Thứ Bảy, 7 tháng 3, 2015

PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ THÙ THẮNG (TT)

thiền định rộng sâu, cho đến chư Phật cũng từ niệm Phật mà sanh. Vì thế nên biết, Niệm Phật là vua trong các pháp môn”.
Ngài Pháp Chiếu lại hỏi:
Bạch Đại Thánh! Nên niệm như thế nào?
Đức Văn Thù dạy:
Về phương Tây của thế giới này, có Phật A Di Đà giáo chủ cõi Cực Lạc. Đức Thế Tôn đó nguyện lực không thể nghĩ bàn! Ngươi nên chuyên niệm danh hiệu của Ngài nối tiếp không gián đoạn, thì khi mạng chung, quyết được vãng sanh, chẳng còn bị thối chuyển.
Nói xong, hai vị đại Thánh đồng đưa tay vàng xoa đầu ngài Pháp Chiếu và bảo rằng:
Do ngươi niệm Phật, nên không lâu sẽ chứng được qủa Vô thượng Bồ Đề. Nếu thiện nam tín nữ nào muốn mau thành Phật, thì không chi hơn niệm Phật. Kẻ ấy nhất định sẽ mau lên ngôi Chánh Đẳng Chánh Giác.
Được hai vị Đại Thánh thọ ký xong ngài Pháp Chiếu vui mừng đảnh lễ rồi từ tạ lui ra.
Hai đồng tử khi nãy theo sau tiễn đưa. Vừa ra khỏi cổng, Ngài quay lại thì người và cảnh đều biến mất. Ngài liền dựng đá đánh dấu chỗ ấy, rồi trở về chùa Phật Quang.
Đến ngày 13 tháng 4, Pháp Chiếu dại sư cùng hơn năm mươi vị Tăng đồng đến hang Kim Cang, thành tâm đảnh lễ hồng danh ba mươi lăm Đức Phật. Vừa lạy được mười lượt, Ngài bỗng thấy hang Kim Cang rộng lớn thanh tịnh trang nghiêm có cung điện bằng lưu ly, Đức Văn Thù, Phổ Hiền đồng ngự trong ấy. Hôm khác, Ngài lại đi riêng đến hang Kim Cang, gieo mình đảnh lễ, nguyện thấy Đại Thánh. Đang khi lạy xuống vừa ngước lên, Đại sư bỗng thấy một Phạm Tăng tự xưng là Phật Đà Ba Ly. Vị này đưa Ngài vào một đại điện trang nghiêm, biển đề là Kim Cang Bát Nhã Tự. Toàn điện nhiều thứ báu lạ đẹp mầu, ánh sáng lấp lánh. Dù đã nhiều lần thấy sự linh dị, nhưng Ngài vẫn chưa thuật lại với ai cả.
Tháng chạp năm ấy, Ngài nhập đạo tràng niệm Phật nơi chùa Hoa Nghiêm định kỳ tuyệt thực tu hành, nguyện vãng sanh về Tịnh độ. Đêm đầu hôm, ngày thứ bảy, đang lúc niệm Phật, Đại sư bỗng thấy một vị Phạm Tăng bước vào bảo: “Ông đã thấy cảnh giới ở Ngũ Đài Sơn, sao không truyền thuật cho người đời cùng được biết?”. Nói xong, liền ẩn mất.
Hôm sau, trong lúc niệm Phật, vì Phạm Tăng hiện ra, bảo y như trước. Ngài đáp: “Không phải tôi dám giấu kín thánh tích, nhưng chỉ sợ nói ra người đời không tin sanh sự chê bai mà thôi”. Phạm Tăng bảo: “Chính đức Đại Thánh Văn Thù hiện tại ở núi này, mà còn bị người đời hủy báng, thì ông còn lo ngại làm chi? Hãy đem những cảnh giới mà ông thấy được truyền thuật với chúng sanh làm duyên cho kẻ được biết, phát khởi tâm Bồ Đề”. Ngài tuân lời, nhớ kỹ lại những sự việc đã thấy, rồi ghi chép ra truyền lại cho mọi người.
Năm sau, sư Thích Huệ Tùy ở Giang Đông cùng với chư Tăng chùa Hoa Nghiêm, theo Pháp Chiếu đại sư đến hang Kim Cang lễ Phật. Kế đó lại đến chỗ dựng đá lúc trước để chiêm ngưỡng dấu cũ. Đại chúng còn đang ngậm ngùi ngưỡng vọng, bỗng đồng nghe tiếng chuông hồng chung từ vách đá vang ra. Giọng chuông thanh thoát ngân nga, nhặt khoan ràng rẽ. Ai nấy đều kinh lạ đồng công nhận những lời thuật của ngài Pháp Chiếu là đúng sự thật. Vì muốn cho người viếng cảnh đều phát đạo tâm, Tăng chúng nhân cơ duyên ấy, khắc những sự việc của ngài nghe thấy vào vách đá. Về sau ngay nơi đó, một cảnh chùa trang nghiêm được dựng lên, vẫn lấy hiệu là Trúc Lâm Tự để lưu niệm.
Triều vua Đức Tông, Pháp Chiếu đại sư mở đạo tràng niệm Phật tại Tinh Châu, cũng liên tiếp được năm hội. Mỗi đêm vua và người trong cung nghe tiếng niệm Phật rất thanh thoát từ xa đưa vẳng lại. Sau khi cho người dò tìm, được biết đó là tiếng niệm Phật ở đạo tràng tại Tinh Châu, nhà vua phái sứ giả mang lễ đến thỉnh ngài vào triều. Ngài mở đạo tràng niệm Phật tại hoàng cung, cũng gồm năm hội. Vì thế, người đương thời gọi ngài là Ngũ Hội Pháp Sư.
Từ đó Đại sư tinh tấn tu hành, ngày đêm không trễ. Một đêm nọ Ngài thấy vị Phạm Tăng khi trước là Phật Đà Ba Ly hiện đến bảo: “Hoa sen công đức của ông nơi ao thất bảo ở cõi Cực Lạc đã thành tựu. Ba năm sau là đúng thời kỳ hoa nở, ông nên chuẩn bị”. Đến kỳ hạn, Đại sư gọi Tăng chúng lại căn dặn rằng: “Ta về Cực Lạc, mọi người phẳi gắng tinh tu!”. Nói xong, ngài ngồi ngay yên lặng mà tịch.
3. Hòa Thượng Tăng Huyền
Tăng Huyền hòa thượng người Tinh Châu. Hòa thượng thâm đạt thiền tông, thông giáo lý. Giải cùng hạnh đều trọn đủ. Năm 96 tuổi, thấy Đạo Xước thiền sư giảng Quán Kinh cùng trứ tác Tịnh Độ luận, Hòa thượng mới hồi tâm lo niệm Phật. Sợ rằng tuổi đã quá già không còn sống bao lâu nên hòa thượng tu Tịnh nghiệp rất chuyên cần: Mỗi ngày lễ Phật một nghìn lạy, niệm Phật chín vạn câu, luôn như vậy trọn 5 năm không một ngày thiếu trễ.
Một hôm nhuốm bịnh nhẹ, Hòa Thượng hội đệ tử lại mà bảo rằng:  “Đức A Di Đà Phật trao cho ta chiếc áo thơm đẹp, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí cùng Thánh Chúng đều đứng trước ta, vô số hóa Phật chật cả hư không. Ai nấy ở lại gắng tu. Ta xin đi”. Dứt lời Hòa Thượng liền tịch. Mùi thơm lạ ngào ngạt trọn bảy ngày mà chưa tan.
Bấy giờ có Khải Phương pháp sư và Viên Quả pháp sư mục kích Hòa Thượng vãng sanh. Hai người đều phát tâm cầu sanh Tịnh Độ. Đồng đến chùa Ngộ Chơn kiết thất ba tháng chuyên niệm A Di Đà Phật. Hai pháp sư bẻ một nhành dương tươi đem để trong tay tượng Đức Quán Thế Âm rồi đồng vái rằng: “Nếu chúng tôi sẽ được vãng sanh Cực Lạc nguyện nhành dương này không héo”. Qua bảy ngày sau nhánh dương ấy càng xanh tươi hơn. Hai pháp sư rất mừng, ngày đêm niệm Phật không ngớt. Năm tháng sau, một hôm đương lúc tịnh tọa hai pháp sư tự thấy mình đến ao báu. Thấy Đức Quán Thế Âm cùng Đức Đại Thế Chí ngồi trên hai hoa sen báu lớn. Trong ao báu ấy có cả nghìn vạn hoa sen lớn đẹp sáng. Kế thấy Đức A Di Đà từ phương Tây đi đến, ngự trên một hoa sen lớn nhứt. Thân Phật tỏa ra ánh sáng rực rỡ. Hai pháp sư lễ Phật rồi bạch rằng: “Chúng sanh trong cõi Ta Bà y theo lời dạy trong kinh mà niệm Phật, không rõ có đươc sinh về đây không?” Phật dạy: “Đừng nghi! Quyết định sanh về cõi nước của ta”. Hai pháp sư lại nghe văng vẳng tiếng Phật Thích Ca Mâu Ni và Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát tán thán kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Trên thềm báu thấy có rất đông người, bảo là ở Ta Bà niệm Phật mà được sanh về đây.
Sau khi xuất định Khải Phương, Viên Quả thuật lại với hàng đệ tử các ngài.
4. Hai Sa Di
Ở Văn Châu có hai ông Sa di đồng chí niệm Phật được năm năm. Một hôm ông lớn chết, thần thức đến Tịnh Độ lễ Phật mà bạch rằng: “Con còn một người bạn đồng tu, chẳng biết rồi được sanh về đây chăng? ” Phật dạy: “Lúc trước nhờ ông Sa di nhỏ đó khuyên ông, nên ông mới phát tâm niệm Phật. Nay ông trở về gắng tu Tịnh nghiệp thêm Ba năm sau hai người sẽ đồng đến nơi đây”.
Ông Sa di lớn sống lại thuật chuyện gặp Phật với ông Sa di nhỏ và mọi người. Từ đó hai ông càng chuyên cần tu niệm.
Ba năm sau cả hai ông đồng thấy Phật và Thánh Chúng từ phương Tây đến. Khắp đại địa rúng động, hoa trời bay rưới. Cả hai ông đồng vãng sanh.
5. Ni Quảng Giác
Sư ni Quảng Giác họ Cung, người Tô Châu. Lúc còn ở tục, cô ăn chay trường từ khi 12 tuổi, mỗi ngày trì chú tụng kinh, siêng lễ Phật, tự thệ không lấy chồng. Năm 28 tuổi xuất gia, tu tại am Hiếu Nghĩa ở Hàng Châu. Cô gìn giới hạnh rất tinh nghiêm, tinh tấn chuyên tu không quản khổ nhọc.
Về sau nhuốm bịnh, cô từ thuốc men, nhứt tâm chờ chết. Đương lúc nằm thở thoi thóp cô bỗng vụt trổi dậy ngồi kiết già, xây mặt về hướng Tây. Am chủ dọn bàn, thiết tượng A Di Đà Phật ở trước mặt cô. Cô mở mắt nhìn chăm chăm tượng Phật và chắp tay quì kính. Rồi cô rửa tay thay áo, cầm chuỗi đối tượng Phật mà ngồi ngay thẳng yên lặng như nhập định. Thị giả sợ cô nghiêng ngả mới lấy hai cái gối to kê đỡ, cô khoát tay bảo dừng. Chúng trong am đến chung quanh mà niệm Phật, cô nói: “Không dám phiền nhọc đại chúng, tự tôi có chủ trương”. Cô cứ ngồi kiết già ngay thẳng như thế mà niệm Phật nho nhỏ luôn cả hai ngày, hai đêm vẫn không cựa động, không dứt tiếng niệm. Mãi đến lúc hơi mòn tiếng bặt, mọi người lại gần xem thì cô đã tịch rồi. Nhằm ngày 7 tháng 2 năm Vạn Lịch thứ 39 triều Minh. Bấy giờ cô được 33 tuổi.
6. Ni Toại Khâm
Sư ni Toại Khâm người Vô Tích, xuất gia thủa mới lên chín. Khi tuổi trưởng thành, gặp một sư ni khuyến khích chuyên trì hồng danh của Phật, cô liền phát tâm tinh tấn niệm Phật. Ít lâu sau cô trụ trì am Bạch Y ở Tô Châu, công phu niệm Phật càng chí thiết. Đến 50 tuổi cô mới thọ cụ túc giới.
Tháng 3 cô được 55 tuổi, một đêm nọ gà vừa gáy canh đầu, cô kêu các đệ tử đến mà nói rằng: “Tôi sắp về Phật!”. Các đệ tử đều khóc thưa: “Thầy không bịnh hoạn chi sao lại nỡ nói thế?”. Cô bảo: “ Sao ngu si thế, khóc lóc có ích lợi gì? Nên nhận chơn tinh tiến niệm Phật mà thôi”. Rồi cô ngồi kiết già, xây mặt về hướng Tây, cùng các đệ tử đồng thanh niệm Phật. Khi tàn một cây nhang thì cô tịch. Bấy giờ nhằm năm Càng Long thứ 53.
 7. Vua Ô Trành
Ô Trành Quốc Vương rất mến Phật pháp. Một hôm vua bảo các quan rằng: “Trẫm ở ngôi vua hưởng phước, nhưng rồi chẳng trốn khỏi số vô thường. Nghe kinh nói cõi Tây Phương Cực Lạc là nơi giải thoát, trẫm phải phát nguyện cầu sanh về cõi ấy”. Từ đó ngày đêm sáu thời nhà vua hành đạo niệm Phật. Thường khi trai tăng, nhà vua cùng hoàng hậu đích thân dâng cơm nước cúng dường. Nhà vua tinh tấn tu hành như vậy ngót 30 năm. Đến cuối đời, nhà vua an nhiên, tự tại mà vãng sanh, dung sắc nhà vua tươi vui và hiện rất nhiều điềm tốt.
8. Phùng Tập
Ông Phùng Tập tự Tế Xuyên người đất Thục, đỗ tiến sĩ triều Tống. Lúc đầu ông đến học đạo với Phật Nhãn thiền sư, sau lại đến học với Đại Huệ thiền sư rồi vào núi kết hạ tham thiền, rất được ngộ nhập. Sau khi ngộ đạo, ông tu Tịnh độ, soạn nghi thức “Di Đà Sám Pháp”. Năm Thiệu Hưng, lúc trấn nhậm Lô Nam ông cổ xướng tăng và tục lập hội niệm Phật, đồng phát nguyện vãng sanh. Thuở ấy tạng kinh của các tòng lâm phần nhiều bị hư, mất vì giặc giã. Ông xuất tiền lương của mình tạo 48 tạng kinh Đại thừa, 48 tạng kinh Tiểu thừa, chia, dâng vào các tòng lâm đồng thời ông viết bài phát nguyện: Sự thí kinh của tôi, một việc mà đủ cả hai: dùng của tạo kinh gọi là tài thí, dùng kinh truyền Pháp gọi là Pháp thí. Tài thí sẽ được phước đức ở nhân gian và thiên thượng. Pháp thí sẽ được thông minh tài trí. Cả hai báo đó đều là nhơn của sanh tử, gốc của luân hồi. Nay tôi phát nguyện đem hai báo đó hồi hướng trang nghiêm Tịnh độ, đến khi lâm chung vãng sanh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới. Hoa nở thấy Phật, nghe Pháp nhiệm mầu, chứng Vô Sanh Nhẫn, trụ bực Bất Thối, nhập Bồ Tát vị. Rồi tôi sẽ trở lại cõi trược ở mười phương hiện Vô Biên Thân mà làm Phật Sự. Nguyện tôi sẽ như Quán Thế Âm Bồ Tát đủ Đại Từ Bi, đủ Đại Thần Lực phân thân khắp trong các loài chúng sanh, tùy loài hiện hình thuyết pháp, cho chúng sanh đều được trí tuệ dìu dắt tất cả đều thoát hẳn luân hồi, khắp cùng chúng sanh đều được thành Phật. Đó là chí nguyện thí kinh của tôi vậy”.
Về sau ông bổ nhiệm Mang Châu, mùa thu năm Thiệu Hưng thứ 23, ông dâng biểu xin nghỉ đồng thời tin cho các thân bằng Pháp hữu, và các quan liêu, hẹn đến ngày mùng 3 tháng 10 thời từ trần. Đến kỳ ông truyền thiết tòa cao ở hậu sảnh. Buổi sáng ấy, quan liêu, tân khách đến chật dinh. Ông vẫn vui vẻ tiếp khách như thường. Gần giờ ngọ, ông sửa mũ áo nghiêm chỉnh, vọng về phía hoàng cung mà bái từ. Ông thỉnh Tào sư tạm nhiếp các việc trong châu. Rồi ông thay y phục sư tăng, thăng tòa cao, dặn tất cả tăng và tục gắng tinh tiến tu trì, hoằng Pháp độ sanh. Dặn xong ông cầm tích trượng để ngang gối, ngồi yên mà thác.
Tào sứ nói: “ Quan lớn đi, ở tự tại như vậy sao không để lại một bài kệ, hầu nêu gương cho đời”. Ông lại mở mắt ra bảo đem giấy mực lại ông tự tay cầm bút viết: “Đầu ba mươi mốt, giữa chín dưới bảy, già này nói hết, anh rùa đỏ mắt”. Ông ném bút mà tạ thế.
          9. Phu nhân Việt Quốc
Việt Quốc phu nhân họ Vương, vợ của Kinh Vương, chú vua Triết Tông nhà Tống. Phu nhân chuyên tu Tịnh độ ngày đêm tinh tấn, khuyến dẫn hàng tỳ thiếp đồng dốc chí vãng sanh. Trong hàng tỳ thiếp, có một người thiếp trễ lười. Phu nhân trách: “Chẳng có thể vì một mình nhà ngươi mà phá hoại trật tự của nhà ta”. Rồi phu nhân ra lịnh đuổi đi. Người thiếp ấy sợ lắm và rất ăn năn, cần cầu tạ lỗi. Từ đó trở đi người thiếp ấy hết sức tinh tấn tu trì không quản mệt nhọc. Ít lúc sau, một hôm người thiếp ấy bảo các bạn rằng: “Tôi sẽ đi nội ngày nay”. Tối hôm ấy mọi người đều ngửi thấy mùi thơm lạ khắp nhà, người thiếp ấy không chút bị ốm đau, an nhiên mà chết. Cách đêm sau một người thiếp khác thưa với phu nhân rằng: “Tôi mơ thấy cô ấy mách rằng nhờ phu nhân khuyên răn mới đặng vãng sanh Cực Lạc thế giới, đội ơn vô cùng. Cô ấy bảo tôi thay lời kính tạ phu nhân”. Phu nhơn nói: “Cô ấy ứng mộng cho ta thời ta mới tin”.
Tối đến phu nhơn mơ thấy người thiếp dã chết về tạ ơn. Phu nhơn hỏi: “Tôi có thể đến Tây phương được không?” Người thiếp đáp: “Được”, rồi dắt phu nhơn đi. Thoạt thấy trước mặt một thế giới cực kỳ đẹp sáng, có một cái ao rộng lớn mênh mông. Trong ao đầy những hoa sen, hoặc to hoặc nhỏ, có cái lại héo. Phu nhơn hỏi duyên cớ, người thiếp phân giải: “Người đời tu Tịnh độ vừa phát tâm thời trong ao báu này mọc lên một ngó sen, vì người siêng, kẻ trễ không đồng, nên mới có tươi, có héo khác nhau như vậy. Người nào tinh tấn thời bông sen của người ấy tươi tốt, to sáng, còn ai biếng lười, thối thất thời hoa của người ấy cũng héo lần. Nếu người một mực tu trì, lâu ngày chẳng nản, công phu niệm Phật thuần thục, đến khi thọ mạng đã mãn, quyết định thác sinh trong hoa sen này”. Trên một hoa sen lớn, phu nhơn thấy một người ngồi, mão vàng, chuỗi ngọc, ánh sáng rực rỡ, bèn hỏi. Người thiếp đáp: “Ông Dương Kiệt”. Phu nhơn lại thấy một người khác, nhưng hoa sen của ông ấy đang ngồi chưa nở xòe. Người thiếp bảo là ông Mã Vu. Phu nhơn hỏi: “Tôi sẽ sanh tại hoa sen nào?” Người thiếp bèn dắt phu nhơn đi chừng vài dặm, thấy một đài hoa vàng ngọc rực rỡ, chiếu sáng dị thường. Người thiếp vừa chỉ vừa nói: “Đó là chỗ phu nhơn sẽ thác sanh. Kim đài thượng phẩm, thượng sanh đấy”.
Sau khi tỉnh dậy, phu nhơn rất vui đẹp nơi lòng, công việc tự tu cùng khuyến hóa người càng chí thiết hơn. Năm ấy, đến ngày sanh nhật của phu nhơn, sáng sớm, phu nhơn tay cầm lư hương hướng về phía lầu thờ Đức Quán Thế Âm mà đứng ngay thẳng. Quyến thuộc trong dinh hội lại rồi đồng đến trước mặt phu nhơn để định chúc thọ. Chúng xem kỹ thời phu nhơn đã vãng sanh rồi.
10. Hai thợ rèn triều Tống
Ông Lý ngạn Thông người Cối Kê làm thợ rèn, tình cờ đến chơi nơi hội quán hội Niệm Phật tại làng. Ông nghĩ đến thân mạng vô thường bèn phát tâm niệm Phật cầu sanh Cực Lạc. Một hôm phải bịnh ông bảo người nhà: “Tôi mơ đến Cực Lạc thấy hai cửa ngõ bằng vàng ngọc đóng kỹ. Sư tăng tự xưng hiệu Tông Lợi mở cửa dắt tôi vào. Thấy đền đài cao lớn sáng đẹp, Phật và Bồ Tát ngự trong ấy. Tôi sắp sẽ được về Tịnh độ”. Ông cho người thỉnh tăng Hy Kinh và Đạo Quả đến bên giường để sách tấn ông. Ông bảo gia quyến đồng thanh niệm Phật, giây lát ông tự chổi dậy ngồi ngay thẳng, xây mặt về hướng Tây mà mất.
Ông Huỳnh Sanh người Đàm Châu, sống bằng nghề thợ rèn. Tay đập sắt, miệng niệm Phật. Một ngày nọ ông nhờ người láng giềng chép dùm bài kệ từ trần, rồi ông đọc rằng:
Đang, đang, đang, đang
Cửu luyện thành cang.
Thái Bình tương cận
Ngã vãng Tây Phang.
Ông lại dặn: “Sau khi tôi vãng sanh nên đem bài kệ này truyền bá khắp nơi để khuyên người niệm Phật. Dứt lời ông đoan tọa mà qua đời.
11. Ba Nhà Nông
Triều Tống, ông Từ Lục, một nhà nông ở Ngô Hưng, ăn chay trường niệm Phật. Tại nhà thờ tượng A Di Đà sớm tối kính lễ, luôn 40 năm tu hành. Ông thường mơ thấy đến Cực Lạc thế giới. Ông có sắm một cái khánh (cái hòm).
Một hôm ông tắm rửa sạch sẽ, thay y phục, mang dép rơm vào ngồi ngay thẳng trong khánh niệm Phật. Một lát sau ông nói to: “Đức Phật đã đến rước tôi!”. Rồi yên lặng mà mất.
Ông Trần Đức Tâm một nhà nông ở Tô Châu. Ngày nóng bức, ông đi hóng mát, tình cờ thấy bản “Kính Tín Lục” nơi trường làng. Ông nhờ thầy học giảng nghĩa cho. Ông tỏ ngộ lý nhân quả, gắng làm việc phước thiện và thường đi theo đường lượm giấy chữ. Cư sĩ Bành Nhị Lâm thấy thế biết là người có thiện căn, bèn mời vào Văn Tinh Các, khuyên ông niệm Phật. Ông vốn không biết chữ, nhưng tu trì rất chuyên cần, rồi tự nhiên lần lần biết đọc, biết viết.
Ít lúc sau ông lãnh việc quản đốc các việc phóng sanh, an táng nơi hội Diệu Tế tại Tô Quận. Mỗi khi thấy thây chết, xương người, ông luôn than thở nhân mạng vô thường, nên công phu niệm Phật của ông càng thêm tinh tiến. Năm ông 69 tuổi, đương khỏe mạnh như thường, ông bỗng đi từ biệt thân thuộc cùng các bằng hữu mà hẹn ngày từ giã cõi đời. Đến kỳ ông đóng cửa yên lặng ở trong phòng. Các bạn đồng sự xô cửa vào xem, thời thấy trên bàn cúng một tượng Phật, đôi nến đương cháy sáng, hương lạ thơm ngát. Còn ông Đức Tâm đã chết ngồi, mặt day về hướng Tây. Bấy giờ là ngày rằm tháng tám năm Gia Khánh thứ 18 triều Thanh.
Ông Lại Tường Lân người Giang Tây, tánh chơn chất trọn đời làm ruộng. Năm sáu mươi ngoài tuổi. Con trai chết, ông phải làm nuôi dâu góa con côi nhơn đó ông rất nhàm chán đời người nhiều phiền khổ muốn tìm phương thoát ly.
Một hôm được nghe cư sĩ Lại Thiền Dung, cháu họ của ông giảng giải pháp môn Tịnh độ, ông liền ăn chay trường, quyết chí vãng sinh. Chỉ có tật uống rượu vì ghiền đã lâu nên chưa bỏ được. Cư sĩ Lại Thiền Dung cắt nghĩa những sự tội lỗi của người uống rượu. Ông cố gắng chừa. Lúc đầu nghe trong khắp cơ thể mỏi mê, mệt nhọc, nhưng rồi lần lần thân thể càng khỏe, tâm trí lại càng minh mẫn hơn, và với sự niệm Phật lại sanh quan niệm ưa thích. Được ít lâu sau niệm lực thuần thục dầu cày cuốc suốt ngày nhưng câu niệm Phật vẫn không rời tâm. Người lân cận gặp ông đều chào rằng: “A Di Đà Phật”. Ông cũng đáp lại: “ A Di Đà Phật”.
Năm Dân Quốc thứ 8 chân ông sưng, đi đứng không tiện. Một hôm ông bảo người cháu đặt bàn hương án vọng về phương Tây và nói: “Cảnh giới Tây Phương Cực Lạc rất đẹp! cháu xem biết bao nhiêu là hoa sen báu sáng chói. Ông sẽ về Tịnh độ trong ngày nay”. Người cháu nói: “Chân ông yếu làm sao đi được?” Ông bảo: “Tâm đi chớ không phải thân máu thịt này đi”. Người cháu vâng lời trần thiết hương án. Và giữa lúc người cháu thắp hương, ông ngồi kiết già, day mặt về hướng Tây chấp tay niệm Phật vài câu mà từ trần, thọ 75 tuổi.
12. Mụ Trần
Người ở Thường Thục, làm nghề kéo chỉ vải. Mụ qui tín Phật pháp, niệm Phật theo tiếng kéo chỉ luôn cả ngày không ngớt tiếng. Ba mươi năm như vậy. Một ngày nọ mụ kêu con trai lại nói rằng: “Con không thấy bảo cái tràng phan đó ư? Mẹ vãng sanh đây”. Dứt lời mụ vỗ tay cười lớn. Sau khi đi pha nước tắm gội xong, mụ liền chắp tay mà mất. Bấy giờ nhằm năm Thuận Trị thứ 10
Thượng Thơ Ông Thúc Ngươn lúc đó còn hàn vi, được tin đích thân đến xem, vẫn thấy mụ còn ngồi ngay thẳng vững vàng, khắp nhà mùi hương lạ bay ngào ngạt. Về sau khi trứ tác bộ “Tịnh Độ Ước Thuyết” Thượng Thơ ghi việc ấy vào để làm bằng chứng.
13. Mụ Vu
Mụ Vu họ Tần, người Tiền Đường, chồng làm nghề bán cá. Con trai phạm luật nước, gia sản bị khánh tận. Mụ Vu sầu khổ đến bờ sông định tự tử. May gặp Tư Chiếu pháp sư can ngăn khuyên rằng: “Đó là nghiệp duyên đã gây từ đời trước. Nay mụ nên cam tâm mà trả. Bắt đầu từ nay mụ nên vun trồng nghiệp nhơn thanh tịnh sau này sẽ hái lấy quả giải thoát an vui. Nhẩy xuống sông để trốn nợ để rồi đời sau lại phải trả nặng hơn. Đâu bằng cứ sống mà chuyên tu niệm Phật”.
Nghe pháp sư giảng giải mụ Vu tỉnh ngộ. Bèn đối trước tượng Phật đốt ngón tay, thệ trường trai niệm Phật. Từ đó trở đi mụ Vu tinh tấn tu niệm trọn mười năm không bê trễ. Phàm gặp bất luận ai, mụ đều gọi là Phật tử cả.
Một ngày nọ mụ Vu thỉnh chư tăng đến nhà tụng Quán Vô Lượng Thọ Kinh, còn mụ thì lần chuỗi niệm Phật. Chư sư tụng đến đoạn quán tượng thời mụ Vu yên lặng mà thác hóa.
          14. Trương Thiện Hòa
          Trương Thiện Hòa người nhà Đường, làm nghề giết bò. Lúc bịnh ngặt, thấy vài mươi con bò đến đòi mạng nói tiếng người rằng: “Mầy giết chúng tao phải đền mạng”.
Ông Hòa hối vợ thỉnh Sư tăng. Sư tăng bảo: “Trong Quán Kinh nói: “Nếu chúng sanh nào gây tạo ác nghiệp, đang đọa vào ác đạo mà chí tâm xưng niệm A Di Đà Phật đủ mười niệm thời tiêu tội, được vãng sanh Cực Lạc thế giới”.
Ông Hòa nói: “Lửa địa ngục đến rồi, không thể chờ lư hương được”. Ông liền tay tả cầm lửa, tay hữu cầm hương, hướng về Tây Phương to tiếng niệm Phật. Chưa đầy mười hơi, ông bỗng nói: “Phật đã đến trao tôi tòa sen báu”. Dứt lời liền tắt hơi.
15. Chim két niệm Phật vãng sanh
Xưa có vị Tăng nuôi một con chim két, hàng ngày dạy nó niệm Phật, nó  niệm theo.
Lúc đầu khi nào dạy nó mới niệm. Sau một thời gian nó quen câu niệm Phật, lúc này vị Tăng không dạy nữa mà mỗi khi thấy vị Tăng hay khách vào chùa chim liền cất tiếng niệm Phật. Lại một thời gian sau, chim không đợi thấy vị Tăng hay khách nữa mà sáng, trưa, chiều tối chim đều cất niệm Phật, tiếng nghe rất thanh, rất tha thiết. Hình như chim có tánh linh, ý thức mình là loài cầm thú muốn tu tập để thoát kiếp chim.
Sau một thời gian, một hôm nọ chim đứng trong lòng cất tiếng niệm Phật mà thoát hóa. Vị Tăng đem chim chôn sau vườn chùa, cách ba ngày sau, ở nơi ấy mọc lên một hoa sen rất đẹp, vị Tăng thấy lạ bèn đào lên xem thử, lạ lùng thay, hoa sen mọc lên từ miệng của chim. Đây là một sự việc hi hữu từ xưa đến nay hiếm có.
NHỮNG CHUYỆN NIỆM PHẬT VÃNG SANH THỜI NAY
Dưới đây là những mẫu chuyện niệm Phật vãng sanh thời hiện đại. Những mẫu chuyện này chính do thân nhân của người vãng sanh hay những người chứng kiến sự vãng sanh ghi lại, hoặc do những tác giả chuyên sưu tập những mẫu chuyện vãng sanh ghi. Đặc biệt, những mẫu chuyện vãng sanh này, có nhiều chuyện linh ứng mầu nhiệm như biết trước ngày giờ vãng sanh, có mùi thơm, thấy hoa sen, hào quang, thấy Phật và thánh chúng đến tiếp dẫn, có người còn lưu lại xá lợi rất nhiều.
1. Hòa Thượng Thích Đức Niệm
Hòa Thượng Thích Đức Niệm sanh tại làng Thanh Lương, tỉnh Bình Thuận. Xuất gia từ thưở 13 tuổi tại chùa Long Quang Phan Rí. Sau đó, Ngài tha phương cầu học với các Hòa Thượng: Hòa Thượng Trùng Khánh và Hòa Thượng Thiên Hưng ở Phan Rang, tỉnh Ninh Thuận.
Trên con đường tầm sư học đạo, Hòa Thượng đã từng là Tăng sinh của Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang. Và năm 1962, tốt nghiệp Đại Học Phật Giáo tại Phật Học Đường Nam Việt chùa Ấn Quang Sài Gòn.
Vốn là sinh viên Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, tốt nghiệp cử nhân Văn Khoa Đại Học Vạn Hạnh năm 1966 và làm Hiệu Trưởng Trường Trung Học Bồ Đề quận Chợ Mới tỉnh Long Xuyên.
Những năm kế tiếp, đảm nhiệm các chức vụ như Chánh Đại Học Giáo Hội Phật Giáo tỉnh Gia Định, Chánh Thư Ký Phật Học Vụ toàn quốc, Giám Đốc Trường Trung Học Bồ Đề Tỉnh Bình Dương.
Những ngày cuối cùng trước khi vãng sanh
Vào ngày rằm Tháng Giêng năm Quý Mùi, tức ngày 15/2/2003, Hòa Thượng thấy Phật A Di Đà đến viếng. Sau đó, Hòa Thượng kể cho Thầy Minh Chí nghe.
Được tin này, chúng tôi nghĩ Hòa Thượng sắp sửa vãng sanh Cực Lạc. Mọi người tiên đoán, Hòa Thượng sẽ vãng sanh vào ngày Đức Bổn Sư Thích Ca nhập Niết Bàn. Nhưng ngày đó chẳng có gì xảy ra.
Vào ngày Chủ Nhựt 16/3/2003, vào 6 giờ chiều lúc chư Phật tử đang trợ niệm, Phật tử Phước Lạc bỗng ngửi thấy mùi hương trầm, cô tự hỏi: “Lạ quá! Thầy đang không được khỏe, vậy ai lại đốt nhang?”. Phước Lạc lặng lẽ lui ra ngoài, tìm xem nhang đốt ở chỗ nào để tắt. Nhưng tìm khắp nơi không thấy! Có người khác và Sư cô Diệu Tánh cũng ngửi được mùi thơm.
Ngày 17/3, chúng tôi được tin Hòa Thượng Thích Tín Nghĩa (lúc ấy còn là Thượng Tọa) từ Texas về thăm. Thầy Tín Nghĩa kể lại, Hòa Thượng Đức Niệm nói rất lâu và Hòa Thượng tỏ vẻ rất quan tâm.
Sau đó, chúng tôi có hỏi Thầy Tín Nghĩa nói gì với Hòa Thượng Đức Niệm. Thầy Tín Nghĩa nói: “Thầy nói với Hòa Thượng còn mấy ngày nữa là vía Quán Thế Âm Bồ Tát. Xin ráng chờ ngày đó”.
Ngày 18/3/2003, chúng tôi đến thăm Hòa Thượng. Hòa Thượng Thích Trí Chơn hướng dẫn chúng tôi vào thăm. Nghe có chúng tôi, Hòa Thượng Đức Niệm mở mắt nhìn. Hòa Thượng bị ung thư gan. Các bác sĩ nói, bịnh này làm Hòa Thượng đau đớn vô cùng, chúng tôi nhìn thấy Hòa Thượng ốm nhiều, nhưng không có triệu chứng đau đớn như các bác sĩ nói. Thấy chúng tôi vào, mọi người tản bớt ra ngoài, chỉ còn ở lại 3 người. Chúng tôi chẳng dám hỏi han, cần để Hòa Thượng tịnh dưỡng và niệm Phật.
Chúng tôi chỉ hỏi vắn tắt:
- Thưa Hòa Thượng, Ngài thấy Phật A Di Đà mấy lần?
Hòa Thượng mở mắt nhìn và đáp ra tiếng rõ ràng:
- Hai lần.
Đại Đức Quảng Đạo đang ở dưới chân Hòa Thượng Đức Niệm, vui mừng lặp lại:
- Hai lần!
Sáng ngày 19/3/2003, Phật tử đang trợ niệm bỗng nhìn thấy sắc diện trên gương mặt Hòa Thượng biến đổi từ xám xanh thành ửng hồng và lỗ tai của Hòa Thượng từ từ dài ra. Đây là hiện tượng của người sắp vãng sanh. Thường thì, ngay khi vãng sanh mới có hiện tượng. Nhưng Hòa Thượng Đức Niệm hiện tướng lành trước. Theo chúng tôi có lẽ vào ngày này, có thể Phật A Di Đà đã đến lần thứ 3 nên Hòa Thượng Đức Niệm mới có tướng lành ấy.
Chiều ngày 20/3/2003, Phật tử tựu về đông đủ hơn, bỗng một cháu nghe được tiếng nhạc thật êm dịu, thảnh thoát. Dường như đây là tiếng nhạc trời.
Đúng 12 giờ khuya, tức là bước vào sáng ngày 21/3/2003, ngày Vía Quán Thế Âm Bồ Tát. Bỗng nhiên trống Bát Nhã đánh lên liên hồi. Tâm mọi Phật tử cảm thấy một niềm rộn ràng kỳ diệu. Hòa Thượng Thích Đức Niệm đang nằm im. Thầy Thích Minh Chí tân trụ trì kiêm Giám đốc Phật Học Viện Quốc tế bước tới trang trọng thưa:
“Đã đến giờ, xin thỉnh Hòa Thượng lên đường”
Hòa Thượng Thích Đức Niệm đang nằm bất động bỗng mở miệng chép môi. Mọi người đều trố mắt nhìn. “Thì ra Hòa Thượng đang niệm Phật”. Đây là ý của một người trông thấy kể lại cho chúng tôi nghe.
Nhưng theo các băng giảng của Hòa Thượng Tịnh Không: “Vào giờ phút cuối cùng của người niệm Phật được vãng sanh. Người ấy mở miệng là để nói lời từ biệt: “Phật và Thánh chúng đến tiếp dẫn, ta đi đây!”.
Chúng tôi nghĩ, chính Hòa Thượng Thích Đức Niệm đang nói lời từ giã mọi người. Thế là, liền sau đó, Hòa Thượng Thích Đức Niệm ra đi. Ngài viên tịch đúng 1 giờ 45 phút rạng ngày 21/3/2003 tức ngày Vía Đức Quán Thế Âm Bồ Tát.
                                               Trích bài viết của Cư Sĩ Tịnh Hải
2. Thượng Tọa Phước Minh thường nhập Phật thất, vãng sanh lưu trọn hộp sọ đầu và trên 200 viên Xá Lợi, được môn đồ chia nhau phụng thờ
Thượng Tọa Thích Phước Minh, thế danh là Trần Ngọc Tỷ, sinh năm 1915 tại Làng Mỹ Thạnh Trung, quận Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long.
Năm 17 tuổi, Thượng Tọa đến chùa Rạch Rừng thuộc xã Hòa Bình, quận Tam Bình xin quy y Tam Bảo với Hòa Thượng Thích An Sơn (thường gọi là Sư ông núi Tượng).
Cũng trong năm này, Thượng Tọa phát tâm xuất gia nhưng cha mẹ không cho đi, vì trong gia đình chỉ duy nhất Thượng Tọa là con trai nên ông bà cụ muốn Thầy lập gia đình để nối dõi Tông đường và tiếp nối giữ gìn gia nghiệp của cha mẹ để lại, phụng thờ tổ tiên. Vì thế Thầy phải vâng lời, không dám cãi lại cha mẹ. Hơn 10 năm sau, Thượng Tọa và gia đình dời về Cần Thơ.
Ý chí xuất gia cầu đạo giải thoát vẫn không quên, nên vào năm 59 tuổi (1973), Thượng Tọa đến chùa Phước Châu (thị xã Vĩnh Long) cầu Hòa Thượng Hoàn Phú thế phát xuất gia được Bổn Sư cho pháp danh Phước Minh và thọ giới Sa Di trong năm này. Năm sau (1974) trở về chùa Phước Hậu (Trà Ôn) tu học với Thầy Bổn Sư và giữ chức vụ Thư ký chùa.
Đến năm 1975, được Hòa Thượng Bổn sư cho đăng đàn thọ Tỳ Kheo Bồ Tát giới tại Tổ Đình Ấn Quang (Sàigòn). Năm 1976, Thượng Tọa lên chùa Huệ Nghiêm (An Dưỡng Địa) tại Sài Gòn đảnh lễ cầu pháp với Hòa Thượng Thích Bửu Huệ tu tập theo pháp môn Tịnh Độ, chuyên tâm niệm Phật cầu vãng sanh Tây Phương.
Thầy rất siêng năng công quả và tinh tấn tu hành, chân thật cầu giải thoát nên Hòa Thượng Bổn Sư cử làm Phó Trụ trì Tổ đình Phước Hậu và cho Pháp hiệu là Hoàn Tịnh. Phía ngoài vườn chùa có lập một ngôi tịnh thất, Thượng Tọa thường nhập thất niệm Phật, khi thì 7 ngày, 21 ngày, lúc thì 49 ngày hoặc 3 tháng.
Đầu năm 2003 (Quý Mùi) Thượng Tọa thường hay đau yếu, đệ tử là Sư cô Trí Thanh (trụ trì chùa Phước Hưng) thường đưa Thượng Tọa qua Cần Thơ để khám bệnh điều trị. Khoảng tháng 08 Â.L, Thượng Tọa bệnh và nói với Sư cô Trí Thiện: “May đồ cho Thầy kỳ này thôi. Sau khỏi may nữa!”.
Đến khuya ngày 20 tháng 10 Â.L trở bệnh. Sáng 21/10 chuyển lên bệnh viện Đa Khoa Cần Thơ cấp cứu vì Thầy bị hôn mê. Đến trưa ngày 22/10, xin xuất viện đưa về Tổ đình Phước Hậu.
Ở trên xe chư Tăng Ni và Phật tử niệm Phật trợ niệm cho Thượng Tọa và đôi lúc thấy Thượng Tọa khẽ mỉm cười. Khi về đến chùa Phước Hậu vẫn tiếp tục trợ niệm cầu nguyện, lúc ấy Thượng Tọa bỗng nhiên niệm ra tiếng “Nam Mô A Di Đà Phật”. Chỉ một câu rồi im lặng niệm thầm. Lúc còn khỏe, Thượng Tọa thường dạy: “Phải niệm cho thật rành rẽ, rõ ràng từng chữ từng câu”.
Đại chúng vẫn trợ niệm cho đến trưa ngày 24 tháng 10 âm lịch năm Quý Mùi, vào 11 giờ 5 phút (tức đầu giờ ngọ) nhằm ngày 17/11/2003, 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét