Thứ Bảy, 7 tháng 3, 2015

PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ THÙ THẮNG(TT)

Thượng Tọa an tường vãng sanh trong tiếng niệm hồng danh Phật A Di Đà của đại chúng. Hưởng thọ 89 tuổi đời, hạ lạp 28 tuổi đạo.
Tang lễ của Thượng Tọa được cử hành trong 2 ngày 24 và 25 tháng 10 Â.L, đến 7 giờ sáng ngày 26 là lễ di quan đưa kim quan của cố Thượng Tọa đến Lò hỏa táng chùa Phật Học, Cái Răng, thành phố Cần Thơ để hỏa thiêu.
7 giờ sáng ngày 27/10 Â.L, môn đồ pháp quyến thu nhặt linh cốt, tro xương để phụng thờ. Thượng Tọa đã lưu lại một hộp xương sọ đầu và trên 200 viên xá lợi.
Đến tuần 49 ngày, toàn bộ linh cốt và hộp sọ đầu được an vị nhập vào bảo tháp tại chùa Phước Hậu vào ngày 13 tháng Chạp âm lịch, Quý Mùi. Riêng phần Xá lợi, môn đồ pháp quyến gìn giữ phụng thờ.
        Sống chết, thạnh suy lý vẫn thường, Tuổi cao, gần Phật bận chi thương.
            Người Bạn Sen Thích Đức An kính thuật
3. Sư Bà Giác Nhẫn biết trước ngày vãng sanh,  lưu lại trái tim và vô số xá lợi
Sư Bà Thích nữ Giác Nhẫn sinh năm 1919 (Kỷ Mùi), thế danh Lê Thị Kiểu. Sư Bà xuất thế trong một gia đình danh gia vọng tộc. Đời ông cho đến cha đều làm quan lại ở miền Trung và miền Nam Việt Nam. Ông cố nội của Sư Bà là cụ ông Lê Đình Đức làm Quan Lại Bộ Thượng Thư dưới triều vua Khải Định ở Huế. Thân phụ là ông Lê Đình Hiểu làm Hội Đồng Tỉnh Vĩnh Long. Thân mẫu là bà Bùi Thị Trĩ, thọ Ưu Bà Di Bồ Tát giới với pháp danh Diệu Đạt.
Tuy  giàu có, của ăn của để dư giả nhưng ông cụ thân sinh của Sư Bà là ông Hội Đồng Tỉnh Vĩnh Long, từ trẻ đã đam mê học hỏi giáo lý đạo Phật, sống cuộc đời giản dị. Ông cất ngôi Già lam trong khuôn viên đất của mình để làm nơi hành trì tu tập.
Ông cụ ăn chay và niệm Phật, thường bố thí và cúng dường. Ông bà cụ thân sinh của Sư Bà có 7 người con nhưng do bệnh từ nhỏ nên chỉ còn người thứ 2,5,6,7 và 8; tất cả đều là con gái, không có con trai. Người chị thứ hai là mẹ của Phật tử Diệu Liên, cô Diệu Liên là người thân cận gần gũi nhất với Sư Bà  từ nhỏ vì mẹ của cô mất sớm.Vì vậy, Sư Bà Giác Nhẫn thứ 7, còn người chị thứ 5,6 và người em song sinh thứ 8. Tất cả tài liệu của bài này do cô Diệu Liên cung cấp.
Sau khi sanh người con thứ 5 là Sư Bà Thích nữ Tâm Nhàn, ông cụ thân sinh liền xây một cái cốc cách xa nhà để nhập thất niệm Phật ngày đêm trong đó mà buông bỏ chức tước danh vọng. Ông nhập thất niệm Phật trong cốc được vài năm thì bị bà con trong gia đình rầy la. Vì tài sản của cải quá nhiều, người vợ không thể lo xuể nên ông đành ra thất phụ giúp vợ. Rồi sau đó tiếp tục nhập thất cho đến ngày vãng sanh.
Trong thời gian ông cụ ra thất, bà cụ hạ sanh người con thứ 6 là Sư Bà Thích nữ Như Thái. Và 3 năm sau, song sanh hai người con gái thứ 7 và 8. Đó là Sư Bà Giác Nhẫn và Sư Bà Giác Bổn.
Trong gia đình của Sư Bà, có 5 chị em gái,  người chị cả mất sớm nên còn 4 người. Nhưng do ảnh hưởng của thân phụ và do giác ngộ được chân lý giải thoát nên 4 chị em trước sau lần lượt xuất gia.
Sư Bà Thích nữ Tâm Nhàn là chị thứ 5 đã bỏ tất cả, trốn ra tận Huế để xuất gia cầu đạo. Sau nhiều năm, bà mẫu của các Sư Bà mới biết con mình đã là người tu sĩ. Sư Bà Tâm Nhàn vãng sanh năm Canh Ngọ (1990) trụ thế 82 năm. 
Tiếp theo là Sư Bà Thích nữ Giác Nhẫn. Sư Bà xuất gia lúc 18 tuổi nhưng lúc nhỏ khi mới học nói học viết là đã biết niệm Phật và ăn chay kỳ. Năm 10 tuổi, Ni trưởng tụng thuộc lòng chú Đại Bi và năm 12 tuổi trì chú Chuẩn Đề. Đến năm 15,16 tuổi thì hai cô song sanh đi tham gia Gia đình Phật tử chùa Giác Thiên Vĩnh Long. Năm 18 tuổi, độ tuổi thuần khiết tươi đẹp của đời người, bà nhận thấy rõ cuộc sống trần thế huyễn hóa, ảo mộng nên đã xin cha mẹ xuất gia tu học cùng chị mình là Sư Bà Tâm Nhàn.
Người chị thứ 6 của Sư Bà Giác Nhẫn là Sư Bà Thích nữ Như Thái, sau khi lập gia thất, về làm dâu trong một gia đình thuộc hàng thượng lưu tại đất Gia Định xưa. Sau khi sanh được một người con gái thì cũng xuống tóc xuất gia theo chị và em mình tìm đường giải thoát. Sư Bà nhờ thân mẫu nuôi dưỡng đứa con của mình sau khi sanh chỉ có vài tháng tuổi. Sư Bà đã đi tầm sư học đạo khắp miền Tây Việt Nam. Và Sư Bà đã về chùa Giác Thiên cùng em mình là Sư Bà Giác Nhẫn mở lớp Phật học đầu tiên của Tỉnh Vĩnh Long lúc bấy giờ. Đến năm 1986, Sư Bà Như Thái vãng sanh sau một cơn bệnh nhẹ, trụ thế 71 năm, hạ lạp 40 hạ. Sau khi trà tỳ  lưu lại nhiều xá lợi.
Và sau cùng là Sư Bà Thích nữ Giác Bổn, là em song sanh với Sư Bà Giác Nhẫn. Do các chị của bà đều xuất gia nên không ai quản lý gia sản của cha mẹ để lại nên sau khi sắp xếp xong mọi công việc thì Sư Bà cũng nối gót xuất gia theo các chị của mình.
Tuy rằng các Sư Bà đều có trình độ Phật học, có cả kiến thức về Thiền nhưng vẫn y giáo phụng hành theo lời dạy của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, chính bản thân Sư Bà niệm Phật và dạy cho hàng đệ tử xuất gia cũng như tại gia thực hành pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh Tây Phương.
Những chuyện mới nhất của sư bà Giác Nhẫn vào năm 2003
Vào ngày 24/1/2003, sau khi xuất viện, tuy tuổi già sức yếu nhưng Sư Bà rất hoan hỷ cung thỉnh Thượng Tọa Thích Tôn Thật, Trưởng Ban Từ Thiện trao một số tịnh tài để ủng hộ chương trình mổ mắt cho người nghèo khó khăn.
Ngày hôm đó, Sư Bà rất vui vẻ không nghỉ trưa, vì thế cô Diệu Liên lo sức khỏe, thưa rằng: “Sao Thầy không nghỉ trưa”, Sư Bà vui vẻ trả lời: “Thầy làm được việc từ thiện cuối cùng nên vui quá không ngủ được”.
Dù vậy, nhưng khi nghe tiếng đại hồng chung thì Sư Bà liền gọi thị giả đỡ ngồi dậy lần chuỗi niệm Phật. Tinh thần của Sư Bà rất tỉnh táo, nói chuyện vui vẻ và thường cười, có khi cười ra tiếng. Và dường như Sư Bà biết trước mình sẽ được Phật và Thánh chúng tiếp dẫn nên không lo cho thân tứ đại chỉ lo nhất tâm niệm Phật.
Trong di chúc được viết ngày 05/4/2000, Sư Bà có viết rằng: “Sau khi Thầy viên tịch, hậu sự các xuất sứ phải đúng với đạo pháp, thể hiện tinh thần giải thoát, tùy nghi cử hành tang lễ trong ba hay bốn ngày thôi. Không nên để lâu làm mệt nhọc mọi người! Thầy sợ tổn đức! Sau khi thiêu, thâu Xá Lợi đặt trên bàn thờ, ngồi chung với hai Sư Tỷ”. Và ở cuối di chúc, Sư Bà có nói rõ rằng mình đã yên tâm trong lúc tuổi già cầu Vãng sanh Phật quốc.
Phải chăng đây là lời tiên triệu của Sư Bà biết trước mình sẽ về Cực Lạc mà với đức tính khiêm tốn của một vị xuất gia nên Sư Bà không muốn nói ra.
Sau Tháng Giêng năm Quý Mùi (2003), sức khỏe của Sư Bà  giảm sút thêm. Đến 1 giờ khuya ngày mùng 6 tháng 2 (8/3/2003), sau khi uống sữa xong, Sư Bà  nôn ra nước màu hồng dợt. Lúc đó, Sư Bà gọi bào muội Giác Bổn hộ niệm và gọi Ni chúng xúm quanh giường niệm Phật tiếp dẫn. Sư Bà Giác Bổn hỏi Sư Bà Giác Nhẫn rằng: “Chị có nghe niệm Phật không”.
Lúc đó, Sư Bà gật đầu ra dấu là có nghe niệm và miệng cũng niệm nhép nhép theo. Ni chúng chùa Huệ Lâm và các chùa khác cùng chư Phật tử luân phiên thay nhau trợ niệm. “NAM MÔ TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A DI ĐÀ PHẬT” đã vang rền trong suốt 2 ngày đêm.
Sáng ngày 9/3/2003 (mùng 7/2/Quý Mùi), Sư Bà nhiều lần giơ tay lên dường như muốn chỉ cái gì đó và cũng có nhiều lúc Sư Bà mở mắt nhìn về một chỗ với nét mặt vui vẻ. Đến 11 giờ, Sư Bà mở mắt thật to, thật sáng và ngước nhìn lên trên dường như thấy cái gì đó đẹp đẽ phi thường như thấy Phật tiếp dẫn. Sau đó từ từ nhắm mắt khít lại, miệng cũng khép rất kín.
Sau khi tịch, khuôn mặt hồng hào sáng lạ thường và thân thể rất mềm. Trước khi làm lễ nhập kim quan, có một vị cư sĩ rất sợ đứng gần xác của người chết nhưng khi lại thăm Sư bà lần cuối cứ ngồi cạnh Sư Bà và nói rằng thấy Sư bà đang cười với mình.
Sau lễ trà tỳ còn lưu lại hàng ngàn viên Xá lợi. Xá lợi của Sư Bà có viên to bằng đầu ngón tay cái, có viên bằng đầu ngón tay út, rất nhiều viên màu đen huyền, trắng, óng ánh pha đỏ rất đẹp. Có khoảng hơn một ngàn viên. Đặc biệt nhất là hơn 10 viên xá lợi pha lê, long lanh và chiếu sáng như viên pha lê. Và có 1 viên như nắm tay của em bé sơ sinh, có hình quả tim, ở phía trên còn có sợi dây màu đỏ có lẽ đây là gân máu đã hóa xá lợi. Xá lợi của Sư Bà Giác Nhẫn đã được nhiều quý Hòa Thượng, Sư Bà tán thán vì đây là kết quả tu trì suốt cuộc đời của một người xuất gia.
4. Sư Bà Như Phụng vãng sanh lưu xá lợi
Được Phật A Di Đà gia hạn sống thêm 5 năm. Sư Bà Thích Như Phụng thấy Phật, thấy cả cảnh giới Tây Phương Cực Lạc và được chết trong mùi thơm đúng như ước nguyện.
NHƯ Lai trưởng tử trụ Ta bà,
PHỤNG sự nhân quần dĩ lợi tha,
TÂY xứ phu tòa quy bỉ ngạn,
HƯNG Thiền châu kết độ hà sa,
NI đồ phổ nhuận Tôn Sư đức,
TRƯỞNG ấu đồng triêm pháp lục hòa,
MINH hiển từ tâm hành lục độ,
CẢNH huyền cao chiếu nhứt thiền gia.
          Sư Bà Thích nữ Như Phụng tự Diệu Thành, pháp hiệu Giác Mỹ, sinh năm 1911 tại làng Tân Vĩnh Hòa, Quận Châu Thành, tỉnh Sa Đéc. Là đệ tử xuất gia của Hòa Thượng Thích Vạn Ân thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 41. Thân phụ là cụ Phạm Văn Lắm, người rất hiền hòa phúc hậu, thân mẫu là bà cụ Huỳnh Thị Trúc, một người mẹ đảm đang đức hạnh. Sư Bà là con thứ sáu trong gia đình có tám anh chị em và là chị của cố Ni Trưởng Thích nữ Như Lan, trụ trì chùa Thanh Thiền ở Sa Đéc và Ni Trưởng Thích nữ Như Hiếu, đương kiêm trụ trì chùa Tây Hưng.  
          Thuở thiếu thời, Sư Bà thường xuyên lui tới chùa Tây Hưng, tụng kinh niệm Phật, công quả sớm hôm và quy y Tam Bảo. Càng ngày Sư Bà nhận thức sâu sắc về cuộc đời giả tạm, khổ nhiều hơn vui, từ đây chí xuất trần tu thiện pháp càng mãnh liệt. Khi duyên lành đã sẵn đủ, lại được sự chấp thuận của song thân, Sư Bà lên đường tầm sư học đạo. Năm 1929, lúc vừa tròn 19 tuổi, Sư Bà đến chùa Tây Hưng cầu Hòa Thượng Thích Vạn Ân xin được thế phát xuất gia tu học. Tháng 11 năm 1945, Hòa Thượng Bổn sư viên tịch, Sư Bà được giao phó trọng trách.  
Sư Bà chuyên tu theo pháp môn niệm Phật A Di Đà. Thuở ban đầu, ngay sau khi xuất gia, Sư Bà niệm Tam Thiên Phật, rồi Vạn Phật, Ngũ Bách, tụng Sám Hối Hồng Danh, nhưng về sau Sư Bà chỉ niệm thánh hiệu “A Di Đà Phật”. Ngay cả khi Sư Bà kết hạt chuỗi bo bo, mỗi hạt bo bo là một biến “A Di Đà Phật”.
Công phu niệm Phật của Sư Bà không bao giờ dãi đãi, thời khóa niệm Phật hàng ngày bắt đầu từ 2 đến 4 giờ khuy; 7 đến 9:30 sáng; 2 đến 4 giờ chiều; 5:30 đến 7 giờ tối. Sư Bà ngọ trai lúc 12 giờ trưa và sau đó tụng Kinh A Di Đà, việc này Sư Bà đã thực hành nghiêm chỉnh ngay từ lúc mới xuất gia.
 Ngoài công phu niệm Phật, Sư Bà đã thực hành hạnh của Bồ Tát mà ít có người làm được. Như trên đã nói, Sư Bà kết chuỗi bo bo, mỗi hạt là một biến “A Di Đà Phật”, mỗi ngày kết hai tràng để tặng cho chúng sanh Phật tử, nguyện của Sư Bà là mong cho mọi người đều niệm Phật. Sư Bà phát năm lời cầu nguyện khi thí chuỗi là:
  Cầu cho Phật tử dồi sào sức khỏe
Cầu cho người niệm Phật tài vật đầy đủ
Chí niệm thường tinh tấn
Thực hành hạnh nguyện Bồ Tát
Khi bỏ thân được vãng sanh Cực Lạc.
Ngày nay nhiều Phật tử ở hải ngoại có dịp về thăm lại chùa Tây Hưng vẫn thường nhớ đến những tràng chuỗi bằng hạt bo bo và ao ước có được xâu chuỗi như thế để tưởng Phật, niệm Phật.
 Với tâm nguyện cứu độ chúng sanh, phát nguyện cầu siêu cho chư hương linh được siêu sanh lạc quốc, Sư Bà đã bỏ ra bốn năm trời, cứ vào mùa Thanh Minh, thường đến hết nghĩa trang này lại qua nghĩa địa khác để trì chú Tán Sa cho hương linh, mỗi phần mộ ba vòng. Năm 1948, Sư Bà cùng với Sư Bà viện chủ chùa Thiền Quang ở Sài Gòn tổ chức kỳ siêu, vớt vong bằng giàn Thủy Lục, trong đêm các Ngài tụng Kinh Địa Tạng, niệm Hồng danh “A Di Đà Phật” để hồi hướng cho chư hương linh.
 Sau đó Sư Bà nhập thất ba năm. Trong thời kỳ nhập thất này, Sư Bà rất ít nói chuyện, thị giả hay Phật tử chỉ mang thức ăn vào thất rồi trở ra. Sư Bà chú tâm vào việc tụng Kinh niệm Phật để hồi hướng cho hương linh các chiến sĩ trận vong, đồng bào tử nạn.
 Năm 1964, Sư Bà lại nhập thất tịnh tu ba năm, tiếp tục nhứt tâm niệm Phật và tụng Kinh để hồi hướng cho ngôi Tam Bảo sung túc, huynh đệ tu hành tinh tấn, đàn na hưng thịnh. Và trong suốt thời gian sau này, Sư Bà vẫn thường xuyên nhập thất niệm Phật.  
 Năm vừa qua, thấy tuổi hạc đã cao, Sư Bà phát nguyện trước chư Phật: “Con nay đã trên 90 tuổi rồi sao lại chưa đi, nếu như thọ mạng chưa dứt, xin chư Phật cho con ở lại thế gian 5 năm nữa để con gieo trồng bo bo, kết chuỗi hầu khuyến khích Phật tử niệm Phật”. Mấy hôm sau, bên tai Sư Bà nghe có tiếng nói: “Thôi, mãn nguyện rồi, con nên đi đi”. Ở đây, Sư Bà xin thêm 5 năm nữa, chúng tôi vẫn thắc mắc, không rõ trước kia Sư Bà có nguyện gì nữa không, nếu là có thì có thể đã có sự cảm ứng đạo giao mà Sư Bà thường ít nói nên không ai biết được chăng ? 
 Sư Cô Như Hiền có kể lại, là cách đây gần một năm, khi ngồi trước chánh điện niệm Phật, Sư Bà ngửi được mùi hương thơm phảng phất rất là dễ chịu và nhìn thấy được cảnh giới tốt đẹp với những thứ cỏ lạ đều đặn, thẳng tấp trên cát mịn màng, thoáng xa xa người người lui tới trong y phục đẹp, trang nhã và lịch sự nhưng Sư Bà chưa được vào cảnh giới đó. Bỗng chốc Sư Bà nhớ ra là mình đang niệm Phật và đang ngồi ở chánh điện.  
 Những giờ phút sau cùng của đời người, trước khi được về với Phật, Sư Bà rất tỉnh táo, vui vẻ, hay hỏi han vuốt ve các Phật tử tới viếng thăm. Sanh tiền Sư Bà thường nguyện với Đức Phật A Di Đà, xin “được chết thơm”, xin đến lúc lâm chung được ra đi nhẹ nhàng, tinh thần minh mẫn. Nay nguyện của Sư Bà đã được thành tựu như ý.  
 Sư Cô Như Hiền nhớ lại lần thân bệnh vào năm trước, đôi lúc Sư Bà còn kêu than đau đớn nhưng lần sau cùng này, Sư Bà không kêu rên hay than đau và luôn luôn giữ thế nằm nghiêng về phía tay phải, thế nằm của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật khi nhập diệt.  
 Hơn chín mươi năm trụ thế, tấm thân ngũ uẩn được sử dụng để phụng sự Đạo pháp và chúng sanh đã hao mòn theo năm tháng, thân thế tuy mỏi mệt nhưng tinh thần luôn luôn trong sáng và tinh tấn niệm Phật. Khoảng bốn ngày trước khi vãng sanh, Sư Cô thị giả bạch thỉnh ý Sư Bà xin tụng bộ Kinh Đại Bi Đạo Tràng Sám Pháp, Lương Hoàng Sám để hồi hướng công đức cho Sư Bà, Ngài hoan hỷ chấp nhận, và thời gian này Sư Bà còn lên chánh điện để quan sát. Khi bộ Kinh được tụng đến quyển thứ bảy, qua phần Chú Vãng Sanh, đang tụng thời Sư Bà đã xả báo thân, thu thần viên tịch. Trong giây phút cận tử nghiệp này, Sư Bà vẫn còn nhép môi để niệm Phật, niệm thầm trong tư tưởng. Ngài ra đi với nét mặt hồng tươi khác lạ, da mặt căng thẳng và đầy nét hoan hỉ, trên tay vẫn còn cầm xâu chuỗi, cho đến lúc tay dũi thẳng ra xâu chuỗi mới rớt xuống một cách tự nhiên, nhẹ nhàng trước mặt quý Sư Cô. Lúc đó là 5 giờ chiều ngày mồng 8 tháng 9 năm Quý Mùi tức ngày 3 tháng 10 năm 2003. Nơi tịnh thất, trên chánh điện chùa Tây Hưng tiếng niệm “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT” vang lên. Sư Bà trụ thế 92 tuổi, hạ lạp trải qua 63 mùa an cư kiết hạ.  
 Với hạnh nguyện lợi tha cao cả, Sư Bà đã cống hiến cả cuộc đời mình một cách thầm lặng cho đời và đạo. Việc làm của Sư Bà tuy đơn giản nhưng nếu không có Bồ Đề tâm, không có Bồ Tát hạnh thì cũng không dễ gì làm được. Công đức và đạo hạnh của Sư Bà vẫn còn sống mãi trong lòng người con Phật, nhất là Ni giới và hàng Phật tử tại gia. Đặc biệt nhất vẫn là vô số xá lợi đủ màu mà Sư Bà đã lưu lại cho hậu thế, trong đó có 5 viên XÁ LỢI NGỌC. Theo lời Sư Cô Như Hiền, Sư Bà Như Hiếu chỉ giữ lại một số xá lợi để khuyến khích Phật tử tu hành niệm Phật, số còn lại được đem đi rải trên sông.  
 Sư Cô Như Hiền còn cho biết, sau lễ trà tỳ tại lò hỏa táng Bình Hưng Hòa, huyện Bình Chánh-Sài Gòn, Xá lợi được đem về thất để lựa trong tối hôm đó. Đến 2 giờ khuya, giờ mà Sư Bà bắt đầu cho ngày tu niệm Phật, Sư Cô thị giả nghe thấy có luồng gió mát với hương thơm ngào ngạt giống như hương thơm của hoa sứ (ngọc lan). Mùi thơm này lưu lại cho đến mười phút.  
 Sư Bà Như Hiếu cho biết: “Sở cầu sở nguyện của Sư Bà Như Phụng đã được như ý nên Sư Bà đã trở về với Đức Từ Phụ A Di Đà Phật”.  
 Bốn năm trước đây, tại Sa Đéc, hàng Phật tử tại gia có cụ bà Diệu Thành đã vãng sanh để lại xá lợi với sự nhiệm mầu là từ chín viên nhỏ đã tự kết hợp lại thành ba viên xá lợi lớn, nay là Sư Bà Thích Nữ Như Phụng đã vãng sanh để lại nhiều xá lợi đủ màu và năm viên NGỌC XÁ LỢI. Sự vãng sanh của hai vị Bồ Tát nói trên thật là một tấm gương sáng, một bài học quý báu, giúp cho Phật tử ở Sa Đéc có lòng tin sâu xa vào sự thù thắng của Pháp môn Niệm Phật và nhứt là lời dạy vô cùng quan trọng của Đức Bổn Sư trong Kinh Niệm Phật Ba La Mật nói phẩm thứ hai: “Bởi vậy mà Ta, Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn hôm nay trân trọng xác quyết rằng: “VÃNG SANH ĐỒNG Ý NGHĨA VỚI THÀNH PHẬT, VÌ VÃNG SANH TỨC LÀ THÀNH PHẬT”. Chắc chắn là trong tương lai nơi đây sẽ còn có thêm nhiều vị được vãng sanh!
       Thiện Thành và Minh Thịnh cẩn ghi.
5. Đại Cư Sĩ Lý Bỉnh Nam  vãng sanh lưu lại cả ngàn viên xá lợi
Ngài Lý Bỉnh Nam là vị Thầy vĩ đại của hơn 200 ngàn đệ tử nói chung và của Hòa Thượng Tịnh Không nói riêng. Sau khi Ngài tịch, thiên hạ mến mộ công đức của Ngài nên mỗi ngày có khoảng 600 người đến hộ niệm. Tất cả đều tự động đến, không phải để chia buồn, nói lời rỗng tuếch mà đi xung quanh quan tài hộ niệm. Tiếng niệm Phật không ngừng nghỉ trong suốt 49 ngày.
         Cư sĩ Lý Bỉnh Nam thời Dân Quốc, hiệu Tuyết Lư hay Tuyết Tăng; người thành phố Tế Nam tỉnh Sơn Đông. Từ bé, ông đã đỉnh ngộ, hiếu học. Ông chuyên học về pháp luật, chính trị và học cả Trung y, nghiên cứu Phật học: Giáo, Thiền, Tịnh, Mật, ông đều thường tu trì. Ông từng giữ chức giám ngục của huyện Lữ, nhưng nhân từ tột bực, chung thân ăn chay.  
        Ông quy y với vị Tổ thứ mười ba của Tịnh tông là Ấn Quang Đại sư, được ban hiệu là Đức Minh. Ông gắng sức tự hành, dạy người chuyên tu Tịnh nghiệp. Sau ông đáp lời mời, làm bí thư cho vị chủ nhiệm quản trị nhà thờ phụng Đại Thành Chí Thánh Tiên Sư (Khổng Tử).  
        Ông theo chủ nhiệm Khổng Thượng Công (Khổng Đức Thành) thiên di theo chính phủ về Trùng Khánh, sống ở biệt thự Ỷ Lan thuộc núi Ca Nhạc. Mỗi sáng sớm, ông lên chùa Vân Đảnh để lễ tụng, niệm Phật. Ít lâu sau, ông lãnh trách nhiệm giảng dạy cho Phật Học Giảng Diễn Hội của chùa mấy năm, người tin theo rất đông. Năm Dân Quốc 45 (1946), theo Khổng Thượng Công trở về Nam Kinh, ông thường giảng Kinh tại chùa Phổ Tế và Chánh Nhân Liên Xã.  
        Tháng Hai năm Dân Quốc 38 (1949), vào lúc sáu mươi tuổi, ông theo Khổng Thượng Công qua Đài Loan, ngụ tại Thành phố Đài Trung. Vừa mới sắp xếp công vụ xong, ông đã tìm được chùa Pháp Hoa để làm cơ sở hoằng pháp và lập phòng chẩn mạch Trung Y, lập Bồ Đề Y Viện và Thí Y Hội v.v... để chữa trị, hốt thuốc miễn phí. Ông khởi xướng những sự nghiệp hoằng hóa, từ thiện để tiếp dẫn quần cơ đồng tu Tịnh Nghiệp.
Ông thường nhóm chúng niệm Phật; cử phái viên hoằng pháp đến thăm các nhà giam và những gia đình liên hữu. Do đó, pháp duyên ngày càng rộng rãi; tòa giảng kinh của ông mở rộng đến các chùa Linh Sơn, Bảo Giác, Bảo Thiện v.v... Ông còn khuếch trương những cơ sở truyền giáo khắp cả Tam Đài (Đài Bắc, Đài Trung và Đài Nam), chuyên hoằng dương Tịnh Độ phổ độ chúng sanh.  
       Mỗi năm, cử hành Phật Thất nhiều lần; lần nào ông cũng đích thân chủ trì, ân cần, thiết tha huấn thị. Ông thường soạn các tài liệu Phật học hàm thụ và vấn đáp, soạn các chương trình phát thanh miễn phí gởi tặng các đài phát thanh.  
       Về trước tác có: A Di Đà Kinh Trích Chú Tiếp Mông Kỵ Nghĩa Uẩn (lược chú Kinh Di Đà để những người kém hiểu biết lãnh hội được ý nghĩa sâu xa), Đại Chuyên Học Sinh Phật Học Giảng Tòa (tài liệu giảng dạy Phật học cho sinh viên chuyên ngành Phật học) gồm sáu quyển: Phật Học Vấn Đáp Loại Biên, Hoằng Hộ Tiểu Phẩm Vựng Tồn, v.v... hóa độ nhân gian.  
      Nhân đó, ở các nơi gần hay xa, mọi người đều được bình đẳng hưởng thụ pháp ích. Sau ông nghỉ việc để tăng thời gian hoằng pháp; luôn luôn khuyên người khác tin sâu nhân quả, già dặn, chắc thật niệm Phật.
          Trong Pháp môn Niệm Phật có hai công phu để hành trì:
1- Tu Phật Thất, dành cho người căn cơ bình thường.
2- Ban Châu Tam Muội, dành cho người siêu việt xuất chúng, có sức khỏe dẻo dai.
          Hành giả thực hành Ban Châu Tam Muội phải đứng hay đi kinh hành trong thời gian 90 ngày không hề nằm, thường xuyên đắp y hoặc mặc áo tràng. Theo lời kể lại, cư sĩ Lý Bỉnh Nam đã hai lần đạt được Ban Châu Tam Muội. Ngài đã được định rất sâu. Như vậy, có thể Ngài Lý Bỉnh Nam đã đạt được Lý Nhứt Tâm Bất Loạn hoặc Sự Nhất Tâm Bất Loạn.
       Ngày mười hai tháng Tư năm Dân Quốc 75 (1986), ông bảo đệ tử hầu cận:
       - Ta sắp đi đây!
       Đến sáng hôm sau, ông niệm Phật đến nhất tâm bất loạn, dặn dò đệ tử rồi nằm yên lành mà tịch. Thọ chín mươi bảy tuổi. Sau khi trà tỳ, thu được hơn cả ngàn viên xá lợi ngũ sắc.
    Lược trích trong Lý Công Tuyết Hư Lão Cư Sĩ Lược Sự
6. Phật tử Lê Quang Mẫn niệm Phật vãng sanh lưu xá lợi
Vạn sự đều do duyên mà thành, song điều chúng tôi muốn trình thưa nơi đây là một nhân duyên đặc biệt đã giúp chúng tôi biết anh Lê Quang Mẫn, lúc anh thanh thản nằm yên trong áo quan tại nhà quàn Oak Hill ở San Jose.
Ban Niệm Phật chùa An Lạc mới vừa được thành lập (sau khóa tu Phật Thất đầu tiên vào tháng 11 năm 2002) thì anh Trưởng ban mời chúng tôi đến hộ niệm cho người bạn đạo của anh, một Phật tử thuần thành: anh Lê Quang Mẫn, pháp danh Quảng Hỷ, đã qua đời vì bệnh ung thư phổi.
Sau khóa lễ, chúng tôi lặng lẽ tiến đến nơi anh nằm, thầm nói câu vĩnh biệt. Nhìn nét mặt an lành của anh, tôi ngạc nhiên tự hỏi: “Một người từng bị vật vã với bệnh ung thư những hai năm trước khi chết, sao lại có vẻ mặt tự tại, an bình như thế”.
Thắc mắc ấy được giải đáp: một tuần sau đó, anh Trưởng ban báo tin Quảng Hỷ ra đi, lưu lại nhiều xá lợi.
Nghe tin lành ấy, chúng tôi hân hoan chia sẻ với nhau niềm vui đạo vị, mừng cho một liên hữu vừa thoát ly tam giới còn để lại chứng tích củng cố niềm tin cho mọi người. Thỉnh thoảng trong các buổi pháp đàm, một vài người có nhắc lại công hạnh của anh Mẫn, như ôn một tấm gương tốt cho các bạn đạo.
 Chúng tôi noi theo hạnh nguyện Bồ Tát của anh Mẫn, đã cùng với người bạn đồng tu thân thiết của Quảng Hỷ là đạo hữu Nguyên Tịnh, xin phép đến gặp hiền nội của anh Lê Quang Mẫn là đạo hữu Thiền Ngọc.
Trong suốt buổi pháp đàm về người quá cố, chúng tôi ghi nhận được những đặc điểm, gương hạnh của Quảng Hỷ, nhờ đó chúng tôi hiểu được vì sao anh vãng sanh.
Phát Bồ Đề Tâm
Lê Quang Mẫn sinh ngày 28/1/1956 tại Long An, trong một gia đình Phật giáo. Song thân là những người biết tu hành và thường hộ trì Tam Bảo.
Đặc biệt là hỗ trợ cho các Tăng sinh đang tu theo học các khóa Phật học.
Năm 1981, anh xuống tàu vượt biên. Chuyến đi này gặp nhiều hiểm nạn. Tàu bị cướp, bị hư, lênh đênh trên biển cả tháng trời, cạn lương thực, uống nước đến nỗi có nhiều người chết phải thủy táng tại chỗ. Trong cảnh đau khổ và tuyệt vọng cùng cực ấy, anh khẩn thiết niệm “Quán Thế Âm cứu khổ cứu nạn”. Khi cả tàu được thoát nạn, anh càng tin tưởng hơn vào sự nhiệm màu của Bồ Tát.
Từ đó, anh phát Bồ Đề tâm, nguyện làm Bồ Tát Phát tâm, trên cầu Phật đạo, dưới cứu khổ muôn loài. Hơn ai hết, anh đã chứng kiến và chịu đựng sự đói khát cùng cực, đã cận kề cái chết, hiểu mạng sống của sinh linh vô cùng quý báu; nếu không có những vị Bồ Tát trải lòng từ bi rộng khắp để cứu độ thì họ biết trông cậy vào ai.
Anh Lê Quang Mẫn cùng gia đình định cư ở An Diego (cực Nam California).
Tự độ , độ tha
Vốn thấm nhuần Phật Pháp, Quảng Hỷ thường lui tới sinh hoạt tại các chùa. Là đệ tử của Thượng Tọa Thích Từ Lực, hầu như tuần nào Quang Mẫn cũng có về Trung Tâm Phật Giáo Hayward để được học hỏi giáo pháp. Ngoài ra, anh còn làm Phật sự tại các chùa Đức Viên, An Lạc, Kim Sơn, Hồng Danh v.v...
Anh đã tham dự khóa tu của Thiền sư Nhất Hạnh tại Làng Hồng và có ý định xuất gia nhưng không thực hiện được. Quang Mẫn theo Thầy Thông Triệt học Thiền một thời gian ngắn. Đến năm 1996, anh quyết định chuyên tu Tịnh Độ, tự soạn ra nghi thức để hành trì và phổ biến. Mỗi tối anh đều có thời Tịnh tu.
Tâm nguyện của anh là đem sự lợi ích đến cho đồng bào về vật chất lẫn tinh thần. Cúng dường và bố thí là Phật sự thường xuyên của anh.
Bên Bờ Sinh Tử
Năm 2000, anh bắt đầu ho. Thời gian này, anh tham dự khóa tu 5 ngày ở Santa Cruz (Bắc Cali) dưới sự hướng dẫn của Thầy Hằng Trường. Khóa tu để lại một ấn tượng khó phai trong tâm khảm anh.
Đến tháng 6/2001, người anh sa sút thấy rõ. Vợ anh lo lắng, năn nỉ anh đi khám bệnh tổng quát, chụp hình phổi. Tháng 7, bác sĩ xác nhận anh bị ung thư phổi vào thời kỳ khá nặng rồi.
Tuy biết mình vướng phải bệnh nan y nhưng anh Mẫn không hề sợ hãi. Anh vẫn lạc quan và sinh hoạt bình thường. Tháng 5/2002, dù cơn bệnh bắt đầu hoành hành, anh vẫn tham dự khóa tu hai tuần lễ của Thầy Hằng Trường tại Nam California.
Thầy chuyên tu về Hoa Nghiêm, hướng dẫn tu Bồ Tát đạo, mở rộng tâm thức Tịnh Độ cho hành giả. Đây là vị thiện trí thức cuối cùng nhưng quan trọng nhất trong cuộc đời tu học của Quảng Hỷ vì Thầy đã chỉ cho anh thấy rõ rằng muốn tự độ, phải độ tha; hãy quên mình phục vụ chúng sanh. Trong mọi hoàn cảnh, đừng ích kỷ tự tu, hãy vì tha nhân mà hành sự.
Thầy đã giải đáp được hoài bão độ sinh và chí nguyện giải thoát của Quảng Hỷ. Đây chỉ là một, không hai. Tu niệm Phật nên vì người mà tu cầu vãng sanh cũng vì muốn độ chúng sanh mà về Cực Lạc để tu học.
Lần cuối cùng Quảng Hỷ được gặp Thầy Hằng Trường ở một đạo tràng tại tư gia đạo hữu Tâm Quảng. Bấy giờ bệnh đã nặng lắm, đi đâu cũng phải mang bình dưỡng khí trong người để thở. Thầy khuyên anh: “Hãy xả bỏ tất cả!”.
Kể từ đầu năm 2002, bệnh tình ngày càng trầm trọng. Có người chỉ phương thuốc uống máu rắn hoặc giết rắn lục đốt ra tro uống (họ tình nguyện mua giùm). Anh khẳng khái chối từ: “Tôi thà chịu chết, không giết hại sinh mạng. Mình đã thọ Bồ tát giới, sao làm việc ấy được!”.
Tháng 11/2002, một tuần lễ trước khi mất, Quảng Hỷ nằm ở Nursing Home “Mission De La Casa”. Nơi đây, không những các bạn đạo thay phiên nhau thăm viếng mà chư Tăng Ni các chùa cũng lần lượt đến an ủi.
Vài ngày trước khi mất, Quảng Hỷ nói với đạo hữu Đoàn Thị Nga: “Em có gì (ý nói không qua nổi, sắp mất) nhờ chị cho Thầy Hằng Trường biết. Nếu em có xá lợi, chị giao cho Tuyết, vợ em (ngầm muốn độ cho vợ)”.
Tuy Quảng Hỷ dặn dò hậu sự, nhưng tâm anh chưa sẵn sàng ra đi. Anh vẫn muốn sống để tiếp tục những Phật sự, để có dịp về Việt Nam xây nhà tình thương, trường học, giúp đỡ đồng bào nghèo. Những dự tính cả đời ước ao mà anh chưa thực hiện được.
Ngày 15/11/2002, từ 3 giờ chiều, anh bắt đầu hấp hối, nhịp tim yếu dần, yếu dần, từ 30 xuống còn 20. Mồ hôi toát ra theo những cơn đau.
 Đã liên lạc được với Thầy Hằng Trường. Thầy đang ở xa, Thầy điện thoại về, dặn: “Quảng Hỷ ráng chờ Thầy, Thầy sẽ tới!”. Bạn đạo kề tai Quảng Hỷ báo tin; anh hiểu và anh chờ. Quý Sư và các bạn đạo luân phiên hộ niệm.
Thoát vòng sanh tử
Khoảng 9 giờ đêm, Thầy đến. Bây giờ Quảng Hỷ đã đuối lắm rồi nhưng vẫn còn tỉnh táo. Biết Thầy Hằng Trường tới, anh mở mắt, bật ngồi dậy, bắt tay Thầy, cúi đầu chào. Nhịp tim đang ở mức 20 tăng vọt lên 40,50 rồi 100, tưởng như sức sống được phục hồi. Điều này làm bác sĩ Thái Hồng Phương (đang hiện diện) rất ngạc nhiên.
Thầy hiểu tâm trạng của anh. Đây là giờ phút quyết định. Thầy nói: “Thầy đã thỉnh Ngài Quán Thế Âm tiếp dẫn anh về Tịnh Độ. Đây là duyên lành hiếm có. Hãy buông bỏ hết, một lòng niệm Phật mà ra đi trong ánh hào quang của chư Thánh Chúng”.
Thầy bảo Ban Hộ niệm phải nghiêm chỉnh vì đang có sự hiện diện của Thánh chúng nơi đây.
Và theo lời dạy của Thầy, các bạn đạo lần lượt tiến đến, kề tai Quảng Hỷ chúc lành cho anh ra đi. Tất cả mong Quảng Hỷ đi về thế giới Cực Lạc an lành, cõi tạm trần ai này không có gì đáng lưu luyến.
Thầy Hằng Trường hướng dẫn phương pháp niệm Phật cho người sắp lâm chung: “Hãy thấy mình với người bệnh là một. Mình là người bệnh, đau đớn vô cùng vì tứ đại đang phân ly. Do đó câu niệm Phật phải nhẹ nhàng, êm ái, sao cho dễ nghe, dễ cảm. Đừng niệm dồn dập quá như hối thúc người ta, vì phải đúng giờ mới đi được. Câu niệm cho liên tục”.
Anh Quang Mẫn nằm im, thầm niệm theo. Nhịp tim xuống dần, xuống dần. Khoảng 15 phút sau, anh thở ra 3 lần rồi đi nhẹ nhàng.
Ngay khi ấy, Sư Cô Quảng Tịnh cảm thấy có một luồng điện từ đỉnh đầu cô chạy dài xuống cả toàn thân. (Đây là lần thứ hai cô có cảm ứng này: lần thứ nhất, khi trợ niệm cho đạo hữu Thiện Bữu, vãng sanh năm 2000).
Thầy Hằng Trường xác nhận Quảng Hỷ đã vãng sanh và chúc mừng gia đình anh.
Một ngày sau khi làm lễ hỏa thiêu, anh Nhơn, một bạn đạo của Quảng Hỷ, do linh tính nên đã đến lo thiêu, thu nhặt được một số Hoa Xá lợi, ửng màu ngũ sắc.
Đặc biệt có Xá lợi giống như hình ngọn núi, cao 1 inch, phần dưới có màu hồng cam, phần trên trắng như sữa, có vòng xanh lục chung quanh, đỉnh có điểm tuyết lấp lánh.
Hoa Xá lợi này, Sư cô Như Phước xin về để ở chùa Đức Viên để sách tấn người niệm Phật.
Thiện căn phước đức nhân duyên
Quảng Hỷ đã gieo duyên với Phật pháp từ nhiều kiếp rồi nên kiếp này anh vô cùng hâm mộ đạo Phật, một lòng cầu học không mệt mỏi. Lại phát tín tâm tu Tịnh Độ cầu vãng Sanh, một pháp môn rất khó tin, khó vào. Đây là đầy đủ thiện căn.
Thừa hưởng phước đức từ kiếp trước, anh lại tự mình liên tục bố thí, cúng dường, làm công quả. Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh, Quảng Hỷ đã thật sự phát Bồ Đề tâm, sống xứng đáng với danh hiệu “Hữu tình giác ngộ”, “Bồ Đề tát đỏa” xứng đáng với Bồ Tát giới mà anh đã thọ trì.
Chính cái tâm rộng lượng ấy là nhân duyên tối thắng giúp anh gặp được Thầy Hằng Trường theo luật đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Thầy Hằng Trường xuất hiện kịp lúc, giúp anh tháo cái mấu chốt cuối cùng (còn lưu luyến với sự sống) và đồng thời giúp cho anh niềm tin mạnh mẽ vào sự tiếp dẫn của chư Thánh chúng. Tự lực và tha lực kết hợp đúng thời, đúng lúc, thật là vi diệu.
Thành tựu của anh là một sự thật hiển nhiên, là bài học thực tiễn cho tất cả liên hữu đương thời và mai sau.
Lược thuật bài viết của D.N. (Viết theo lời kể của hiền thê anh Lê   Quang Mẫn    và Nguyên Tịnh, bạn đồng tu chí thân của anh).
7. Chuyện vãng sanh của cụ Thiện Phước ở Biên Hòa
Nhiều việc niệm Phật linh ứng của những vị dự niệm Phật Thất
Có rất nhiều chuyện niệm Phật linh ứng của các Phật tử tham dự niệm Phật. Ở đây, tôi xin đưa một vài gương điển hình.
Phật tử Huệ Nhân, năm nay 74 tuổi, mẹ mất đã lâu, chưa bao giờ nằm mộng thấy mẹ về nhưng sau khi vào chùa dự Phật thất được ba kỳ thì bà nằm chiêm bao thấy mẹ về và được báo mộng là mẹ của bà đã vãng sanh về Cực Lạc. Bà vui mừng vô hạn vì 40 năm mới gặp lại mẹ.
Phật tử Đoàn Thanh Sơn có con tên Đoàn Thanh Nhân, nóng tánh hay gây gỗ, bỏ học, thích rong chơi bên ngoài, cha mẹ của cậu than phiền với tôi. Tôi bảo dẫn cậu bé vào quy y và tham dự niệm Phật vào mỗi Chủ Nhật. Và kể từ đó, cậu thay đổi hẳn tính tình. Ban ngày đi học nghề, buổi tối đi học bổ túc và vâng lời cha mẹ, không rong chơi phá phách làng xóm nữa.
Và cuối cùng là chuyện vãng sanh của cha tôi
Tôi thấy công đức niệm Phật thậm thâm vi diệu. Cha mẹ tôi thửa sanh tiền là một thương gia lớn ở chợ Biên Hòa, công việc ông rất bận rộn cả ngày, ông bà chỉ dành ít thời gian để đi chùa, phần lớn là niệm Phật và bố thí. Hơn 60 năm, đêm nào trước khi đi ngủ, ông cũng niệm Phật cho đến khi ngủ quên.
Có nhiều lúc bán hàng đến 12 giờ khuya mới ăn cơm. Dầu mỏi mệt, mắt nhướng không nổi, ông cụ vẫn không bỏ thời khóa niệm Phật. Ngày ấy tôi vừa mười hai tuổi đầu, không hiểu việc làm của cha.
Ông là người Tàu lai mang họ Từ tên Từ Văn Lên, pháp danh Thiện Phước, sanh năm 1916. Năm 1959, lúc tôi 9 tuổi, ông quy y với Thầy Yết Ma Thiện Niệm, là một Ni sư người Pháp lai giả trai đi tu. Cha tôi chỉ nghe Thầy Yết Ma và Ni Trưởng Huỳnh Liên, Ni sư Thanh Liên, Kim Liên, Tạng Liên dạy niệm A Di Đà Phật được vãng sanh về cõi Phật.
Đằng đẳng hơn 60 năm, không một buổi tối nào ông bỏ thời khóa niệm Phật. Ông lên gác thắp nhang bàn Phật rồi xuống dưới đất ngồi trên bộ ván niệm Phật. Chư Phật đã chứng minh cho ông. Trước khi nhắm mắt, ông biết trước ngày vãng sanh.
Sáng ngày 9/2/1992, tôi về thăm nhà, ông nhìn tôi mà nói:
- Con có tiền lo cho ba không?
Tôi liền nhìn ông vì lúc này ông không bị bệnh hoạn gì mà lại hỏi như vậy. Tôi trả lời rằng:
- Con đi tu, dạy học ở trường hạ đâu có tiền.
Đến chiều ngày mùng 10/2/1992, ông bị té và được đưa vào bệnh viện vào lúc 7 giờ sáng ngày 11/2/1992.
- Ông hỏi: Nay ngày mấy?
- Đứa cháu nội nói: Dạ ngày 11.
- Ông nói: ngày 14 nhớ mua khoai lang nấu để cúng nhe. Ba sẽ được vãng sanh, nấu để cúng chư Phật đến rước Ba. Ông lập đi lập lại ba lần.
Đúng 4 giờ 30 sáng ngày 14/2/1992, người an nhiên ra đi trong tiếng trợ niệm của con cháu.
Lạ thay, lúc ở bệnh viện, mắt ông tái xanh nhưng khi về nhà, khuôn mặt ông sáng lạ thường, môi như mỉm cười, da thịt đầy đặn, sắc mặt sáng rực ánh hồng. Toàn thân lạnh ngắt nhưng riêng đỉnh đầu của ông vẫn nóng ấm.
Chuyện này có nhiều chư Tôn đức chứng minh nhưng vì thời gian cũng lâu nên bây giờ nhiều vị đã mất, nhiều vị đã đi nơi khác nên khó mà tìm được để chứng minh người thật việc thật. Nhưng những điều tôi trình bày đây là chân thật, không hư cấu hay giả dối vì Phật pháp bất khả tư nghì. Ông hưởng thọ 77 tuổi, vãng sanh ngày 14/2/1992. Một năm sau, 24/2/1993, mẹ tôi cũng vãng sanh và cũng thọ 77 tuổi.
Tuy tôi học nhiều, được bằng Cử nhân Phật học, Cử nhân Văn chương, Cao học Xã hội, Giảng viên Phật học và nhiều chức vụ khác nhưng tôi không công phu niệm Phật thì chắc chắn lúc lâm chung sẽ không được hưởng lợi lạc như cha mẹ tôi. Mặc dầu ba mẹ tôi không am hiểu nhiều về giáo lý nhưng ông bà niệm Phật gấp bội lần nên vãng sanh thật an nhiên và biết trước ngày vãng sanh. Tôi chỉ mong ước được bấy nhiêu đó thôi.
Cha tôi được an táng không trà tỳ nên không biết có Xá lợi không. Nhưng theo tôi, có hay không Xá lợi thì cũng không quan trọng, quan trọng là có vãng sanh được hay không mà thôi.
Lược trích bài viết của Sư cô Thích nữ Huệ Tâm
8. Cư sĩ Vân Liên ở Bành Tô Úc Châu
Chín giờ hai mươi ba phút chiều ngày mồng một tháng giêng năm 2000, cư sĩ Vân Liên ở Bành Tô, tám mươi sáu tuổi, ngồi kết già trên ghế sô pha trong phòng thờ Phật tại nhà mình đã niệm Phật suốt hơn ba mươi tiếng đồng hồ. Lúc này, đôi mắt bà dán chặt vào thánh tượng của Đức Phật A Di Đà trước mặt, đồng thời vẫy tay ra hiệu bạn đồng tu hạ tượng Phật thấp xuống một chút. Trong khoảnh khắc, bà mở to đôi mắt chiếu ra luồng sáng lạ lùng. Hai tay duỗi ra đặt vào thành ghế sô pha dường như muốn đứng dậy cung nghinh Đức Phật A Di Đà đến, trên môi vẫn luôn mấp máy niệm Phật. Sau khi giữ tư thế như vậy và liên tục niệm được mấy mươi phút nữa, cuối cùng bà nhắm mắt lại chỉ có đôi môi vẫn mấp máy chầm chậm không ngừng niệm Phật.
Những bạn đồng tu tham gia trợ niệm đứng gần bà, đột nhiên nghe một làn hương thoảng nhẹ từ trên người bà tỏa ra.
Cô con gái đang dốc lòng nhắm đôi mắt lại, ngồi bên cạnh niệm Phật, đột nhiên nghe bên tai văng vẳng tiếng nhạc trời trổi trên không trung. Cô cứ cho rằng ai đang chơi âm nhạc nên mở to đôi mắt ra nhìn, thấy bạn đồng tu đều đang ngồi đông đúc, quay quanh hai bên, chú tâm niệm Phật. Người mẹ ngồi kết già ngay thẳng bên cạnh được Phật tiếp dẫn đã nhắm mắt vãng sinh. Mẫu thân rốt cuộc đã thoát khỏi sự ràng buộc đi vào thế giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà mà ngày đêm bà nhớ tưởng.
Đây là việc thật người thật xảy ra vào năm 2000 tại Yagoona, Tuyết Lê, Úc Châu, một vị niệm Phật ba năm, phát nguyện cầu sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc, lúc lâm chung được Phật tiếp dẫn vãng sinh.
Khi phát bốn mươi tám đại nguyện, Đức Phật A Di Đà nói: “Nguyện khi ta làm Phật, mười phương chúng sinh, nghe danh hiệu ta, phát Bồ Đề tâm, tu các công đức, thực hành sáu Ba la mật, bền bỉ không thoái chuyển; lại đem căn lành hồi hướng nguyện sinh vào nước ta, một lòng nghĩ đến ta, ngày đêm không nguôi thì lúc lâm chung, ta cùng chúng Bồ Tát hiện đến trước người ấy, trong khoảng sát na, liền sinh về cõi nước ta, thành Bồ Tát bất thoái chuyển. Nếu không được như lời nguyện này thì ta không thành Phật”. Đây là lời nguyện “Tiếp dẫn vãng sinh” của Đức Phật A Di Đà.
Cư sĩ Tô là người thế nào? Nhân duyên nào bà được vãng sinh như lời nguyện? Quá trình bà vãng sinh đã chỉ rõ cho chúng ta điều gì? Vì vậy, người bạn đồng tu tham gia trợ niệm của chúng tôi đã cùng người thân và con gái của cư sĩ Tô nhiều lần nói chuyện với nhau, tìm hiểu, hy vọng có thể tìm ra đáp án, để không phụ tấm lòng khổ nhọc của cư sĩ Tô thị hiện lúc lâm chung.
a. Kiếp người lận đận.
Cư sĩ Bành Tô Vân Liên là một người bên ngoài chất phác trung hậu, tính tình nhu hoà lương thiện có thể tùy duyên vui sống, nhưng nội tâm rất độc lập kiên cường.
Năm 1915, bà sinh ra trong một gia đình nông thôn thuộc huyện Phổ Ninh, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Năm mười mấy tuổi, bà gầy ốm, là con gái lớn trong nhà. Do hoàn cảnh gia đình nghèo, vì vậy những công việc nặng nhọc lớn nhỏ, bất luận cày ruộng, lấy nước, nấu cơm, giặt áo, chăm sóc em v.v… bà đều chủ động gánh vác thay cho cha mẹ. Bà lặng lẽ làm việc, không từ khó nhọc, dù cuộc sống khổ sở đến đâu cũng không hề thốt lời oán trách. Chính trong sự nghèo khổ từ thuở nhỏ đã tôi luyện cho bà một cá tính chịu khó nhẫn nại, độc lập kiên cường.
Năm mười bảy tuổi, theo lời mai mối, bà được gả đến nhà họ Trương. Sau khi kết hôn, người chồng theo cha sang Việt Nam xa xôi mưu sinh. Hai năm sau, bà mười chín tuổi, bà cùng mẹ chồng di cư sang Việt Nam. Hơn ba mươi năm sinh sống ở Việt Nam, vì giúp chồng mưu sinh nên thân thể bà gầy yếu. Mỗi ngày phải dọn dẹp, vận chuyển các loại hàng hóa nặng nề để duy trì cuộc sống, lại phải phụng dưỡng mẹ chồng và nuôi dưỡng mười người con, bốn nam sáu nữ. Thật là đã nếm đủ mùi vất vả, gian nan, khó nhọc!
Bà đã từng có những chuỗi ngày rất gian khổ. Chồng bà say mê cờ bạc, mọi việc sinh nhai trong gia đình, dạy dỗ con cái nhỏ dại đều dồn hết cho bà, ông ta không để ý đến. Nhưng bà vẫn một lòng gánh vác chịu đắng cay khổ sở, nghĩ hết cách để duy trì cuộc sống. Cuộc sống không chỗ nương tựa; gánh vác một gia đình nặng nhọc, đã nuôi dưỡng thành một cá tính độc lập kiên cường của bà, làm việc không ngại vất vả, không hề oán trách. Dù chịu biết bao oan khuất cũng âm thầm đón nhận không bao giờ than khổ với người khác, tất cả gian khổ đều nuốt vào lòng. Mọi người hãy tìm hiểu kỹ, cảm nhận được cuộc sống cư sĩ Tô ở Việt Nam, thì có thể phát hiện ra những điều bà đã trải qua, đó không phải là sự rèn luyện và nỗi đau khổ mà người bình thường có thể nhẫn chịu. Tuy đương thời bà không cơ duyên tiếp xúc Phật pháp nhưng sự biểu hiện của bà lại ấn chứng trọn vẹn Lục độ Ba la mật trong Phật pháp.
Bố thí! Bà đã không ngừng bỏ công sức đối với gia đình, cha mẹ chồng, chồng và con cái.
Trì giới! Làm việc vất vả mấy mươi năm như một ngày không hề biếng nhác, không một lời oán trách.
Nhẫn nhục! Dù chịu bao oan khuất vẫn làm tròn bổn phận không than thở với người.
Tinh tấn! Siêng năng quản việc nhà, dùng thân giáo làm gương cho các con, không hề ngơi nghỉ.
Thiền định! Cuộc sống dù khổ đến đâu, vẫn an nhiên không lay động, an phận giữ mình, tùy duyên vui sống, phụng dưỡng cha mẹ chồng, dạy dỗ con cái, hiền lành nhu hoà với người, khắc khổ cần kiệm với bản thân, trọn một đời không thay đổi.
Trí huệ! Trong cuộc sống, bà có thể tùy duyên vui sống, tùy duyên mà làm việc.
Vào thời điểm ấy, tuy mọi người không có cơ hội đọc sách biết chữ, tiếp nhận sự giáo dục nhưng bà quả thật được rèn luyện trong đời sống khốn khổ và đã thành tựu phẩm đức tốt đẹp, chứng minh cho những điều Cổ đức đã nói: “Cuộc sống chính là sự tu hành, tu hành không tách rời cuộc sống”.
b. Phước báo đến, được pháp môn niệm Phật, Tín Nguyện niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ.
Năm 1978, cả nhà cư sĩ Tô dời về Đài Loan. Năm 1986, trong sự sắp xếp của hai cô con gái, bà và chồng lại từ Đài Loan sang Tuyết Lê, Úc Châu. Cuộc sống cuối đời của bà tại Úc Châu đã không còn vất vả nữa, đó là kết quả đạt được của cả đời bà, chịu khó tu phước đức. Cũng may nhờ những người con hiếu thuận này, bà mới có thể thụ hưởng phước thanh nhàn vui cùng con cháu. Hai người con gái học Phật, con rể đều vô cùng hiếu thảo, lại thêm một đàn cháu ngoại đều đáng yêu, thường làm bạn bên cạnh, khiến cho tính tình bà vốn đã ôn hoà lương thiện, lại càng biểu lộ nét từ bi, tươi sáng. Bất luận bà đi đến đâu thì nơi đó đều tràn ngập bầu không khí vui tươi, hoạt bát. Điều đáng quý hiếm là vào tuổi thất thập cổ lai hi, bà có duyên được nghe Phật pháp, tiếp nhận được sự đích thân hướng dẫn của Đại đức pháp sư Tịnh Không, tông Tịnh Độ đương thời, giống như giữa đêm đen mờ mịt tìm được ngọn đèn sáng soi đường. Từ đây, bà đã tìm được mục tiêu chân chính của đời người, tham gia vào hội “A Di Đà Phật cộng tu”, bà bắt đầu niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh thế giới Cực Lạc. Bao nhiêu thiện căn phước đức được gieo trồng từ vô lượng kiếp đến giờ, gặp được nhân duyên hiếm có này, rốt cuộc bà đã bước lên con đường Bồ Đề thênh thang rộng lớn.
c. Dõng mãnh tinh tấn.
Hiểu rõ lợi ích công đức thù thắng của niệm Phật và kết quả rốt ráo viên mãn của thế giới Cực Lạc ở Tây phương. Từ đó, bà buông bỏ muôn duyên, nhất tâm niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ. Bốn giờ sáng trong nhà đã vọng ra tiếng niệm Phật trong trẻo của bà. Mỗi chiều, sau khi bọn trẻ tan học trở về nhà, bà liền dẫn cả nhà lớn nhỏ và đàn cháu ngoại (đứa nhỏ nhất mới năm tuổi) xếp thành một hàng, cùng niệm Phật kinh hành, vòng quanh Phật, lễ Phật, giống như một hồ hoa sen nhỏ. Sau khi học Phật, bà cung kính Tam bảo, tôn thờ Sư trưởng; mỗi khi có pháp sư đến giảng kinh hoằng pháp, bà luôn đến dâng hoa, lễ bái và tham gia nghe kinh, nghe pháp không hề gián đoạn. Dù có một số pháp sư giảng tiếng bản xứ, nghe không hiểu, bà cũng ngồi cung kính ngay thẳng lắng nghe, không làm ảnh hưởng đến mọi người, không hề giữa chừng rời bỏ đạo tràng.
d. Tín nguyện kiên cố, vượt qua mối lo ung thư phổi
Tháng 02 năm 1998, cư sĩ Tô do bệnh phải nằm viện kiểm tra, phát hiện đã vướng bệnh ung thư phổi, bà vừa tiếp nhận trị liệu hóa học, vừa cố gắng khẩn thiết niệm Phật. Hai tháng sau, bà đi kiểm tra lại, bác sĩ vô cùng kinh ngạc, phát hiện ra tế bào ung thư không còn nữa.
Tháng 05 năm 1998, sau khi hết bệnh, bà cùng con gái tổ chức một chuyến du lịch toàn cầu, đi thăm viếng bạn bè, bà con và con cái ở rải rác các vùng trên thế giới. Đồng thời, bà đem những kinh nghiệm từng trải của bản thân mình khuyên mọi người niệm Phật cầu vãng sinh Tây phương Tịnh Độ. Và cũng nhân cơ duyên này, bà nói lời giã biệt sau cùng với mọi người.
Đầu năm 1999, cư sĩ Tô do bị ho liền đi bệnh viện, sau khi kiểm tra mới biết bệnh ung thư phổi tái phát, hơn nữa bệnh đã sang thời kỳ thứ hai.
Bà nói với bác sĩ: “Tôi cảm thấy rất tốt, không cảm thấy có bệnh nặng gì, cũng không cần chích thuốc, uống thuốc và làm hoá học trị liệu”. Đối với chứng bệnh hiểm nghèo này, bà không hề lo sợ, dường như bà không muốn làm gì cho chính mình. Trong khi những bạn đồng tu có một số việc nhỏ như đau lưng nhức mỏi, bà lại ghi nhớ trong lòng, nghĩ hết mọi cách tìm cho được phương thuốc nội địa phối hợp với thảo dược, đem biếu cho người bệnh dùng; dường như một chút bệnh nhỏ của người khác vẫn quan trọng hơn chứng bệnh ung thư của chính mình.
Sau khi biết bệnh ung thư của mình tái phát, bà càng tinh tấn niệm Phật hơn. Tâm nguyện cầu sinh Tịnh Độ càng bức thiết hơn. Bà vẫn tham gia hội “A Di Đà Phật cộng tu”. Mỗi cuối tuần, hội tổ chức 24 giờ, bà luôn tinh tấn niệm Phật, khiến cho những bạn đồng tu trẻ tuổi trông thấy đều hổ thẹn.
Ngày 26 tháng 10 năm 1999, trước ngày vãng sinh hai tháng, trong ngoài nhà của con gái, bà đều dọn dẹp sạch sẽ, những luống rau cải được trồng thường ngày cũng được nhổ dọn sạch sẽ. Sau đó, bà nói với con gái: “Sau này, mẹ không còn có thể giúp con trông nom việc nhà. Thường ngày con phải đi làm, rau cải cũng không thể chăm sóc được, vì vậy, mẹ phải dọn sạch hết”. Còn một số tiền dư, bà cũng phân chia hết. Từ điểm này có thể phát hiện ra, trước hai tháng, bà đã sớm tiết lộ cho mọi người trong nhà biết tin mình sắp vãng sinh.
Trong khoảng thời gian sau cùng, bà vẫn như thường lệ tham gia hội “A Di Đà Phật cộng tu”. Đồng thời ghi tên tham gia Phật thất từ ngày 24 tháng 12 đến ngày 31 tháng 12, do hội “A Di Đà Phật cộng tu” tổ chức. Suốt bảy ngày đêm, bà không ngừng tinh tấn niệm Phật. Vào ngày 26, bệnh tình bà nặng hơn. Theo sự khuyên nhủ của cô con gái, bà mới trở về nhà nghỉ ngơi qua đêm. Nhưng đến sáng hôm sau bà vẫn kiên trì đến đạo tràng Phật thất. Mãi đến ngày 29, khi bệnh tình trầm trọng hơn, bà mới trở về niệm Phật ở nhà.
Một bà cụ 85 tuổi, không màng đến cơ thể bị bệnh ung thư dày vò, từ chối lời đề nghị của bác sĩ, dừng tất cả thuốc men và trị liệu hoá học, toàn tâm toàn ý lao vào niệm Phật, ngày đêm không nghỉ, tinh tấn liên tục mấy ngày đêm, không chịu tiếp nhận lời khuyên dừng niệm. Niệm Phật dốc sức như thế, đủ để chứng minh tín tâm và nguyện lực cầu sinh Tịnh Độ của bà là kiên định không gì sánh bằng! Hiện thân thuyết pháp như thế, bảo cho chúng ta biết đây mới là Nhất tâm quy mạng chân chính Đức Phật A Di Đà nơi thế giới Tây phương Cực Lạc.
Ngày 30 tháng 12, khi kiểm tra, bác sĩ phát hiện ra bộ phận phổi của bà đã chứa đầy nước. Một số bệnh nhân như thế thì đau đến nỗi không tự kiềm chế được. Vả lại, cần phải rút nước ra. Nhưng cư sĩ Vân Liên vẫn theo thường lệ ngồi niệm Phật, không hề có hiện tượng phổi trương nước. Bác sĩ vỗ nhẹ vào bộ phận phổi, hỏi bà: “Khó chịu không?” Bà gật đầu đáp: “Có”. Bác sĩ hỏi bà có đau không? Bà lắc đầu nói: “Chỉ cần nhất tâm niệm Phật thì không đau, lơ là một chút thì cái đau dấy lên”.
Trưa ngày 31 tháng 12, kết thúc Phật thất của hội “A Di Đà Phật cộng tu”, các bạn đồng tu cùng đến thăm bà. Khoảng 10 giờ 30 phút, mọi người phát hiện, cư sĩ Tô đang ngồi trong Phật đường, đột nhiên chắp tay, tướng mạo trang nghiêm, một luồng hào quang vàng rực chiếu xuống đỉnh đầu bà, từ từ lan tỏa toàn thân, khoảng chừng 15 phút, mới dần dần biến mất. Những người trông thấy đều kinh ngạc. Vì vị trí Phật đường ở hướng Nam, so với thời tiết hiện tại, thì mặt trời hoàn toàn không thể chiếu vào. Trong khoảnh khắc này, họ hàng, con cháu đều kéo nhau đến thăm hỏi, an ủi, bao nhiêu tình cảm dâng tràn khó thể dùng lời diễn đạt.
Ngay chiều hôm ấy, đoàn trợ niệm của hội Tịnh Độ Tuyết Lê cùng với các bạn đồng tu của hội “A Di Đà Phật cộng tu” bắt đầu trợ niệm, đồng thời yêu cầu tất cả thân bằng quyến thuộc đều phải tránh xa. Bởi vì các thành viên của đoàn trợ niệm đang vây quanh dốc lòng niệm Phật, để tránh tình thân làm trở ngại việc vãng sinh.
Mọi người đều hiểu rõ hiện giờ đã đến thời điểm quan trọng: Bà có vãng sinh được hay không? Vì vậy, bất luận thế nào cũng không thể có một chút sai sót.
Nhị lực pháp môn, tuy có trợ niệm nhưng tự lực phải phấn đấu, giúp đỡ nhau, thành tựu cho nhau.
Trong suốt 33 giờ niệm Phật, người trong đoàn trợ niệm đã mệt, có thể luân phiên thay đổi nghỉ ngơi. Nhưng cư sĩ Tô vẫn phải gượng đau niệm Phật, tập trung tinh thần, không thể lơ là và không người nào có thể thay thế. “Việc lớn sinh tử ai có thể thay thế! Con cái dù hiếu thuận cũng không thể làm gì, không thể nào nhận thay mình!”.
Đúng như kinh Vô Lượng Thọ đã nói: “Con người trong ái dục, sinh tử một mình, đến đi một mình, khổ vui tự gánh, không người thay thế”. Dù đã kiệt sức quá đổi, suýt chút nữa ngã quỵ nhưng bà lại lập tức niệm Phật theo mọi người. Có người hỏi: “Bà có cần nằm xuống nghỉ một chút không?” Bà lắc đầu cự tuyệt. Có người lấy xâu chuỗi niệm Phật trao cho bà, sau khi vừa duỗi năm ngón tay ra nhận lấy, bà chỉ lần chuỗi niệm một tiếng rồi đặt lên đùi, dường như muốn nói rõ: Hiện giờ đã là thời khắc quan trọng, không thể nhờ vào chuỗi, mà phải tập trung tinh thần phấn đấu đến cùng.
Nhìn thần sắc gắng gượng của bà, môi mím chặt răng, lộ vẻ niệm đến cùng một câu danh hiệu Phật. So với vẻ mặt đáng yêu khả kính trước kia của bà, một bà cụ gương mặt đầy đặn tươi tắn, giờ đây dường như trở thành hai người, khiến một số bạn tu vô cùng xúc động, không dằn lòng được, họ xoay người qua lễ Phật, cầu xin Phật và Bồ Tát mau đến tiếp dẫn cư sĩ Tô vãng sinh về Tây phương. Những nghiệp còn lại của bà, chúng con xin thay nhau gánh chịu. Tấm lòng trợ niệm, nhiệt tâm của những người bạn đồng tu chân thành tha thiết giống như cầu giúp cho cha mẹ ruột của mình vãng sinh Cực Lạc, không dám mảy may xao lãng. Thật đáng gọi là từng tiếng danh hiệu Phật đều biểu lộ sự chân thành cùng một cội nguồn không có ta, không có ai khác.
Tất cả những bạn đồng tu tham gia trợ niệm lần này, đều tán thán: “Trước giờ tham gia trợ niệm, nhưng chưa từng niệm đến mức chân thành tha thiết, trang nghiêm thanh tịnh như vậy. Niệm mãi đến cảnh giới tràn đầy pháp lạc mà cũng không muốn thôi”.
Trợ niệm liên tục 33 giờ, vào 9:23 phút chiều tối ngày 01 tháng giêng, mọi người đồng cầu mong Phật tiếp dẫn bà vãng sinh Cực Lạc. Sau 12 giờ đêm, bà vãng sinh. Khi bạn đồng tu bận rộn thay đổi y phục cho bà, họ mới phát hiện ra toàn thân bà mềm mại, đỉnh đầu nóng ấm, gương mặt thoáng nụ cười, tướng mạo trang nghiêm, đẹp hơn lúc sống. Một người bạn đồng tu lần đầu tham gia trợ niệm sau khi nhìn thấy đã kinh ngạc, yêu cầu cho chụp một bức ảnh lưu niệm để minh chứng.
f. Xá lợi thị hiện, khuyên tinh tấn tu.
Sau khi hỏa táng di thể của cư sĩ Bành Tô Vân Liên, mọi người phát hiện ra mấy trăm viên xá lợi nhiều màu rực rỡ. Bà dùng chuỗi niệm Phật, niệm đến xương đốt tay đều lõm xuống, đủ thấy sự thâm hậu trong công phu niệm Phật hằng ngày của bà.
Vô cùng cảm ơn sự thị hiện trong phút lâm chung đáng quý này của cư sĩ Tô khiến cho những người trợ niệm cảm nhận sâu sắc cái gọi là niệm Phật chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chính giác, từ bi. Sau khi trợ niệm xong, mọi người tràn đầy pháp hỷ, quên đi bao khó nhọc và cũng thể hội được rằng: Tuy pháp môn niệm Phật là pháp môn dễ tu hành trong tất cả pháp môn (chỉ cần nhất tâm niệm Phật A Di Đà), nhưng cũng không phải là dễ dàng như trong tưởng tượng (bình thường cũng phải đoạn ác, tu thiện, phát tâm Bồ Đề dụng công tu hành). Cuộc trợ niệm lần này kéo dài đến 5 giờ 30 phút sáng ngày mùng 2, mới cho người khác thay thế. Lúc hồi hướng, mọi người đều hài lòng vui vẻ, chúc mừng nơi Hải hội Liên trì lại có thêm một vị Bồ Tát bất thoái chuyển, cầu mong Bồ Tát Bành Tô Vân Liên sớm nương nguyện lực, trở lại Ta Bà nguyện độ chúng sinh.
         A Di Đà Phật!
                            Tháng 01 năm 2000, Học hội tông Tịnh Độ Tuyết Lê kính ghi
9. Bà Nguyễn Thị Nhật, pháp danh Diệu Minh một lần hộ niệm vãng sanh
Tôi là một Phật tử cư ngụ tại miền Đông Bắc nước Mỹ, tiểu bang Pennsylvania. Tiếng là Phật tử nhưng thật ra tôi chỉ mới chập chững bước vào cửa đạo. Tôi biết rất ít về Phật pháp. Nhưng có lẽ nhờ nhân duyên đặc biệt nào đó từ đời trước nên tôi tin tưởng hết lòng vào Pháp môn Tịnh độ. Còn nhớ lần đầu tiên khi mới bắt đầu tìm tòi học hỏi về Phật pháp đã gặp ngay Pháp môn này, tôi mừng còn hơn bắt được vàng, không gì có thể so sánh được với nỗi vui mừng của tôi lúc đó, không gì có thể đánh đổi được giá trị của Pháp môn Niệm Phật đối với tôi.
Tôi thầm nhủ: “Thì ra mình có thể thoát ly sanh tử ngay trong kiếp này, chứ không phải tu hành cả mấy tỉ tỉ kiếp mới có thể thành Phật như mình đã từng nghe từ trước và e ngại sẽ không làm được”. Kể từ đó, tôi miệt mài tìm hiểu về Pháp môn Niệm Phật, say mê nghe những bài giảng về pháp môn này và cố gắng thu thập tất cả những điểm trọng yếu trong phương pháp tu tập để biết phải làm thế nào mới được vãng sanh Cực Lạc. Tôi ao ước mình sẽ được vãng sanh và thiết tha mong ước tất cả mọi người đều biết tu theo pháp môn này để tất cả đều được vãng sanh Cực Lạc. Tôi được nghe về phương pháp hộ niệm qua sách vở và băng dĩa, nhưng chưa bao giờ chứng kiến tận mắt. Vì thế, tôi thầm mong mỏi có một dịp nào đó mình sẽ được hộ niệm cho một người nào đó để họ được vãng sanh. Nhưng ở vùng này hình như không ai muốn chúng tôi hộ niệm trong lúc sắp lâm chung mà chỉ mời Ni sư đến sau khi người thân đã qua đời và chúng tôi chỉ được cơ hội đó theo quí Sư cô đi tụng niệm mà thôi. Cho đến một hôm.
Ni Sư cho biết là có một bà cụ đang nằm bịnh viện, bịnh trạng cũng khá  trầm trọng và gia đình cho phép chúng tôi đến niệm Phật cho cụ. Chúng tôi mừng khấp khởi, vội vào bịnh viện thăm cụ và cùng với quí Sư cô niệm Phật cho cụ. Bà cụ lúc mê lúc tỉnh. Lúc mê thì nằm liệt ra không biết gì cả, khuôn mặt nặng nề trì xuống một cách méo mó và một con mắt thì bị xệ hẳn xuống; lúc tỉnh thì không nói được nhưng đau đớn rên rĩ, vung tay thật mạnh lên khỏi đầu như không còn chịu đựng nổi cơn đau. Nhìn cụ tôi thấy lòng xót xa, thương vô cùng nhưng không biết phải làm sao để giúp cụ, chỉ còn cách niệm Phật để cụ bớt đau. Vì mong ước được niệm Phật cho cụ vãng sanh nên tôi lo lắng đủ điều: tôi lo rằng nếu cụ mất trong bịnh viện thì chúng tôi sẽ không được phép niệm Phật cho cụ như ở nhà, và như vậy thì khó mà giúp cụ về Tây phương Cực Lạc được. Tôi cứ thầm nói với cụ: “Cụ ơi!  Cụ khoan chết nghe, cụ rán đợi cho đến lúc bác sĩ “chê” cho cụ về nhà rồi cụ hẳn chết, để chúng con có thể niệm Phật cho cụ suốt ngày đêm để cầu cho cụ được vãng sanh Cực Lạc”. Vào bịnh viện thăm cụ được vài ngày thì có một ngày cụ tỉnh lại, và cụ đã cố gắng nhép miệng niệm Phật theo chúng tôi. Cụ muốn chúng tôi niệm Phật cho cụ, chúng tôi rất mừng và khuyên cụ cố gắng niệm theo hay nghe chúng tôi niệm cũng được. Vài ngày sau, tức là ngày 10 tháng 11 năm 2008, cụ được xuất viện và về đến nhà vào buổi chiều, chúng tôi định bắt đầu từ ngày hôm sau đến nhà niệm Phật cho cụ mỗi ngày 1-2 tiếng đồng hồ. Nhưng vào khoảng 8 giờ tối hôm ấy, Ni sư gọi chúng tôi  bảo rằng cụ đang hấp hối. Chúng tôi vội vã lên đường.
Lúc chúng tôi bước vào nhà thì cụ đã ra đi được một tiếng đồng hồ. Quí Sư cô đang ngồi  bên cạnh giường niệm Phật cho cụ. Đôi mắt cụ nhắm nghiền, khuôn mặt cụ từ mắt trở xuống trông vàng nhợt nhạt, màu vàng của một cái thể xác không còn sinh khí. Vầng trán thì màu sậm hơn một tí, nhưng cũng khô khan một màu của người chết. Hai vành môi của cụ thâm đen và hở cách khoảng nhau gần bằng 1 inch. Cổ bên trái của cụ có một vết bầm đen và bầm đỏ lớn khoảng bằng bàn tay. Chúng tôi ngồi xuống sau lưng  quí Sư cô niệm Phật cho cụ. Chúng tôi hẹn nhau quyết định sẽ thức trắng đêm nay niệm Phật cho cụ suốt tám tiếng đồng hồ cho đến khi nhà quàng đến mới thôi. Chúng tôi thành tâm và tha thiết niệm Phật:  cái tâm thành của một tấm lòng vì người khác mà hết lòng hết sức niệm để mong cho người được vãng sanh, mong cho tiếng niệm và tấm chân tình của mình thấu đến tâm từ bi của đức Phật A Di Đà để được sự cảm ứng; cái tha thiết của một tấm lòng mong cho người người được vãng sanh để cho người người được giải thoát, để cho cõi Ta Bà này bớt đau khổ, để cho mọi người sớm thành Bồ Tát, thành Phật rồi trở lại độ tất cả chúng sanh. Tôi thầm nguyện cầu đức Phật A Di Đà đại từ đại bi hiểu thấu lòng thành của chúng tôi mà phóng hào quang đến tiếp dẫn cụ về Cực Lạc.
Đêm đã về khuya, chúng tôi vẫn tiếp tục niệm, con cháu của cụ cũng đã tham gia niệm Phật với chúng tôi tự nãy giờ nên sự trợ niệm của chúng tôi mạnh hơn. Chốc chốc anh trưởng ban lại ghé vào tai cụ nhắc nhở cụ niệm Phật và nhất là khẩn cầu đức Phật A Di Đà đến tiếp dẫn. Chúng tôi cứ kiên trì và thành tâm niệm, niệm hoài niệm mãi không ngừng dù chỉ một giây, khi thật lớn tiếng, khi thì vừa vừa, khi nhanh khi chậm. Sau khoảng hơn hai tiếng đồng hồ thì thấy màu môi của cụ đã bớt thâm đen. Rồi một lúc sau màu vàng nhợt nhạt của phần dưới khuôn mặt từ từ thay đổi giống như màu da của một người sống, còn màu sậm của vầng trán thì từ từ nhạt dần để phù hợp với màu da của phần dưới khuôn mặt cho đến khi cả khuôn mặt cùng có một màu giống như người bình thường. Đôi mắt của cụ nhắm lại thẳng hàng với nhau và khép một cách nhẹ nhàng, thoải mái như đang ngủ chứ không phải bị sưng và bị xệ hẳn xuống một bên như lúc nằm trong bịnh viện. Hai vành môi của cụ nhạt dần màu thâm đen và từ từ khép gần lại, mỗi lúc một chút, thật ít đến độ mình không thấy rõ khép gần lại bao nhiêu, nhưng lại thấy rõ sự thay đổi khép lại mới thật là lạ. Vết bầm đen và đỏ ở cổ cũng đã phai nhạt đi phần nào. Trong vòng hai đến bốn tiếng đồng hồ thì sự thay đổi rất là chậm. Từ bốn đến sáu tiếng đồng hồ thì sự thay đổi nhanh hơn một chút. Khoảng sau bảy tiếng đồng hồ thì làn da trên má của cụ bắt đầu mơn mởn ra và hơi săn lại. Vết bầm ở cổ đã nhạt đi rất nhiều. Còn đôi môi? Đôi môi cụ đã khép kín lại, không những khép kín lại thôi mà còn như đang mỉm cười. Nụ cười thật nhẹ nhàng, thoải mái, hoan hỉ. Nét mặt của cụ thật an lạc. Tôi ngồi mà nhìn ngang cũng thấy cụ đang mỉm cười, đứng dậy để nhìn thẳng vào mặt cụ cũng thấy cụ đang cười mỉm, rõ ràng là một nụ cười mỉm thật nhẹ nhàng, kín đáo, thanh thoát, đẹp không thể tưởng tượng, nụ cười mỉm chỉ đủ cho thấy cụ đang mỉm cười nhưng hai vành môi vẫn khép kín, đủ để thấy hai má lún đồng tiền của cụ. Các con của cụ bảo nhau: “Lạ quá!  Sao bây giờ mẹ đẹp hơn cả lúc còn sống!”.
    Chúng tôi vẫn niệm đều đều không ngừng nghỉ từ lúc bắt đầu cho đến bây giờ là đã gần 5 giờ sáng. Tự nhiên, anh trưởng ban của chúng tôi đang niệm đều đều bất ngờ thay đổi tốc độ và cường độ, niệm ào ào như vũ bảo và thật lớn tiếng. Chúng tôi cũng niệm theo như vậy nhưng tôi không hiểu tại sao và thầm thắc mắc: “Không biết ông này ổng thấy cái gì mà tự nhiên ổng làm ào ào như vậy”. Ngay lúc đó anh ấy thúc vào tay tôi bảo: “Giờ linh thiêng, niệm mạnh lên!”. Tôi sực nhớ lại, đúng rồi, từ 3 đến 5 giờ sáng là giờ linh thiêng. Tôi liền dùng hết sức, niệm nhanh và thật lớn tiếng với tất cả tâm thành, cả nhóm cũng làm theo. Tiếng niệm của chúng tôi sang sảng vang vang làm chấn động cả bầu không khí tĩnh mịch, ào ào như thác đổ, và hùng dũng như bất chấp mọi trở ngại. Chúng tôi niệm như vậy có lẽ khoảng hơn một tiếng đồng hồ thì nhà quàng đến. Thăm dò điểm nóng thì thấy hơi nóng xuất ra từ đỉnh đầu của cụ nên chúng tôi càng phấn chấn hơn, niệm liên tục không ngừng nghỉ cho đến giờ phút cuối. Lúc ấy tôi nhìn lại thì thấy vết bầm ở trên cổ của cụ đã nhạt mất đến khoảng 95% so với lúc đầu. Sau khi mọi việc đã xong xuôi, anh trưởng ban mới kể rằng lúc nảy anh đang niệm đều đều và cảm thấy như sắp ngủ gục thì tự nhiên hai tay anh run bần bật và có một sức mạnh nào đó từ trong tâm của anh thúc đẩy anh phải niệm thật hùng dũng và thật lớn tiếng như vậy.
Nhân viên nhà quàng người Mỹ chỉ cử một người đến nên anh trưởng ban của chúng tôi phải phụ một tay khiêng cụ chuyển sang giường khác. Lúc ấy cơ thể của cụ vẫn còn mềm mại đến độ ông nhân viên ấy hỏi anh trưởng ban rằng đã chết bao lâu mà sao cơ thể còn mềm như vậy. Anh này bảo đã 9 tiếng rưỡi đồng hồ, ông ấy ngạc nhiên bảo là chuyện lạ mà ông chưa từng thấy bao giờ.
Vào ngày hỏa táng, tôi cầm một cánh hoa hồng màu tím nhạt đến trước mặt cụ, khấn rằng: “Thưa cụ, con biết chắc rằng cụ đã được vãng sanh, con xin phép được dâng cụ đóa hoa hồng này, xin cụ ban cho một kỳ tích nào đó để cho mọi người thấy mà tăng thêm lòng tin, phát tâm tinh tấn tu theo pháp môn niệm Phật và cầu vãng sanh để mọi người đều được Vãng Sanh Cực Lạc”. Khấn xong tôi nhẹ nhàng để đóa hoa hồng trên ngực của cụ chỗ gần cánh tay phải và sau đó nắp quan tài được đóng lại.
Sau khi hỏa thiêu, con cháu của cụ tìm được một số xương còn lưu lại, ngoài ra còn có đóa hoa hồng của tôi. Hoa vẫn còn giữ được màu sắc xanh của đài hoa, còn màu tím nhạt của cánh hoa thì bây giờ trở thành một màu tím tươi thắm hơn vì đóa hoa được ép nhỏ lại một cách cẩn thận, chỉ bằng một lóng của ngón tay út, dày khoảng 2 ly dưới hình dạng của một búp hồng mới hé mở để chỉ đủ cho thấy màu sắc tươi đẹp của cánh hoa bên trong. Hoa rất xinh, đẹp và cũng cứng như xá lợi. Nhiệt độ của lò thiêu nóng khoảng 3000 độ F, thế mà đóa hoa tươi mềm mại và mong manh của tôi, mặc dù rất dễ dàng bi tan vỡ trước một cơn gió thổi, nhưng lại không bị thiêu rụi thành tro mà còn giữ được hình dáng và màu sắc.
Ôi!  PHÁP PHẬT NHIỆM MẦU KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN!  Chỉ có những ai tự mình uống nước thì mới biết được nước nóng hay lạnh. Hào quang của Phật tỏa chiếu khắp mười phương, tâm từ bi của Phật bao trùm cả vũ trụ, chỉ cần chúng ta biết Thức Tỉnh, Tu Tập và Quay Về.
Cực Lạc Tây Phương quê hương còn đó,
Sao dại khờ nở hờ hửng quay lưng?
Di Đà đợi Từ Bi Tâm rộng mở,
Hào quang nương ta mau trở về Nguồn.
Giờ phút cuối xin được Ngài tiếp dẫn,
Dưới chân Ngài nguyện hết dạ tu hành.
Một ngày kia khi ước nguyện đã thành,
Ta Bà khổ ta xin hết lòng Độ.
Bằng tất cả tâm thành, tôi đã kể lại những điều tôi được chứng kiến tận mắt từ đầu đến cuối trong cuộc vãng sanh của cụ bà Nguyễn thị Nhật, pháp danh Diệu Minh, 86 tuổi, tại Telford, Pennsylvania – USA.
A Di Đà Phật!  Con xin thành tâm cúng dường công đức này đến tất cả tam thế thập phương chư Phật, chư Bồ Tát, chư Hiền, Thánh, Tăng, nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho tất cả chúng sanh đều biết tu theo pháp môn Tịnh Độ và được vãng sanh Tây Phương Cực Lạc.
Vài dòng về tiểu sử của cụ bà Nguyễn Thị Nhật, pháp danh Diệu Minh:
Cụ sinh năm 1923 tại Hà Đông Việt Nam, mất ngày 10 tháng 11 năm 2008 tại Telford, tiểu bang Pennsylvania, Hoa Kỳ, hưởng thọ 86 tuổi
Sinh thời cụ là một người rất hiền lương, làm nghề buôn bán hàng vải. Cụ góa bụa từ năm 52 tuổi, một mình tần tảo nuôi chín đứa con cho đến ngày khôn lớn.
Cụ rất thành tâm và có lòng tin sâu đối với Phật pháp. Lúc còn ở quê nhà, cụ đi chùa lễ bái và dự những chuyến hành hương, nếu chùa chiền nào cần sự giúp đỡ, cụ lúc nào cũng sẵn sàng. Tâm từ thiện và lòng bố thí rất cao: bằng tiền tài, thực phẩm, quần áo... cụ thường xuyên giúp đỡ cô nhi viện của chùa và những người nghèo khổ. Ngay cả sau năm 1975, mặc dù gia đình đã suy sụp nhưng cụ vẫn tìm cách giúp đỡ những người khốn khổ, hoạn nạn hơn mình. Ở Mỹ, những ngày lễ chùa không bao giờ vắng mặt cụ. Và lúc nào đến chùa, dù bận cách mấy, cụ cũng rán tìm cho được Sư cô để ân cần dặn Sư cô là lúc nào cụ ra đi thì xin niệm Phật và tụng kinh cho cụ thật nhiều. Ở nhà, cụ niệm Phật theo thời khóa và hết lòng cầu vãng sanh Cực Lạc.
Cụ mất đi làm cho con cháu vô cùng thương tiếc, nhưng cụ đã được vãng sanh Tây phương Cực Lạc, để lại một tấm gương sáng cho mọi người và con cháu, khiến họ phát khởi lòng tin sâu đậm vào pháp môn Tịnh Độ mà tinh tấn tu tập để tất cả đều được vãng sanh Cực Lạc.
11/27/08 Phật tử Chủng Hải
10. Chuyện Mèo Bobo Sandy Lin vãng sanh,  Báo Vajra Bodhi Sea số tháng 8, 2006, trang 32-34
Con mèo quí Bobo của tôi, tôi mua nó vào năm 1990, lúc đó tôi chưa học Phât pháp. Trước khi mua Bobo, tôi chẳng thích gì mấy con thú vật, nhưng vì tôi rất thương Bobo nên coi nó chẳng khác gì đứa con gái của tôi.
Năm 1993 do một nhân duyên hiếm có, tôi quy y Sư phụ Thượng Nhân, trở thành tín đồ Phật giáo, và dần dần tôi hiểu được giáo nghĩa của đạo Phật. Tôi bắt đầu biết đến thế nào là “Lục Đạo Luân Hồi” và cũng biết được sự đau khổ của con đường súc sinh, nên tôi cố tìm mọi biện pháp để có thể giúp cho Bobo trong tương lai được thoát khỏi con đường súc sinh.
Trời đã không phụ lòng kẻ thành tâm, vào ngày 1 tháng 5 năm 1993, với sự cố gắng của tôi cuối cùng Bobo đã được quy y “Tam Bảo”, trở thành một Phật tử mèo Pháp danh “Lâm Từ Ba.” Mùa xuân năm 1994, tôi có dịp may cùng với hai Đạo hữu đến bái kiến Thượng Nhân tại Burlingame. Tôi có bạch cùng sư phụ rằng tôi là người xin cho mèo được quy y vào lúc tôi quy y trước đây . Lúc đó sư phụ nói với tôi rằng chỉ cần tôi cố gắng tu hành, tôi có thể độ nó, nó không cần quy y với Ngài.
Sau khi Sư phụ Thượng Nhân nhập Niết Bàn, tôi có thỉnh rất nhiều băng khai thị và băng giảng kinh do Thượng Nhân thuyết giảng. Tôi bắt đầu cho Bobo cùng với tôi nghe kinh, và để Bobo trước bàn thờ Phật, trước pháp tượng của Thượng Nhân, cầu xin sám hối, đồng thời trong nhà thường xuyên mở máy niệm Phật, hy vọng Bobo có thể cố gắng theo máy niệm Phật mà niệm hồng danh Phật. Một hôm có một Đạo hữu đến nhà thăm viếng thấy Bobo, họ cũng cất tiếng chào bằng câu: “A Di Đà Phật!”. Bobo cũng ngẩng đầu lên hồi đáp bằng tiếng “mèo” “A Di Đà Phật!”
Sau khi Bobo được 10 tuổi, cứ khoảng 3 đến 4 tháng tôi lại đưa Bobo đi khám sức khỏe, vì 10 tuổi của mèo tương đương với 56 tuổi của người, sau đó mỗi năm của mèo bằng 4 năm tuổi của người. Khi tuổi Bobo dần dần già đi, tôi thường xuyên nhắc nhở nó cố gắng niệm Phật, lúc lâm chung mới có thể vãng sanh Tây phương Cực Lạc thế giới.
Đầu năm 2005, bản báo cáo sức khỏe của Bobo cho biết nó mắc bệnh thận suy mãn tính, tôi luôn luôn cảnh tỉnh Bobo là nhất định phải cố gắng niệm Phật.
Bây giờ hồi tưởng lại, hình như Bobo đã biết trước nó gần đến lúc vãng sanh; vào những lúc nửa đêm khi tôi thức dậy, đều thấy nó nhìn tôi chăm chú, nhất là vài tháng trước khi nó vãng sanh. Trong năm nay (2006) vào buổi sáng ngày 6 tháng Giêng, Bác sĩ Thú y gọi điên thoại đến bảo tôi 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét