tự nhiên kế đạo tịch diệt…
Ngài Di Lặc Bồ Tát bạch đức Phật: “Chúng
con nhận lãnh lời răn dạy của Đức Phật, chuyên cần tu học y giáo phụng hành,
chẳng dám có lòng nghi ngờ”.
Ðức Phật lại bảo Ngài Di Lặc Bồ Tát rằng:
“Các người có thể ở đời nầy đoan tâm chánh ý chẳng làm những điều ác đó là chí
đức, mười phương thế giới không đâu sánh bằng. Tại sao vậy?
Ở quốc độ của chư Phật, hàng chư thiên và
nhơn dân tự nhiên làm điều lành, chẳng phạm nhiều điều ác, họ rất dễ khai hóa.
Hiện nay ta làm Phật ở thế gian nầy, ở trong ngũ
ác ngũ thống ngũ thiêu, chỗ quá khổ lụy, giáo hóa chúng sanh khiến họ trừ ngũ
ác, bỏ ngũ thống, rời ngũ thiêu, điều phục ý họ khiến họ trì ngũ thiện, cho họ
được phước đức thoát khỏi thế gian chứng nhập đạo Niết bàn trường thọ.
Nầy A Dật Ða! Những gì là ngũ ác, ngũ
thống và ngũ thiêu? Thế nào là tiêu hóa ngũ ác, khiến trì ngũ thiện được phước
đức thoát khỏi thế gian chứng nhập đạo Niết Bàn trường thọ?
Ðiếu ác thứ nhất: - Chư Thiên và nhơn dân cho đến loài
nhuyến động, phần đông muốn làm các điều ác đều như thế nầy: Kẻ mạnh hiếp kẻ
yếu, giành giựt tàn hại sát lục cho đến ăn thịt lẫn nhau. Họ chẳng biết làm
lành, ác nghịch vô đạo. Có nghiệp nhơn tất chịu quả báo, nên có những sự nghèo
cùng hạ tiện cô độc, đui điếc câm ngọng tệ ác ngu si, thậm chí có hạng cuồng
điên chẳng nên hình.
Còn những người tôn quý hào phú cao tài
minh đạt, đó là do đời trước họ nhơn từ hiếu để tích đức làm lành.
Thông thường thế gian có phép nước ngục
tù. Kẻ chẳng kiêng sợ giữ gìn làm ác bị tội phải xử phạt cầu thoát khó được.
Thế gian có những sự hiện tiền trước mắt như vậy.
Khi
chết đời sau càng sâu càng khổ vào chỗ u minh thọ lấy thân hình, nên có tự
nhiên tam đồ vô lượng khổ não, chuyển đổi thân hình, thọ mạng hoặc dài hay
ngắn, thần thức tự nhiên đến đó theo nhau cùng sanh, báo đền lẫn nhau không có
lúc nào thôi dứt, tội ác chưa hết thì chẳng thể thoát lìa, đau khổ chẳng nói
được. Con đường thiện ác nhơn quả đương nhiên như vậy.
Ðây là một đại ác một thống một thiêu, như
lửa lớn đốt cháy thân người.
Có ai ở trong ấy nhứt tâm nhiếp ý đoan
thân chánh hạnh chuyên làm điều lành chẳng phạm tội ác thì được độ thoát, có
phước đức lớn, sanh lên cõi trời, hoặc chứng nhập Niết bàn. Ðây là một đại
thiện vậy.
Ðiều ác thứ hai: - Người thế gian, cha con anh em chồng vợ
vô nghĩa vô đạo, chẳng thuận pháp độ, xa xí hoang dâm kiêu mạn phóng túng, đều
riêng muốn khoái ý nên buông lung theo lòng họ, khi dối lẫn nhau, tâm khẩu mâu
thuẫn, lời cùng ý không thành thiệt, siểm nịnh chẳng trung, xảo ngôn dua mị,
ghét người hiền, chê người lành. Làm vua bất minh, làm quan lộng quyền, tại vì
chẳng chánh khi dối lẫn nhau, hãm hại trung cang, dung dưỡng gian nịnh. Tôi khi
chúa, con khi cha, anh em chồng vợ bè bạn lường gạt lẫn nhau. Ai ai cũng cưu
lòng tham dục, sân hận, ngu si, muốn mình được nhiều mặc người tổn hại. Chẳng
nghĩ nhà phá thân vong, chẳng quản tội trước họa sau, cho đến thân thuộc nội
ngoại liên lụy diệt tộc.
Có khi gia đình bè bạn xóm làng chợ búa,
dân ngu tranh giành lợi hại, do giận hờn mà kết oán thù. Kẻ giàu dư dã lại bỏn
sẻn chẳng chịu thí cho, tham ái quá nặng tâm nhọc thân khổ. Cuối cùng rồi không
chỗ cậy nhờ đến đi một mình không ai theo giúp. Thiện và ác, họa và phước theo
người mà sanh, hoặc ở chỗ vào chốn khổ, sau đó mới hối hận thì đâu còn kịp.
Người đời vì tâm khờ ít trí, thấy người
làm lành thì chê ghét chẳng chịu ngưỡng mộ để được bằng. Chỉ muốn làm ác, làm
điều phi pháp. Thường có tâm trộm cắp trông đoạt được của người. Phá của tiêu
tan rồi đi tìm cầu. Tâm tà chẳng chánh, sợ người hơn mình. Chẳng lo tính trước
việc đến mới ăn năn.
Hiện đời bị phép nước tù phạt trị tội. Sau
khi chết đọa vào ác đạo, nên có tự nhiên tam đồ chịu khổ vô lượng. Xoay vần
trong đó nhiều đời nhiều kiếp không có lúc ra khỏi, khó được giải thoát, đau
khổ chẳng nói được.
Ðây là hai đại ác, hai thống, hai thiêu,
như lửa lớn đốt cháy thân người.
Có người nào ở trong ấy mà nhứt tâm chế ý,
đoan thân chánh hạnh chuyên làm điều lành, chẳng phạm điều ác thì được độ thoát
có nhiều phước đức, hoặc sanh lên cõi trời, hoặc chứng nhập Niết bàn. Ðây là
hai đại thiện vậy.
Ðiều ác thứ ba: - Người đời nương nhờ nhau mà sống còn ở
trong trời đất, tuổi thọ không được bao nhiêu. Trên có các nhà hiền minh trưởng
giả tôn quý hào phú, dưới có những kẻ nghèo cùng ti tiện yếu kém ngu phu. Trong
đó có những người bất thiện thường cưu lòng tà ác, chỉ nghĩ nhớ dâm dật ái dục,
phiền não đầy bụng, ngồi đứng chẳng an, tham lam muốn lấy không của người, chán
ghét vợ nhà lén lút ra vào, hao tổn gia tài làm điều phi pháp. Tụ hội bè đảng,
đem quân xâm lăng, đánh cướp giết hại, cưỡng đoạt vô đạo; ra ngoài làm ác chẳng
tự làm ăn, trộm cắp bức hiếp buông lung hưởng lạc, hoặc với người trong thân
thuộc cũng chẳng kể tôn ty. Gia tộc nội ngoại đều lo lắng khổ sở vì họ. Cho đến
cũng chẳng kiêng sợ phép nước. Ác nghiệp chiêu báo, sau khi chết đọa vào tam đồ
chịu vô lượng khổ não, xoay vần trong đó nhiều đời nhiều kiếp không có thời
gian ra khỏi, khó được giải thoát, đau đớn chẳng thể nói được. Ðây là ba đại
ác, ba thống, ba thiêu, như lửa lớn đốt cháy thân người.
Có
ai ở trong ấy nhứt tâm chế ý đoan thân chánh hạnh chuyên làm điều lành chẳng
phạm điều ác, thì được độ thoát, có nhiều phước đức, hoặc sanh lên trời hay
chứng nhập Niết bàn. Ðây là đại thiện vậy.
Ðiều ác thứ bốn: - Người đời chẳng nghĩ làm lành để dạy
bảo lẫn nhau, lại cùng làm những điều ác, những là lưỡng thiệt, ác khẩu, vọng
ngôn, ỷ ngữ. Cãi vã chê bai, ganh ghét người lành, hãm hại người hiền rồi
đứng bên vui thích. Bất hiếu với cha mẹ, khinh mạn Sư trưởng. Vô
tín với bằng hữu, tự tôn tự đại, cho mình là hay là phải, cậy quyền ỷ thế áp
bức người, làm ác không biết hổ thẹn, chẳng tự biết mình. Tự cho mình là
khỏe muốn mọi người kính nể. Chẳng sợ trời đất thần minh nhựt nguyệt,
chẳng chịu làm lành, khó giáo hóa. Không kiêng sợ ai luôn luôn kiêu
mạn. Cậy có chút ít phước đức do đời trước làm được điều lành nhỏ, đời
nay làm ác, phước đức tiêu diệt, sau khi chết, tội báo tự nhiên chẳng hề rời
lìa, đọa vào tam đồ chịu vô lượng thống khổ, đến lúc này ăn năn đâu còn
kịp. Xoay vần trong ấy nhiều đời nhiều kiếp không có thời kỳ ra khỏi, khó
được giải thoát, đau khổ chẳng nói được. Ðây là bốn đại ác, bốn thống,
bốn thiêu, như lửa lớn đốt cháy thân người.
Có ai ở trong ấy nhứt tâm chế ý đoan thân
chánh hạnh chuyên làm những điều lành chẳng phạm điều ác, thì được độ thoát có
nhiều phước đức, hoặc sanh lên cõi trời, hay chứng nhập Niết bàn. Ðây là
bốn đại thiện vậy.
Ðiều ác thứ năm. - Người đời ỷ lại lười biếng chẳng chịu
làm điều lành sửa mình tu nghiệp. Gia đình quyến thuộc đói rét khốn
khổ. Cha mẹ có dạy răn thì giận dỗi chống trái, bất hiếu bất mục, phụ ân
vô nghĩa, không có lòng báo đáp. Nghèo cùng khốn thiếu, sang đoạt phóng
đãng, lấy ngang của người để tự cung cấp. Thích ngon ưa rượu, ăn uống vô
độ, gây gổ xung đột chẳng biết nhơn tình. Thấy người hay tốt thì ganh
ghét. Vô nghĩa vô lễ không hề kiêng kỵ. Phóng túng chơi bời không ai
khuyên can được. Với lục thân quyến thuộc, thiếu đủ không hề đoái
hoài. Chẳng nghĩ ơn cha mẹ, chẳng biết nghĩa thầy bạn. Tâm thường
nghĩ ác, miệng thường nói ác, thân thường làm ác, không có được chút
lành. Chẳng tin kinh pháp của chư Phật hiền thánh. Chẳng tin hành
đạo sẽ được giải thoát. Chẳng tin sau khi chết thần thức đầu thai trở
lại. Chẳng tin làm lành được lành, làm dữ được dữ. Muốn giết người
chơn tu, phá rối chúng Tăng. Muốn hại cha mẹ anh em quyến thuộc.
Tông tộc đều chán ghét muốn nó chết đi. Người như vậy, tâm ý họ cháy
phừng ngu si mê muội mà họ tự cho là sáng suốt. Chẳng biết sanh từ đâu
đến, chết sẽ về đâu. Bất nhơn bất thuận ác nghịch trời đất, mà lại muốn
cầu may được trường thọ. Có ai thương dạy bảo điều lành lẽ phải, khai thị
con đường sanh tử thiện ác, họ vẫn chẳng tin, khổ tâm cạn lời cũng thành vô
ích. Lòng họ bít lấp, ý họ chẳng tỏ ngộ. Lúc sắp chết mới biết lo
sợ ăn năn thì đâu còn kịp nữa. Trong trời đất năm loài phân minh, rộng
rãi mịt mờ mênh mênh mông mông. Báo ứng lành dữ, họa phước kéo dắt tự
mình lãnh chịu, không ai thay thế được. Người lành làm lành thì từ vui
vào vui, từ sáng vào sáng. Người dữ làm dữ thì từ khổ vào khổ, từ tối vào
tối. Ai biết được đó? Chỉ một mình đức Phật biết rõ dạy bảo khai
thị. Người tin làm theo rất ít. Vì thế nên sanh tử chẳng thôi, ác
đạo chẳng tuyệt. Người đời tạo ác như vậy nên có tự nhiên tam đồ khổ sở
vô lượng. Xoay vần trong ấy nhiều đời nhiều kiếp không có thời kỳ ra
khỏi, khó được giải thoát đau đớn chẳng nói được. Ðây là năm đại ác, năm
thống, năm thiêu, như lửa lớn đốt cháy thân người.
Nếu
có ai trong ấy nhứt tâm chế ý đoan thân chánh niệm, ngôn hạnh tương ưng, việc
làm chí thành, chuyên làm điều lành chẳng phạm điều ác thì được độ thoát, có
nhiều phước đức được sanh lên cõi trời hay chứng nhập Niết bàn. Ðây là
năm đại thiện vậy.
Nầy
A Dật Ða! Ðó là năm điều ác trong đời khổ não như vậy. Năm thống, năm
thiêu xoay vần sanh lẫn nhau. Chẳng tu đức lành mà chỉ làm những điều ác
thì đều tự nhiên đọa vào ác đạo. Hoặc có kẻ hiện đời nay, trước hết bị
bệnh hoạn cầu chết chẳng được, cầu sống chẳng được, cho mọi người thấy sự chiêu
cảm của tội ác. Khi thân chết, thần thức theo ác nghiệp mà đi vào ba ác
đạo chịu vô lượng thống khổ.
Tội ác từ mảy nhỏ lần thành to lớn, đều do
tham tài sắc chẳng chịu ban bố. Chạy theo dục vọng si cuồng, phiền não buộc
trói không tháo mở được. Tranh lợi về mình chẳng biết tự xét. Phú quí vinh hoa
đương thời đắc ý, chẳng hay nhẫn nhục, chẳng biết làm lành. Không bao lâu oai
thế tiêu diệt, thân bị khổ nhọc càng ngày càng nặng, nhơn xấu quả khổ, nhơn quả
tự nhiên không hề sai sót, xưa nay đều như vậy thiệt rất đáng thương.
THẾ GIAN NÀY VÔ THƯỜNG ĐAU KHỔ, CÕI CỰC
LẠC THÌ AN VUI GIẢI THOÁT, VẬY CHÚNG TA HÃY TINH TẤN TU TẬP, SIÊNG NĂNG NIỆM
PHẬT ĐỂ SỚM ĐƯỢC VÃNG SANH VỀ MIỀN CỰC LẠC
Qua những điều đã nói, giải thích và
chứng minh ở trên, chúng ta thấy cõi Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà là
một cõi trang nghiêm, thanh tịnh, an lạc. Cõi Ta Bà thì vô thường, sanh diệt, ô
uế, bất tịnh, ác độc, khổ đau. Vậy chúng ta hãy siêng năng tinh tấn tu tập,
niệm Phật A Di Đà để sớm thoát khỏi Ta Bà vãng sanh về cõi Cực Lạc.
Cuộc đời, mạng sống của ta rất ngắn
ngủi, chúng ta không thể chần chờ, do dự. Nếu ta chần chờ do dự không chịu tu
tập, niệm Phật thì sẽ bị bỏ lỡ cơ hội quý báu này, để rồi trầm luân trong biển
khổ sanh tử, luân hồi không biết còn cơ hội gặp lại Phật pháp, để được tu tập
nữa hay không? Nếu có Phật pháp chưa chắc ta tu tập được. Vì khi này ta đã thay
hình đổi dạng, hoặc làm thân địa ngục ngạ quỷ súc sanh chịu nhiều đau khổ không
thể tu tập. Hoặc làm người nhưng lại sanh ở vùng biên địa khó gặp được Phật
pháp.
Lại mạng sống con người rất ngắn ngủi,
nói cuộc đời sống được trăm năm nhưng thật sự mấy ai sống được trăm năm. Con
quỷ vô thường thật khắc nghiệt nó không chừa, không hẹn một ai, nếu không may
nó đến gỏ cửa nhà ta thì than ôi! Ta
đành phải vĩnh biệt người thân, ra đi không lời từ biệt và không biết về đâu,
thật là cô đơn lạnh lẻo trong cõi u minh.
Sau đây chúng tôi xin kể một câu
chuyện nói đến mạng sống vô thường ngắn ngủi của con người.
Vào thời Đức Phật, một hôm Ngài gọi
các vị Tỳ Kheo mà hỏi rằng:
- Mạng người sống được bao lâu?
Một vị Tỳ Kheo thưa:
- Bạch Đức Thế Tôn! Mạng người sống
được một trăm năm!
Đức Phật trả lời.
- Ông chưa hiểu đạo!
Một vị khác đứng ra thưa:
- Bạch Đức Thế Tôn! Mạng người sống được vài mươi năm!
Đức Phật lại nói:
- Ông chưa hiểu đạo!
Lại một vị khác thưa:
- Bạch Đức Thế Tôn! Mạng người sống trong một bữa ăn!
Đức Phật trả lời:
- Ông cũng chưa hiểu đạo!
Sau cùng, có một vị Tỳ Kheo thưa rằng:
- Bạch Đức Thế Tôn! Mạng người sống trong hơi thở!
Đức Phật tán dương vị Tỳ Kheo này và nói rằng:
- Ông đã hiểu đạo!
Qua mẫu chuyện trên chúng ta thấy mạng sống của con
người vô thường, mỏng manh không biết sống chết khi nào. Mạng sống của ta chỉ
trong hơi thở, nếu hít vào mà không thở ra, hay thở ra mà không hít vào là
chết. Trên đời này không có ai dám khẳng định tôi sống được bao nhiêu năm hay
đến già.
Nhìn lại trên thế gian, chúng ta thấy cái chết không
chừa, không hẹn một ai dù trẻ hay già. Có người chưa chào đời đã chết, chết từ
trong bào thai mẹ. Có người được khóc vài tiếng “oa oa” rồi vội lìa đời. Có
người sống được vài ngày, vài tháng, vài năm, vài chục năm v.v… Vì vậy, ngoài
nghĩa địa thiếu gì mồ hoang của kẻ tóc xanh.
Biết được cuộc đời vô thường, mạng sống mỏng manh nên
chúng ta cố gắng lo tu tập, niệm Phật. Mình còn sống một giờ, một phút, một
giây là lo tu tập một giờ, một phút, một giây. Chúng ta không thể vì gia đình,
sự nghiệp mà hẹn.
Xưa có vị Hòa Thượng thấy thọ mạng của một vị cư sĩ
sống không bao lâu nữa nên Hòa Thượng khuyên vị này tu tập.
Vị cư sĩ thưa với Hòa Thượng:
- Bạch Hòa Thượng! Nhà con còn nhiều việc phải làm,
lại con cái chưa cưới gả. Khi nào con sắp xếp việc nhà, cưới gã con cái xong
chừng đó con sẽ tu.
Một năm sau, Hòa Thượng đến lại nhà vị cư sĩ đó, đáng
thương thay, vị cư sĩ đã trỡ thành người thiên cổ.
Vậy bao nhiêu việc nhà, chuyện cưới gã con cái vị này
làm xong chưa. Thật đáng thương cho vị cư sĩ không nghe lời Hòa Thượng phải
ngậm ngùi nơi chín suối.
Chuyện thứ hai.
Có một người phát tâm đi xuất gia. Người này đã có vợ,
người vợ đang mang thai.
Một hôm anh đến người vợ nói ý định xuất gia của mình.
Người vợ tìm cách ngăn cản nên nói rằng:
- Hiện giờ em đang mang thai, anh hãy đợi đến khi em
sinh nở, anh thấy mặt con rồi hãy đi!
Sau khi vợ sinh xong, người chồng nói lại ý định xuất
gia của mình.
- Người vợ lại nói! Anh hãy đợi cho con mình khôn lớn
rồi hãy đi!
Cứ như vậy, người vợ lại sanh đứa con thứ hai, thứ ba
v.v… Người chồng vì bận rộn công việc gia đình, vợ con nên đã đánh mất cơ hội
xuất gia, tu tập trên con đường giải thoát giác ngộ.
Qua hai mẫu chuyện ví dụ trên cho ta biết được, một
khi chúng ta đã ý thức, hiểu, giác ngộ được cuộc đời là vô thường giả tạm khổ
đau. Tu tập là con đường quan trọng đưa
chúng ta ra khỏi sanh tử luân hồi. Vậy chúng ta hãy buôn xả mọi chuyện thế gian
mà lo tu tập. Nếu chưa buôn xã hết được thì ta cũng phải sắp xếp việc nhà, việc
cửa cho gọn gàng để có thời gian tu tập. Chúng ta đừng để chuyện đời, chuyện
thế gian chi phối hết thời gian của mình. Chuyện đời, việc thế gian rất nhiều,
có trăm ngàn công việc ta không thể làm hết được. Chỉ khi nào chết mới hết việc
mà thôi. Đời người rất nhiều việc, hồi còn nhỏ thì lo đi học, lớn lên lo chuyện
gia đình sự nghiệp, tuổi già thì lo canh nhà giữ cháu cho con cái đi làm. Nếu
ta hẹn làm cho xong việc hay hết việc mới tu tập thì biết khi nào công việc mới
xong. Vậy bây giờ chúng ta phải chọn ba cách sau để thực hành. Một là phải buôn
xã những công việc không cần thiết. Hai là sắp xếp công việc cho gọn nhẹ để có
thời gian tu tập. Ba là tu tập trong bận rộn, trong công việc. Pháp môn Tịnh độ
thực hành rất dễ, trong mọi hoàn cảnh, trong mọi công việc đều tu tập được.
Người nông phu thì vừa cuốc đất vừa niệm Phật. Người buôn bán, khi khách đến
thì bán, khách đi thì niệm Phật. Người làm văn phòng thì niệm Phật trong những
lúc nghỉ ngơi, giải lao v.v… Nói chung, hoàn cảnh công việc không trỡ ngại
người niệm Phật. Ngược lại sự tu tập, niệm Phật của ta lại đem lại hiệu quả rất
lớn trong công việc. Vì khi niệm Phật, tâm ta tỉnh táo, sáng suốt nên giải
quyết được nhiều việc rắc rối, khó khăn. Vậy kính khuyên mọi người hãy siêng
năng tinh tấn tu tập, niệm Phật để sớm được vãng sanh về Cực Lạc, thoát khổ
được vui.
Thế giới này còn có bao nhiêu sự dơ bẩn, cấu uế, bất
tịnh, ác độc, nguy hiểm, khổ đau. Những bất tịnh, ác độc, khổ đau này đã nói ở
phần trên như: tam khổ, bát khổ, đời ngũ trược khổ v.v… Chúng ta biết được như
vậy thì ta còn mong muốn, tham đắm, bám víu vào thế gian này làm gì nữa. Ta còn
tham luyến thế gian bao nhiêu thì bi lụy, khổ đau bấy nhiêu mà thôi.
Từ vô thỉ kiếp đến nay chúng ta vì vô minh, điên đảo
nên đã trầm luân trong sanh tử luân hồi không biết bao nhiêu đời, bao nhiêu
kiếp không thể tính hết được. Sự khổ đau của ta cũng không diễn tả hết được.
Khi ta ở địa ngục phải nằm trên bàn chông, trên chảo dầu sôi, trong lò lửa
nóng. Khi ta làm ngạ quỷ chịu cảnh đói khát trần tuồng hàng vạn năm. Khi ta làm
súc sanh thì ăn dơ ở bẩn, lại còn ăn nuốt giết hại lẫn nhau. Nếu có làm được
thân người thân trời cũng không thoát khỏi cảnh sanh tử luân hồi, cảnh sanh ly
tử biệt, không thoát khỏi sự vô thường thay đổi. Nhưng trong vòng luân hồi,
chắc chúng ta đọa vào đường ác thì nhiều mà sanh vào đường lành thì ít, vì tâm
ta đầy dẫy tham sân si phiền não. Nói chung còn trầm luân trong sanh tử luân
hồi là còn khổ đau dù ở cảnh giới nào, chỉ có khổ đau ít hay nhiều mà thôi.
Trong kinh Đức Phật ví dụ; nước mắt của chúng sanh
nhiều hơn nước biển. Xương thịt máu mủ của chúng sanh trong những kiếp luân hồi
nếu cất chứa lại thì vũ trụ này không chứa đủ. Trong vòng sanh tử luân hồi
chúng ta khổ đau đã nhiều, nước mắt của ta đã chảy xuống quá nhiều như biển vậy
sao hôm nay ta không giác ngộ, quay đầu, chẳng lẽ ta lại chấp nhận, cam chịu
khổ đau nữa hay sao?
Chư Phật thương sót chúng sanh trầm luân trong sông mê
biển khổ, nên các Ngài thị hiện ra đời đem pháp giải thoát giác ngộ chỉ dạy
chúng sanh tu tập thoát khổ được vui. Từ vô số kiếp đến nay có biết bao nhiêu
chư Phật ra đời giáo hóa chúng sanh xong lại nhập Niết Bàn. Có biết bao nhiêu
chúng sanh được độ, được giải thoát, làm Bồ Tát, làm Phật. Biết bao nhiêu chư
Phật ra đời, biết bao nhiêu chúng sanh được độ thoát, vậy sao ta hôm nay vẫn
còn là chúng sanh, phàm phu trôi lăn trong sanh tử. Như vậy thật đáng buồn đáng
tủi cho thân phận của mình phải không? Chắc cũng vì tính chần chờ, do dự, nghi
ngờ mà ta đánh mất cơ hội tu tập giải thoát nơi chư Phật quá khứ.
Hôm nay, một cơ hội vàng, cơ hội hàng ngàn vạn năm đã
đến. Lúc này chúng ta không được chần chờ do dự nữa mà phải biết nắm bắt cơ
hội, nếu không thì biết đến đời kiếp nào chúng ta mới thoát khỏi biển khổ sanh
tử khổ đau này. Chúng ta giờ có phước duyên nhiều đời nhiều kiếp nên hôm nay
gặp được chánh pháp Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Lại còn phước đức thắng
duyên hơn nữa là gặp được Pháp môn Tịnh độ là pháp thù thắng, tối thượng, con
đường tu tắt một đời giải thoát, một đời thành Phật. Vậy bây giờ chúng ta hãy
học tập và ứng dụng pháp môn này để tu tập hành trì. Nếu có gặp khó khăn trở
ngại đến đâu, cho đến mất tánh mạng đi nữa ta cũng không lùi bước, thối tâm.
Trong Kinh Vô Lượng Thọ Đức Phật dạy; nếu nơi nào có nói Kinh này (Kinh Vô
Lượng Thọ), dù cho có lửa mạnh cháy hàng ngàn dặm cũng phải vượt qua nghe học
và thọ trì.
Cuộc đời chúng ta sống không được bao lâu, như gió
thoảng mây bay. Mới tóc xanh đó đã đến bạc đầu, trong thời gian, chúng ta cũng
không mấy sung sướng, chỉ khổ đau là nhiều. Hôm nay ta biết đem cuộc đời ngắn
ngủi này tu tập để đổi lấy thời gian bất tận vô lượng thọ ở Tây Phương Cực Lạc.
Biết lấy kiếp luân hồi khổ đau này tu tập để đổi lấy sự an lạc, giải thoát ở
cõi Tây Phương Cực Lạc thì có gì quý báu so sánh cho bằng.
Cõi Tây Phương Cực Lạc là cõi do nguyện lực và phước
đức trí tuệ của Đức Phật A Di Đà lập nên. Lại cõi này là cõi đồng nghiệp của
những chúng sanh tu tập phước đước trí tuệ ở mười phương nương về. Nên cõi Cực
Lạc rất trang nghiêm thanh tịnh, an lạc, giải thoát. Ở đây sự ăn mặc tự nhiên
đều tùy ý người, thân có thần thông, trí huệ sáng suốt, hàng ngày được chư Bồ
Tát như Bồ Tát Quán Âm, Bồ Tát Đại Thế Chí, Đức Phật A Di Đà chỉ dạy tu tập. Sự
tu tập cũng rất nhanh, một đời có thể thành Phật. Một thế giới huy hoàng lộng
lẫy tốt đẹp, an lạc, giải thoát như vậy sao chúng ta không chịu tu tập, không
lo niệm Phật để được sanh về Cực Lạc, thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi. Vậy bây
giờ chúng ta, những người có duyên gặp được Pháp môn Tịnh độ, chúng ta cùng
nhau tu tập. Ta phải siêng năng tinh tấn niệm Phật không kể gian khổ khó khăn.
Pháp môn Tịnh độ, phương pháp tu tập rất dễ, phù hợp
với mọi căn cơ, ai thực hành tu tập cũng được, miễn là có niềm tin ở cõi Cực
Lạc và Đức Phật A Di Đà. Hàng ngày chỉ chuyên tâm niệm Phật. Lúc đi đứng nằm
ngồi đều nhớ Phật niệm Phật. Ngoài ra tùy theo hoàn cảnh nhân duyên ta có thể
làm những việc thiện như cúng dường, bố thí, phóng sanh v.v… và đem công đức
này hồi hướng về Tịnh độ. Nếu thực hành, tu tập được như vậy thì lo gì không
được vãng sanh về Cực Lạc, không được giải thoát giác ngộ.
Nếu người công việc bận rộn thì vừa làm vừa niệm Phật.
Nhưng một ngày phải có 2 thời khóa công phu niệm Phật vào buổi tối và buổi
khua. Buổi tối đi làm về, ăn cơm nghỉ ngơi xong chúng ta ra trước bàn Phật,
ngồi ngay ngắn, trang nghiêm niệm Phật khoảng từ 30 phút hay 1 tiếng, rồi phát nguyện hồi hướng vãng
sanh và đi ngủ. Buổi khuya chúng ta thức dậy vào khoảng 4 hay 5 giờ sáng, ra
trước bàn Phật lạy Phật, niệm Phật khoảng từ 30 phút hay 1 tiếng, rồi phát nguyện hồi hướng vãng
sanh, sau đó đi làm.
Người công việc rảnh rổi, nhất là những người già
không làm gì, thì mỗi ngày nên hành trì 4 thời công phu niệm Phật. Buổi khuya
thức dậy vào khoảng 4 hay 5 giờ, sau đó công phu niệm Phật từ 1 tiếng đến 1
tiếng rưỡi, hay nhiều hơn tùy theo sức khỏe của mỗi người. Buổi sáng công phu
niệm Phật từ 8 giờ đến 9 hay 10 giờ. Buổi chiều công phu niệm Phật từ 2 giờ đến
3 hay 4 giờ. Buổi tối công phu niệm Phật từ 7 giờ đến 8 hay 9 giờ. Người công
việc rảnh rổi phải tập 1 thời công phu niệm Phật từ 1 tiếng đồng hồ trỡ lên.
Ngoài 4 thời tu tập chính này, trong những lúc đi đứng nằm ngồi đều phải chuyên
tâm niệm Phật, không nên bàn tán hay nói chuyện thế gian. Nếu chúng ta thực
hành tu tập như vậy thì nhất định được vãng sanh Cực Lạc, ở phẩm vị cao, sớm
thành Phật đạo.
Người niệm Phật, hiện tại hay tương lai đều được lợi
ích. Hiện tại tâm được an lạc, phiền não nghiệp chướng tiêu trừ. Sau khi xả bỏ
báo thân được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, được giải thoát an lạc.
Pháp môn Tịnh độ thù thắng, lợi ích như vậy. Vậy những
ai có thắng duyên đang tu tập pháp này thì càng siêng năng, tinh tấn thêm lên
để sự tu tập mau đạt kết quả. Những ai bây giờ mới có duyên gặp được pháp môn
này, thì ngay bây giờ thực hành tu tập liền, không chần chờ do dự, và phải lập
chí siêng năng, dũng mãnh niệm Phật để sớm được vãng sanh Cực Lạc. Ta lại đem
pháp môn này giới thiệu, chỉ dạy lại cho những người có duyên, để mọi người
cùng nhau tu tập niệm Phật, cùng vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.
DẪN CHỨNG NHỮNG MẪU CHUYỆN NIỆM PHẬT
VÃNG SANH CỦA NGƯỜI XƯA
Sau đây, chúng tôi sẽ trích dẫn những mẫu chuyện niệm
Phật vãng sanh của người xưa để chứng minh, làm tăng thêm niềm tin của người
niệm Phật. Những mẫu chuyện này kể thứ tự từ cao đến thấp, nghĩa là từ bậc
thượng căn thượng trí đến người bình dân, người ác và súc sanh. Như chúng ta đã
biết, Pháp môn tịnh độ là pháp môn thù thắng, dễ tu, mau chứng, phù hợp với mọi
trình độ căn cơ chúng sanh. Trên từ chư Bồ Tát Thánh Nhân, dưới đến hàng phàm
phu phiền não nghiệp chướng sâu dày, cho đến hàng xúc sanh, nếu ứng dụng tu tập
niệm Phật đều có kết quả, đều được vãng sanh. Những mẫu chuyện này trích dẫn
trong hai bộ sách: “Đường Về Cực Lạc và Mấy Điệu Sen Thanh, của Hòa Thượng Trí
Tịnh và Hòa Thượng Thiền Tâm”.
1. Lời phát
nguyện vãng sanh của Bồ Tát Phổ Hiền
Bồ Tát Phổ Hiền là vị Đại Bồ Tát. Trong Kinh Hoa
Nghiêm, trước Đức Phật Bổn Sư và chúng hội, Ngài phát nguyện vãng sanh, đồng
thời cũng khuyến hóa chúng hội hiện tại và tương lai phát nguyện cầu vãng sanh
Tây Phương Cực Lạc. Lời phát nguyện của Ngài như sau:
Nguyện tôi đến lúc mạng chung
Trừ hết tất cả những chướng ngại
Diện kiến Đức Phật A Di Đà
Liền được vãng sanh Cực Lạc quốc
Tôi đã vãng sanh Cực Lạc rồi
Hiện tiền thành tựu đại nguyện này
Viên mãn tất cả không còn thừa.
Lợi lạc hết thảy chúng sanh giới.
Chúng hội của Phật đều thanh tịnh
Tôi liền thác sanh trong hoa sen
Nhìn thấy Như Lai Vô Lượng Quang
Hiện tiền thọ ký tôi thành Phật.
Được Đức Như Lai thọ ký rồi
Hóa vô số trăm câu chi thân
Trí lực rộng lớn khắp mười phương
Lợi khắp tất cả chúng sanh giới.
2. Pháp Chiếu Đại Sư (Vị Tổ thứ 4 của Tông Tịnh Độ)
Pháp Chiếu đại sư, chưa rõ là người bậc
thế nào? Trong năm Đại Lịch thứ hai đời nhà Đường, hàng đạo tục được biết ngài
ở chùa Vân Phong tại Hoành Châu, thường chuyên cần tu tập.
Một buổi sáng, vào lúc thanh trai, ngài
thấy trong bát cháo ở Tăng đường; hiện rõ bóng mây ngũ sắc. Trong mây hiện ra
cảnh sơn tự, phía Đông bắc chùa có dãy núi, chân núi có khe nước. Phía Bắc khe
nước có cửa ngõ bằng đá. Trong ngõ đá lại có một ngôi chùa to, biển đề: “Đại
Thánh Trúc Lâm Tự”. Mấy hôm sau, ngài lại thấy nơi bát cháo hiện rõ cảnh chùa
lớn ấy, gồm vườn ao, lâu đài tráng lệ nguy nga, và một vạn Bồ Tát ở trong đó.
Ngài đem cảnh tượng ấy hỏi các bậc tri
thức. Một vị cao Tăng bảo: “Sự biến hiện của chư Thánh khó nghĩ bàn được. Nhưng
nếu luận về địa thế non sông, thì đó là cảnh Ngũ Đài Sơn”. Nghe lời ấy Ngài có
ý muốn đến viếng Ngũ Đài thử xem sự thật ra thế nào".
Năm Đại Lịch thứ tư, Đại sư mở đạo tràng
niệm Phật tại chùa Hồ Đông. Ngày khai hội cảm mây lành giăng che chốn đạo
tràng. Trong mây hiện ra cung điện lầu các Phật A Di Đà cùng hai vị Bồ Tát Quán
Âm, Thế Chí hiện thân vàng sáng chói cả hư không. Khắp thành Hoành Châu, bá
tánh trông thấy đều đặt bàn đốt hương đảnh lễ. Cảnh tượng ấy hiện ra giây lâu
mới ẩn mất. Do điềm lành này, rất nhiều người phát tâm tinh tấn niệm Phật. Đạo
tràng khai liên tiếp được năm hội.
Một hôm, Đại sư gặp cụ già bảo: “Ông từng
có ý niệm muốn đến Kim Sắc thế giới tại Ngũ Đài Sơn, để đảnh lễ đức Đại Thánh
Văn Thù sao đến nay vẫn chưa thật hành ý nguyện?”. Nói xong liền ẩn mất. Được
sự nhắc nhở, ngài sửa soạn hành trang, cùng mấy pháp hữu, đồng viếng Ngũ Đài.
Năm Đại Lịch thứ năm, vào ngày mùng sáu
tháng tư, Đại sư cùng đồng bạn mới đến chùa Phật Quang ở huyện Ngũ Đài. Đêm ấy,
vào khoảng canh tư, Ngài thấy ánh sáng lạ từ xa chiếu đến thân mình, liền nhắm
phỏng chừng tia sáng mà theo dõi. Đi được năm mươi dặm thì đến một dãy núi,
dưới chân núi có khe nước, phía Bắc khe có cửa cổng bằng đá. Nơi cửa có hai vị
đồng tử đứng đón chờ, tự xưng là Thiện Tài và Nan
Đà. Theo chân hai đồng tử dẫn đường, Ngài đến một ngôi chùa nguy nga, biển đề:
“Đại Thánh Trúc Lâm Tự”. Nơi đây đất vàng, cây báu, ao sen, lầu các rất kỳ diễm
trang nghiêm. Cảnh giới qủa đúng như ảnh tượng đã thấy nơi bát cháo khi trước.
Ngài vào chùa, lên giảng đường, thấy Đức
Văn Thù bên Tây, đức Phổ Hiền bên Đông. Hai vị đều ngồi tòa sư tử báu cao đẹp,
đang thuyết pháp cho một muôn vị Bồ tát ngồi phía dưới lặng lẽ lắng nghe. Pháp
Chiếu bước đến chí thành đảnh lễ, rồi qùy xuống thưa rằng: "Kính bạch Đại
Thánh! Hàng phàm phu đời mạt pháp, cách Phật đã xa, chướng nặng nghiệp sâu, tri
thức kém hẹp, tuy có Phật tánh mà không biết làm sao hiển lộ. Giáo pháp của
Phật lại qúa rộng rãi mênh mông, chưa rõ pháp môn nào thiết yếu dễ tu hành cho
mau được giải thoát?"
Đức Văn Thù bảo:
Thời kỳ này chính là đúng lúc các người nên niệm
Phật. Trong các hành môn không chi hơn niệm Phật và gồm tu phước huệ. Thuở đời
qúa khứ, ta nhờ quán Phật, niệm Phật, cúng dường Tam Bảo mà được Nhất thiết
chủng trí. Tất cả các pháp như: “ Bát Nhã Ba La Mật, những môn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét