cấp tốc làm thủ tục đưa Bobo vào bệnh viện thú y, vì
tình trạng bệnh thận của Bobo đã nặng hơn trước kia nhiều.
Trên đường đi đến bệnh viện thú y, tôi luôn luôn nhắc
nhở Bobo, nếu như nó không muốn lưu lại thế giới Ta bà nầy, nó có thể an tâm mà
ra đi, cũng đừng lưu luyến gì đến tôi, phải cố gắng niệm Phật cầu vãng sanh Tây
phương Tịnh độ. Tôi cũng yêu cầu bệnh viện thú y để máy niệm Phật kế bên Bobo;
như thế, bất cứ lúc nào Bobo cũng nghe được danh hiệu Phật. Bobo ở trong bệnh
viện thú y được hai ngày rưỡi, vào buổi trưa ngày 8, Bác sĩ đột nhiên gọi điện
thoại thông báo cho tôi biết, thận của Bobo mất chức năng, không thể bài tiết
nước tiểu, bệnh trạng rất nghiêm trọng. Bệnh thận của nó từ mãn tính trở thành
cấp tính, khó cứu vãn, Bác sĩ thú y đề nghị cho nó “chết an lạc” giúp nó giảm
bớt đau đớn; tôi không chút do dự liền từ chối ngay đề nghị của Bác sĩ, tôi lập
tức đến bệnh viện, làm thủ tục cho Bobo xuất viện, đưa Bobo về nhà.
Tôi ở bên cạnh Bobo, luôn nhắc nhở nó phải nên buông
xả tất cả, phải cố gắng niệm Phật, cầu sanh Tây phương Tịnh độ. Bobo về đến nhà
khoảng 6 giờ chiều ngày 8, và mất vào lúc 1 giờ 42 phút sáng ngày 9, ra đi rất
an lạc, hoàn toàn không có những tình trạng xảy ra như Bác sĩ thú y đã cảnh cáo
trước đây. Nó rất may mắn, tôi luôn luôn ngồi bên cạnh để trợ niệm cho nó; suốt
cuộc đời tôi, đây là lần đầu tiên, tận mắt thấy được sự sống chết vô thường từ
đầu đến cuối, trong tâm tôi hoàn toàn không có sự chuẩn bị, không thể dùng
những từ ngữ nào có thể hình dung nổi sự tiếc nuối và đau xót trong tâm tôi.
Trong đời tôi lúc này là lúc đau khổ nhất và vui mừng nhất: đau khổ nhất là
“sanh ly tử biệt”, mừng nhất là thấy Bobo được an lạc vãng sanh. Bobo hỏa táng vào
sáng ngày 19 tháng Giêng năm 2006. Ngạc nhiên nhất là sau khi hỏa táng có rất
nhiều xá lợi lưu lại, điều này cũng cho ta thấy được sự từ bi của Phật Bồ Tát.
Không riêng gì con người hay súc sanh, chỉ cần ta có lòng thành tâm niệm Phật,
A Di Đà Phật nhất định sẽ đến nghinh tiếp ta.
Phật tử Mèo Lâm Từ Ba, kiếp nầy may mắn biết bao, tuy
là súc sanh nhưng được Sư phụ, một vị cao tăng đại đức khai thị và giáo hóa,
rốt cuộc làm cho nó phát đại bồ đề tâm và tinh tấn niệm Phật.
Do câu chuyện này mà tôi cũng đươc học hỏi thêm: chúng
ta phải biết trân quý cuộc đời ngắn ngủi của chúng ta, và lúc nào cũng đừng
quên tinh tấn dụng công tu hành. Nguyện rằng câu chuyện này sẽ giúp cho tất cả
mọi người cùng tinh tấn tu hành.
Có một câu chuyện khác về mèo biết niệm Phật, nhưng
làm sao để có bằng cớ là câu chuyện đó có thật hay không? Sau khi mèo mất, được
chôn ở vườn sau của chùa, mặc dầu gần đó không ao nước gì cả, nhưng trên mộ nhỏ
của mèo lại mọc lên một đóa hoa sen. Điều này cho thấy súc sanh cũng có Phật
tánh.
Câu chuyện này được tường thuật đầy đủ trên
Nguyệt San của chúng tôi - Vajra Bodhi
Sea - số 159, tháng 8 năm 1983, trang 10
Người tu pháp môn tịnh độ,
sau khi xã bỏ báo thân ở cõi Ta Bà, được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, hưởng
sự giải thoát an vui. Tuy nhiên không phải đợi đến khi vãng sanh mới được an
lạc giải thoát, mà ngay khi đang tu, đang ở cõi trần này cũng có được nhiều kết
quả lợi ích. Người niệm Phật hiện tại thân tâm an lạc, tiêu trừ phiền não, nghiệp
chướng, tội lỗi, bệnh tật, thoát khỏi nhiều sự nguy hiểm. Sau đây là những mẫu
chuyện chứng minh, trích dẫn trong quyển sách: “Những chuyện niệm Phật cảm ứng
mắt thấy tai nghe” của cư sĩ Lâm Khán Thị:
Mẹ của liên hữu Lý Thủy Cẩm là một vị thọ Bồ Tát giới
ở thư viện Từ Quang vào ngày 10 tháng 6 năm Dân Quốc thứ 49, mọi người đều gọi
bà là lão Bồ Tát. Bốn năm trước lúc bà 80 tuổi, ở dưới vú bên phải bỗng nhiên
nổi lên một cục thịt to bằng cái chén trung. Theo bác sĩ chẩn đoán là ung thư
gan, đã rất nguy kịch, hết phương cứu chữa, chẳng những dùng thuốc không hiệu
quả, mổ lại càng không được, chỉ có để bà muốn ăn gì thì cố mua cho bà ăn, thế
là tốt rồi! Tây y, Đông y đều nói như thế, không kê thuốc cũng không chích
thuốc, châm cứu gì cả! Cứ như thế nằm trên giường bệnh đau đớn triền miên suốt
6 tháng, nhờ vào đứa con trai tên là Nghĩa, là một cư sĩ và người con dâu chăm
sóc phục dịch kề bên; con gái là Thủy Cẩm cũng về nhà chuẩn bị hậu sự (đám tang).
Nhưng trong 6 tháng, lão Bồ Tát mỗi ngày hai thời sáng tối, bất luận thế nào
đều nhất định đứng dậy lạy Phật, dầu là đang trong cơn bệnh khổ, nằm trên
giường bệnh, miệng cũng không rời Thánh hiệu A Di Đà Phật. Vào khoảng đầu tuần
tháng Tám (từ mồng 1 đến mồng 10) bệnh trạng đã rất trầm trọng, thân thể không
thể cử động được, miệng không nói được! Một đêm kia, lúc bệnh trạng đang rất
nguy cấp bỗng nhiên thấy bà nói lẩm bẩm: “A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát …
các ngài viết chi nhiều chữ như thế, con một chữ cũng không biết! Các ngài sao
không nói thẳng với con có tốt hơn không?”. Ngưng lại một chút, lão Bồ Tát lại
nói tiếp: “Cảm ơn lòng từ bi của Phật rất nhiều, các ngài 10 giờ tối mai sẽ đến
giải phẫu cho con cắt bỏ đi cục thịt ở dưới ngực bên phải này, A Di Đà Phật,
Quán Thế Âm Bồ Tát, các ngài thật là từ bi quá!”. Những lời này đều là vợ chồng
A Nghĩa và vị liên hữu Thủy Cẩm tự tai nghe được, nhưng lúc đó lại cho là người
già trước lúc lâm chung, tinh thần rối loạn nói lung tung vậy thôi! Nhưng đến sáng
lão Bồ Tát liền kêu con, cháu đi chuẩn bị hương hoa quả phẩm, đặt một cái bàn
thờ trong phòng để tiếp đón Phật Bồ Tát đến trị bệnh. Thật là không thể nghĩ
bàn, vừa đợi đến 10 giờ, liền nghe tiếng khua của dao kéo… Đột nhiên nghe một
tiếng “sựt”, cục thịt ở dưới ngực bên phải đó bỗng bị cắt rời ra, máu chảy ra
đen như than, từng giọt từng giọt to bằng ngón tay cái, chảy ra rất nhiều. Từ
đêm đó trở đi, sức khỏe của bà mạnh khỏe dần dần, miệng của vết thương nơi cắt
cục thịt, nhờ con dâu hằng ngày dùng nước trà rửa, rửa không đến một tháng,
không cần thuốc gì mà khỏi bệnh.
Hiện nay lão Bồ Tát gặp người nào cũng liền khuyên
niệm A Di Đà Phật; xâu chuỗi từ nào đến giờ chưa từng rời tay. Năm nay dù đã
tám mươi bốn tuổi nhưng sức khỏe còn mạnh hơn người thường. Giữa Đài Trung và
Minh Tú thường đi đi về về tinh thần sung mãn khác thường. Phật vốn là đại Y
Vương, ngoại khoa đại phẫu thuật của Phật, Bồ Tát là trị muôn người lành muôn
người, nhưng điều quan trọng là chỉ hỏi nơi bạn là có đúng “nhất tâm niệm Phật”
hay không? Độc giả nếu không tin, lão Bồ Tát đến nay vẫn còn mạnh khỏe, nếu
không ngại xin mời đích thân đến thăm một lần. Bà cụ già rồi, đã không vì danh
cũng không mưu lợi, cần gì phải dựng ra câu chuyện này để lừa gạt người?
Nhân duyên hoằng pháp của Liên xã Đài Trung đến miền
Đông, khởi đầu từ đại hội diễn giảng của liên xã Đài Trung nhân dịp tân xuân
năm Dân Quốc thứ 43. Trong thính chúng có vị nữ sĩ Hồng Lâm Trản liên tục năm
ngày nghe giảng. Từ Đài Đông xa xôi đến đây, thời gian ở Đài Trung, bà ta ở cửa
hàng bách hóa Vĩnh Phong, được sự chiêu đãi chân thành của Hoàng Hỏa Triều cư
sĩ Ký phu nhân Nguyễn Miến. Lúc bấy giờ nữ sĩ Lâm Trản rất xanh xao, vàng vọt,
trên cổ đeo một sợi dải băng, chốc chốc lại ho, bà ta hỏi Hoàng phu nhân: Ở Đài
Trung có bác sĩ giỏi không, dẫn bà ta đi xem bệnh. Ở Đài Đông bà đã từng đi rọi
X quang nghe nói là phổi bên trái có ba lỗ. Mấy tháng nay uống cả ký Cao ly sâm
chính hiệu và chích hơn một trăm mũi thuốc, đều không thấy hiệu quả!
Lúc đó là khoảng 5 giờ chiều, nhà họ Hoàng là một gia
đình Phật tử thuần thành, hai thời khóa sớm tối từ nào tới giờ chưa từng gián
đoạn, bà Hoàng phu nhân Nguyễn Miến mời bà Trản đến bàn thờ lạy Phật, còn lấy
một xâu chuỗi, chỉ cho bà ta phương pháp niệm Phật và nói rõ về đạo lý trị hết
được muôn bệnh của môn thuốc A Già Đà này cho bà ta nghe. Khóa tụng xong còn
cầu nguyện xin một ly nước chú đại bi cho bà ta uống. Sau buổi cơm tối bà Miến
liền nói: “Chị Trản à, chị thật là có phước, bắt đầu từ tối nay, Liên xã của chúng
tôi liên tiếp giảng pháp năm ngày”. Tối đó liền dẫn bà ta đi nghe giảng. Thật
là không thể nghĩ bàn, đêm đó bà Trản suốt một giờ không ho một tiếng nào, khi
ngủ, ngủ thẳng đến sáng. Bà Trản cảm thấy Phật pháp thật là lý thú, ở nhà họ
Hoàng ban ngày chí tâm niệm Phật, đến tối đi nghe giảng, liên tục năm ngày, một
phần khái luợc về Phật pháp sơ cơ đã hiểu được đôi chút, tinh thần đã có chỗ
nương tựa, sức khỏe cũng tốt rất nhiều. Bà than thở: “Người ở Đài Trung rất là
có phước, người Đài Đông chúng tôi chưa từng được nghe qua chánh pháp sâu sắc
như thế này!”. Bà Miến đáp lại: “Chị hiện nay đã hiểu rõ được cái hay của việc
tin Phật, niệm Phật, chị nên phát Bồ đề tâm, thỉnh nhân viên hoằng pháp của
Liên xã đến nơi của chị hoằng dương Phật pháp, khiến những chúng sanh có duyên
cũng được lợi ích, thì công đức của chị thật là vô lượng!”. Bà Trản nghe xong,
vui mừng nhận lời, nói: “Được! Vậy thì nhờ chị thỉnh dùm. Tiền xe hay tiền máy
bay đi lại, tôi chịu hết, nhưng chị cũng phải cùng đi tới chỗ tôi chơi mới được”.
Giao thông từ 14 năm về trước không tiện lợi như ngày
nay, đi Đài Đông chỉ một ngày là đến rồi. Lúc bấy giờ phải mất hai ngày, phải
ngủ một đêm ở Cao Hùng. Cuối cùng một đoàn ba nguời: bà Trản, bà Miến cùng với
Pháp Viên. Khi ngủ lại phòng trọ ở Cao Hùng, thì xảy ra việc linh cảm Phật, Bồ
Tát phò hộ. Nguyên là trên chân của Pháp Viên có cái mụt nhọt, đã từng trị liệu
hơn một tháng, bị lầy rữa ra hai tấc, chung quanh không còn cảm giác đau nữa.
Lúc bấy giờ vì nhiệt tình, quên đi cái mụt nhọt trên chân, nhưng đến phòng trọ
ở Cao Hùng, phát đau đến mức không chịu nổi, bà chủ phòng trọ nhìn thấy chân
của khách đau ghê gớm như thế, liền giới thiệu nói, ở vùng này có một loại
thuốc mỡ cỏ xanh tinh luyện rất hay, có thể trị được bệnh này, liền nhờ người
mua hai hoàn. Vừa thoa vào, thật là loại thuốc có công hiệu đặc biệt: hết đau,
nuôi thịt, sanh da, ba phần đều tốt, sáng hôm sau khỏi được phân nửa, ba ngày
sau khỏi hẳn. Đây đều là sự linh cảm của Phật, Bồ Tát từ bi đặc biệt gia hộ,
thật là thuốc đến bệnh tiêu, nếu không thì đi không được rồi.
Pháp Viên giảng năm ngày tại chùa Hải Sơn ở Đài Đông.
Ngày viên mãn, những người nghe và người giảng sắp sửa chia tay, cái lúc lưu
luyến không rời, bỗng nhiên có một bà lão khoảng hơn sáu mươi tuổi đến, đưa ra
một câu hỏi: “Những điều của cô giảng đều là những đạo lý giải thoát sanh tử
luân hồi, cho đến cải ác hướng thiện, thay đổi tâm tánh. Nhưng bây giờ yêu cầu
tiêu trừ bệnh hoạn, giải quyết những đau khổ, thì lại phải cầu pháp như thế
nào? Cô có thể từ bi chỉ bày cho được không?”.
Pháp Viên lúc đó nhìn xem bà lão
này trên cổ có một cái nhọt lớn cổ áo cài lại không được, hở ra khoảng năm sáu
tấc, Pháp Viên suy nghĩ người ngày ắt là muốn cầu phương pháp tiêu trừ bệnh
nhọt của bà ta, lúc đó thiệt là tiến thối lưỡng nan, nếu như bảo bà ta cầu
Phật, Bồ Tát gia bị, cái nhọt lớn trên cổ sẽ hết, chưa chắc nắm chắc được
không? Nếu như không bảo bà ta cầu, nhưng mà đã phô trương Phật pháp vô biên
năm ngày rồi, có cảm ứng không thể nghĩ bàn, chung quanh lại có đông người đang
chờ nghe, Pháp Viên nhứt thời phải dùng phương tiện khéo léo đáp rằng: “Nếu như
yêu cầu tự mình hoặc là người khác tiêu tai thoát nạn, hết bệnh khổ v.v… nhất
định phải sớm tối tụng niệm một quyển kinh A Di Đà, bảy biến chú vãng sanh, vài
trăm câu Thánh hiệu A Di Đà Phật, hoặc vài ngàn câu, vài muôn câu càng tốt; nếu
như người không biết tụng kinh A Di Đà, thì chỉ niệm Thánh hiệu A Di Đà Phật
cũng được, nhưng nhứt định phải tụng bài Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung…
sau đó có yêu cầu điều gì thì lại dùng tâm chí thành, niệm Thánh hiệu Quan Thế
Âm Bồ Tát và gia trì nước chú Đại bi cho uống, nếu thọ mạng ở đời chưa dứt, thì
có thể giảm nhẹ đau khổ của bệnh tật; còn nếu thọ mạng ở đời sắp hết, thì nhờ
sức công đức của khóa tụng niệm Phật được vãng sanh Tây phương, như thế thì
được mãi mãi thoát ly bệnh khổ và tử khổ. Đây là phương pháp rốt ráo vậy”.
Ngày tháng như thoi đưa, thời gian như tên bay, thoáng
một cái đã một năm trôi qua, Lâm Trản ở Đài Đông lại đến Liên xã, lần này sắc
mặt tươi rói vui vẻ, so với năm ngoái như là hai người, bệnh chứng của bà ta đã
dứt hẳn không còn thấy tăm hơi gì nữa, trọng lượng thân thể cũng tăng hơn mười
kí, y phục toàn là đồ mới may, đồ cũ không còn cái nào mặc vừa nữa, bà ta nói
với Pháp Viên rằng: “Thưa bậc nhân sĩ của Đài Đông, mọi người đều yêu cầu tôi
đến mời bà đến Đài Đông giảng diễn Phật pháp lần nữa, không những tôi niệm Phật
được cảm ứng, mà còn bà Phổ Ái Cô, trên cổ có mụt nhọt to, bà dạy bà ta phương
pháp niệm Phật và thời khóa tụng niệm, về sau lại xin nước Đại Bi chú uống, bà
ta ngày ngày đúng như pháp mà làm, cái mụt nhọt to của bà ta đã hết hẳn, cổ áo
cũng đã cài lại được rồi, ai thấy cũng đều khen là “kỳ diệu”.
Bà Trản lại nói tiếp: “Không những mụt nhọt to của Phổ
Ái Cô tiêu trừ, được cảm ứng, cái việc càng khiến cho người khó tin hơn nữa
chính là việc con dâu của Phổ Ái Cô, cô ta ở trên núi vùng phụ cận của Đài
Đông, đã có mang mười tháng, người phụ nữ này rất là siêng năng làm lụng, tự
nghĩ sắp tới ngày sanh nở rồi, trong ngoài cần phải dọn dẹp cho sạch sẽ, cả
phân trong chuồng heo cũng gánh hết mấy gánh, không ngờ từ hôm đó thai nhi ở
trong bụng không còn động đậy nữa, hỏi thăm những người lớn ở trên núi, người
ta nói là lúc quét dọn làm sạch chuồng heo động thổ, động đến thai khí, đến
ngày thứ ba vẫn không động đậy gì, người phụ nữ mang thai này, sáng sớm đã
xuống núi đến tìm mẹ chồng cô ta, Phổ Ái Cô lại không có ở nhà, cô ta tự đi đến
khoa phụ sản để khám, bác sĩ phụ sản nói: “Thai nhi ở trong bụng của cô chết đã
ba ngày rồi, tự mình sanh không phải là việc dễ, ắt phải dùng đến khí cụ cắt
thai nhi ra từng miếng, từng miếng lấy ra, hoặc là phải phẫu thuật mới đem thai
nhi chết ra được. Ngoài ra không còn cách nào khác”.
Người phụ nữ mang thai đắn đo suy nghĩ, việc phẫu thuật
lấy thai nhi ra không phải là việc nhỏ, không có mẹ chồng hay chồng cho phép,
cô không dám chủ động, liền trở về trên núi, lại trải qua bốn ngày nữa, thai
nhi trong bụng vẫn không có động đậy gì, cô ta lại xuống núi lần nữa tìm mẹ
chồng: Phổ Ái Cô, nói rõ việc thai nhi bất động đã bảy ngày rồi, Phổ Ái Cô liền
dẫn con dâu đến một bác sĩ phụ khoa khác khám. Vị bác sĩ này cũng chẩn đoán y
như vị bác sĩ trước, nói thai đã chết trong bụng bảy ngày rồi, không cắt thai
nhi ra từng miếng từng miếng lấy ra, hoặc phẫu thuật thì không được! Phổ Ái Cô
dẫn con dâu đi về, quỳ trước bàn Phật, thắp hương đốt đèn dạy con dâu xưng niệm
Quán Thế Âm Bồ Tát, bà ta bắt đầu tụng kinh. Sau đó niệm một ly nước chú đại
bi, bảo con dâu uống và phải chí tâm cầu xin Phật, Bồ Tát phò hộ, hy vọng tử
thai trong bụng con dâu sanh ra được cách tự nhiên, không phải đau đớn, phiền
phức vì mổ xẻ, lúc đó mặt trời cũng đã lặn rồi, Phổ Ái Cô liền giữ con dâu ở
lại ngủ với bà không phải về núi. Đang ngủ nửa đêm con dâu bà kêu mẹ chồng nói:
“Thai nhi trong bụng động đậy lại rồi”. Mẹ chồng cô ta đáp lại cô ta rằng:
“Chắc là Phật, Bồ Tát phò hộ, tử thai sắp sanh ra đấy”. Đến sáng, thai nhi của
người phụ nữ mang thai này đã động đậy bình thường như trước, sức khỏe cũng
khỏe khoắn nhiều, không còn chút gì khó chịu nữa, liền lại trở về trên núi, lại
trải qua một tuần lễ, người phụ nữ mang thai này sanh ra một bé trai rất là
thuận lợi, mẹ con đều bình an vô sự. Hồng Lâm Trản đến Liên xã nói ra việc này,
thật là một sự linh cảm kỳ dị, rất nhiều người nghe, chắt lưỡi khen là kỳ lạ
mãi không thôi.
Chuyện trên là câu chuyện thật
của bà vợ cư sĩ Trần Phi Lâm niệm Phật được cảm ứng, bây giờ lại nói một chuyện
nữa: chuyện cảm ứng của cháu gái Trần Phi Lâm. Cô cháu họ này mới đầu cũng
không tin Phật và cực lực phản đối lòng thành tin Phật của ông chú. Nhưng Trần
cư sĩ rất từ bi, hễ gặp mặt là khuyên cô ta niệm Phật, giảng cho cô ta nghe về
đời người ở thế gian khổ nhiều, vui ít, tai nạn nhiều, nghịch cảnh nhiều, phiền
não nhiều, muốn lìa khổ được vui cần phải niệm A Di Đà Phật, lúc nguy cấp, sợ
hãi càng phải cố sức niệm A Di Đà Phật. Nhưng cô cháu của ông cũng chỉ như đàn
khảy tai trâu, không chịu nghe theo!
Mười mấy năm về trước, cháu gái của Trần Phi Lâm muốn
dời nhà đến Hoa Liên kinh doanh buôn bán, cư sĩ Phi Lâm liền thỉnh tượng Tây
phương Tam Thánh, lộng kiếng, tự mình đem đến bến xe Đài Đông cho cô ta. Lúc
chia tay ông còn ân cần dặn đi dặn lại cô cháu phải chí tâm thành ý niệm A Di
Đà Phật. Cô cháu họ Trần sau khi dời đến ở Hoa Liên kinh doanh buôn bán rất
tốt, có một hôm do việc làm ăn cô đi vào làng, đến nửa đêm mới cỡi xe đạp về
nhà, đi qua một con kênh bên đường lúc không để ý cả người lẫn xe đồng rơi
xuống con kênh. Con kênh này chỉ sâu hơn người một chút mà thôi, tự mình rất dễ
leo lên. Lúc đó cô cháu họ Trần phủi bụi đất trên mình, rồi xem lại tứ chi,
không có bị thương chút nào hết, liền lo kéo chiếc xe đạp lên, lúc muốn kéo lên
đó, lại rất kỳ quái, phía sau dường như có người kéo xe trở xuống. Cứ thế, hễ
muốn kéo lên lại bị kéo trở xuống mấy lần. Lúc đó cô cháu họ Trần sợ đến nỗi
lông tóc dựng đứng, sợ đến nỗi hồn bất phụ thể. Vào lúc tiến thối lưỡng nan,
không có cách nào, liền nhớ đến việc ông chú ở Đài Đông thường dạy cô niệm A Di
Đà Phật, khi gặp lúc tai nạn nguy cấp càng phải to tiếng niệm Phật. Cô cháu họ
Trần liền chắp hai tay lại, cố sức to tiếng niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Thành
tâm thành ý niệm được khoảng nửa tiếng đồng hồ thân tâm cảm thấy an nhiên, tâm
sợ hãi đã không còn nữa. Bỗng nhiên trên đường có một chiếc xe ba bánh chạy
đến, người đánh xe đến trước mặt cô cháu họ Trần, liền thắng xe lại, không nói
một tiếng nào, liền kéo chiếc xe đạp lên, lại mời cô cháu họ Trần lên xe ba
bánh, đưa xe đạp đặt lên trên xe ba bánh, người đánh xe liền chở cả cô cháu họ
Trần lẫn xe đạp về đến cổng nhà của cô.
Cô cháu họ Trần trong lòng rất cảm tạ người đánh xe
trẻ tuổi mạnh khỏe nầy, sau khi xuống xe, muốn lấy tiền nhiều một chút cho anh
ta, nhưng lúc quay đầu lại thì không biết đã đi đâu mất rồi! Lúc đó đã là nửa đêm,
cũng không biết tìm ở đâu. Qua ngày hôm sau, sáng sớm cô vẫn cứ nhớ cái ân của
người đánh xe ba bánh, muốn đưa tiền cho anh ta, liền đến bãi xe ba bánh tìm
trong mấy người phu xe, hỏi tới hỏi lui cả ngày, mọi người đều nói tối hôm qua
không có ai chở cả người lẫn xe ở đó. Sau đó cô liền nghĩ lại sự cảm ứng lúc
đang nguy cấp cố sức niệm A Di Đà Phật mới có sự hóa hiện xe ba bánh đến cứu
mình. Cô ta lại nhớ đến tượng Phật của ông chú đưa cho ở bến xe Đài Đông, liền
về nhà lục tìm xem, chỉ thấy tướng hảo trang nghiêm của Phật A Di Đà rất giống
với phước tướng của anh phu xe ba bánh. Lập tức treo lên, rất là cung kính mua
về hương hoa quả phẩm, đèn cầy để cúng dường lễ bái. Lại nhớ đến tinh thần từ
bi của ông chú, đích thật là ân sâu như biển, liền từ Hoa Liên đi về Đài Đông
đến chú Trần Phi Lâm nói ra việc cảm ứng này. Câu chuyện trên đây là do chính
miệng Trần cư sĩ nói với tôi.
Vị lão sư tỷ Thường Nga này còn có một người con gái
lớn tên là Nhung, mọi người đều gọi cô là A Nhung, năm nay 43 tuổi, chồng cô là
kỹ sư xây dựng, nhà ở Đài Đông. Cô A Nhung này từ lúc trẻ đã bị chứng bao tử
thòng, thầy thuốc Đông Tây trị hàng chục năm; những phương pháp bí mật hay
những loại thuốc đặc trị đều không hiệu quả, bệnh mãi đã đến gầy như que củi.
Năm năm trước sư tỷ Thường Nga đến Đài Đông thăm, nhìn thấy con gái bị bệnh bao
tử nặng như thế, liền nhớ đến thuốc A già đà trị được muôn bệnh, liền khuyên
con gái chí tâm niệm Phật và kể rất nhiều truyện cảm ứng không thể nghĩ bàn nhờ
niệm “A Di Đà Phật”. Dạy con gái phải gắng sức niệm Thánh hiệu A Di Đà Phật làm
cách trị liệu có hiệu quả nhất về mặt tinh thần. Sư tỷ ở Đài Đông mười mấy ngày
thì nghe nói gần đó có một cơ sở liên xã Phật giáo, liền dẫn con gái đi đến đó
lạy Phật, niệm Phật và quy y Tam Bảo. Từ đó về sau, con gái của bà đã là đệ tử
Tam Bảo, làm một vị tín đồ thuần thành của Phật giáo, hai thời khóa sớm tối, dù
bận gì cũng đều tham gia đầy đủ. Không biết lúc nào, bệnh bao tử đau khổ nhiều
năm nay, rốt cuộc tiêu mất hết, sức khỏe hồi phục. Chỉ có trong một năm, do sự
dẫn dắt của sư phụ và các liên hữu, cô ta chẳng những biết tụng kinh, xướng
tán, tụng niệm hai thời sớm tối ở liên xã, ngay cả đến các pháp khí cũng đều
học biết rành rẽ. Tục ngữ nói: “Phật pháp không phải việc khó, chỉ sợ tâm không
chuyên” thật là rất đúng!
Sau khi A Nhung mạnh khỏe trở
lại, gia đình ngày càng hưng long, mua thức ăn, làm việc gì thì dùng xe đạp đi,
hai năm gần đây, xe đạp bị chê và bị đào thải, liền mua một chiếc xe gắn máy
màu đỏ 50 phân khối, muốn đi đâu thì đi, vừa tiện vừa khỏe, suốt ngày rất vui
vẻ, vừa làm Phật sự, vừa giúp nghiệp vụ cho chồng, nhất là nhiệm vụ người đàn
bà trong gia đình, trong ngoài đều tươm tất.
Vào tháng 3 năm ngoái, một hôm
hơn 8 giờ sáng A Nhung như thường lệ chạy xe gắn máy muốn đến chợ mua đồ, đi
được nửa đường bỗng nhiên máy xe xảy ra sự cố, thắng chân thắng tay đều hư,
không thắng lại được, liền tức thời xe như con ngựa hoang, xông xáo bừa bãi,
đại khái mỗi con đường ở Đài Đông đều chạy qua như giông như gió, nguy hiểm
suýt đụng chết một cô gái vùng núi, may mà cô gái né rất nhanh, chưa bị tai
nạn. Lúc nguy hiểm ngàn cân treo sợi tóc này, A Nhung trong lòng sợ đến nỗi mơ
mơ màng màng, cũng không có cách gì, cứ chạy mãi. Lúc sắp xông vào một cửa
hàng, trong khoảnh khắc sắp đụng vào cây cột to trước cửa, thì trong miệng A
Nhung bỗng nhiên kêu to một tiếng “A Di Đà Phật”. Nói ra cũng thật kỳ lạ, chiếc
xe gắn máy đó lập tức thụt lùi lại, lùi đến chính giữa đường lộ, chiếc xe tự
động dừng lại, A Nhung vội vã xuống xe, sợ đến nỗi mặt không còn chút máu, tim
đánh thình thịch, trong miệng thì vẫn cứ niệm “A Di Đà Phật” không ngớt.
Lúc đó rất nhiều người vây lại
xem, người và xe không việc gì, mọi người đều chúc phúc cho cô ta, nói là: đại
nạn mà không chết, nhất định là có phước dày. A Nhung sau khi trải qua lần tiêu
tai khỏi nạn này, liền nhớ lại mẹ có tâm từ bi khuyên cô niệm Phật, trước thì
hết chứng bệnh quái ác, tiếp theo lại được giải thoát lần tai hoạ ghê gớm này,
cho nên vô cùng cảm tạ, bèn nhờ người đến Đài Trung mời mẹ của cô đến ở chơi
vài tháng.
Chuyện trên đây là sư tỷ Thường Nga sau khi từ Đài
Đông về, đến cuộc họp liên nghị, chính miệng nói với tôi một sự thật niệm Phật
cảm ứng của con gái bà.
Lại nói tiếp có một vị lão sư tỷ cũng ở Vạn Đẩu Lục
tên là Hồng Liên Di, bà ta có một đứa cháu gái tên là Hoàng Mẫn, năm nay mười
tám tuổi. Cô ta từ nhỏ chịu sự hun đúc của bà ngoại, trong thức thứ tám đã
trồng được hạt giống Phật. Sau khi tốt nghiệp tiểu học ở trường Quốc Dân năm
mười ba tuổi, lúc muốn thi vào trung học, tự cô ta đã cầu Phật Bồ Tát gia hộ có
thể thi đậu vào trường trung học Thảo Đồn, cô ta đã phát nguyện trọn đời niệm A
Di Đà Phật và ăn ngọ, do vì trường trung học Thảo Đồn gần nhà, cho nên cô ta
mong muốn thi đậu vào trường trung học Thảo Đồn. Thật là Phật, Bồ Tát không phụ
người có tâm, cô Hoàng Mẫn này cuối cùng đã đạt được hy vọng của cô ta. Sau ba
năm cô tốt nghiệp, năm mười sáu tuổi cô đến làm việc ở một y viện tổng hợp tại
Đài Trung, làm y tá. Cô ta làm việc rất cẩn thận, cố gắng học tập, đối với
người bệnh rất thân thiết, mặc dù bận rộn với công việc suốt cả ngày, hai thời
khóa sớm tối cũng niệm Phật không gián đoạn, do vì cô mang theo tượng Phật nhỏ
có lộng khung kiếng theo mình, hai thời khóa sớm tối thỉnh ra lễ bái, niệm Phật
xong rồi cất vào lại.
Vào mùa xuân năm nay, bác sĩ trưởng phái cô đưa người
bệnh đến Thảo Đồn, ngồi một chiếc xe taxi trở về, đến nửa đường vùng phụ cận
của Thảo Hồ, chiếc xe này bỗng nhiên bị hư máy, lộn lật nhào, lật vào trong đám
lau bên đường, bốn bánh xe chổng lên trời. Lúc đó có một vị sư tỷ tên Ngân Tiếu
đứng ngay cổng nhà nhìn rất rõ ràng, buột miệng kêu lên: “A Di Đà Phật! Tội
nghiệp người trong xe tiêu hết rồi!”. Trong khoảnh khắc đó, lại thấy cửa xe mở
ra, một cô gái trẻ, tay dắt một ông cụ chun ra, tài xế cũng chun ra, ba người
chẳng những bình an vô sự, mà ngay cả da cũng không có trầy sướt chút nào,
nhưng kiếng của xe thì vỡ nát hết. Sư tỷ Ngân Tiếu nói cô nghĩ không ra ba
người này sao mà may mắn như thế, không có bị thương một chút nào hết, họ đổi
xe khác đi về Đài Trung. Ngày hôm sau được nghỉ cô Hoàng liền về nhà nói với bà
ngoại rằng: “Bà ngoại! Đức Phật A Di Đà thật là linh cảm, đã phò hộ cho con”.
Liền đem chuyện kinh sợ xe lật vào đám lau hôm qua nói cho bà ngoại nghe, cô ta
còn nói “Con mỗi lần lên xe, trong tâm đều nhứt tâm niệm A Di Đà Phật, cho nên
hôm qua ngồi trong xe cũng đang niệm Phật, sau khi xe lật gọng, con đỡ ông bác
già ngồi kế bên dẫn ra, cùng về Đài Trung, đến Đài Trung xuống xe con liền mua
trái cây về cúng dường lễ bái Phật A Di Đà, cảm tạ ân đức cứu mạng con để bày
tỏ chút lòng thành kính”.
Chuyện trên đây là vào mùng 1 tháng 5 tôi đến cơ sở
hoằng pháp ở Vụ Phong giảng kinh, lão sư tỷ Hồng Liên Di nói với tôi, lúc đó sư
tỷ Ngân Tiếu cũng có ở đó.
Cư sĩ Trần Phi Lâm công chức hãng đường Đài Đông là
một vị Phật tử thuần thành, nhưng vợ của ông ta lúc đầu chống đối kịch liệt ông
chồng tin Phật, niệm Phật, tuy nhiên Trần cư sĩ cũng không thối tâm chút nào, vẫn
cứ tinh tấn, và một mặt với tâm từ bi cố sức khuyên vợ rằng: “Chúng ta có miệng
phải nên niệm Phật A Di Đà tức là cái vốn cho sau này được vãng sanh Tây
phương, nhưng trước khi chưa được sanh Tây phương, cũng có thể gặp dữ hóa lành,
tiêu tai giải nạn, đối với bản thân có sự lợi ích không gì bằng”. Bà Trần được
ông chồng hàng ngày cảm hóa như thế, lại cứ như đàn khảy tai trâu, hoàn toàn
chẳng nghe. Tuy thế bà Trần này lại là một bà chủ giỏi khéo coi sóc việc nhà
vừa cần cù vừa tiết kiệm, có lúc còn lên núi kiếm củi, gánh một gánh củi lớn
xuống núi, rồi ngồi một chiếc xe lửa nhỏ cuối cùng về nhà. Nhưng có một lần bà
Trần gánh củi xuống núi, không ngờ mặt trời đã lặn, chiếc xe cuối cùng đã chạy
rồi, chiếc xe lửa nhỏ trên núi là xe kéo mía, không phải là xe chuyên chở
khách, cho nên sau khi chuyến xe cuối cùng chạy đi rồi, thì ai tự về nhà nấy,
không có ai ở lại trạm xe cả. Trời đã tối, bà Trần trên vai gánh một gánh củi
lớn, tự mình khích lệ sức mạnh, quyết định đi bộ về nhà, một thân một mình
thuận theo con đường sắt, đi giữa đường ray tiến thẳng về phía trước. Lúc đi
được nửa đường đột nhiên thấy giữa đường ray phía trước một bóng đen của một
đại hán đang đứng, lúc ấy bà Trần càng đi thì càng gần, nhìn càng rõ, toàn thân
lông tóc dựng đứng, sợ đến nỗi quăng gánh củi trên vai do vì bà đã hết sức gánh
tiếp. Bà Trần đang lúc đêm đen có một mình nhìn thấy bóng đen kia, trong khoảnh
khắc đó, bỗng nhiên nhớ lại việc mấy năm trời được chồng huân tập cho một câu
chú vương từ nào không chịu đón nhận, nhứt là không hề muốn niệm, đang lúc vô
cùng nguy cấp này, việc đến mới ôm chân Phật, bà đứng ngay nơi đó, không kềm
được chắp tay lại, to tiếng niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Niệm được vài phút, cái
bóng đen của đại hán đó, dường như đã có cái dạng bước sang một bên rồi và dần
dần mất tiêu luôn. Bà Trần nhìn thấy thật rõ ràng, liền vội vã đi nhanh lên, cả
đến gánh củi cũng không màng đến.
Trên đường chạy về nhà của bà
Trần, trong miệng vẫn không ngớt niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Nhưng đi được
một hồi bỗng nhiên đôi chân không thể đi được nữa, lúc đó trong bụng bà Trần
cảm thấy rất lỳ lạ. Tại sao mà đôi chân bỗng nhiên không đi được nữa, liền cố
gắng tự phấn chấn tinh thần lên, khom lưng xuống tay mò xuống đất. Bà Trần dùng
tay mò dưới đất mới hay lại qua một lần đại nạn nữa, hóa ra chỉ cần tiếp tục đi
về phía trước một bước nữa thì là rớt xuống một khe suối lớn rồi! Lắng tai nghe
kỹ tiếng nước chảy trong khe rất là mạnh. Bà Trần lúc đó càng cảm tạ A Di Đà
Phật đã từ bi cứu giúp, nếu như không phải hai chân bất động, đi tiếp một bước
nữa thì rơi vào trong khe, bị nước cuốn trôi rồi, cả người nhà cũng không ai
hay biết, sẽ mãi mãi ngậm hờn nơi chín suối. Lúc bấy giờ ở khe suối đó dùng
miếng ván nhỏ làm cầu, bà Trần liền dùng cả hai tay hai chân như móc câu mà bò
qua, xong mới thở ra một hơi nhẹ nhõm, thẳng lưng lên tiếp tục chạy về phía
trước, liên tục ba lần, hễ đến bên bờ khe, thì chân tự động dừng bước, thật là
không thể nghĩ bàn! Sai một bước không phải là chết đuối mà là té chết (bể đầu
gãy xương...) do vì ban đêm nhìn không thấy rõ, nên bà Trần về đến nhà là đã 12
giờ khuya!
Ngày hôm sau bà Trần trở lại gánh gánh củi quăng mất
hồi tối, bà đã hỏi người ở trạm xe, bóng đen hồi tối qua nhìn thấy rốt cuộc là
cái gì? Người ta liền nói với bà ta: Hồi trước có một người bị tai nạn chết
ngay chỗ đó, có lẽ âm hồn không tan, nên thường hiện ra nơi đó. Câu chuyện trên
đây là do Pháp Viên và cô Hoàng Chiêu Anh đến dự khánh thành liên xã Đài Đông
và tham gia giảng diễn năm ngày, nghe được từ chính miệng bà Trần kể lại vào
mồng 1 tháng giêng năm Dân quốc thứ 48.
Lại nói về một lão sư tỷ ở nơi hoằng pháp Vụ Phong 10
năm trước. Bà ở đường Trung Chánh làng Vụ Phong, đã hơn 70 tuổi, người ta đều
gọi bà là thím Chi, là một đệ tử Tam Bảo rất cung kính hết lòng niệm Phật. Có
một hôm vị lão sư tỷ này nói với tôi: “Đứa cháu nội 9 tuổi của tôi, mấy ngày
trước đến một chỗ xa nào đó, buổi sáng mới đi rất là vui vẻ, buổi chiều về sức
khỏe không được thoải mái, cũng không ăn cơm tối, liền ngã ra giường ngủ, thằng
bé này hồi nào tới giờ vốn ngủ với bà nội”.
Người già thường có nhiều kinh nghiệm, nhìn thấy cháu
nội đi chơi bên ngoài về liền ngã ra ngủ không tỉnh, trong lòng cảm thấy không
an, nên cũng không ngủ được, liền ở bên cạnh cháu, thường dùng tay sờ trán của
cháu thăm dò tình hình lạnh nóng; đến hơn 2 giờ khuya, cảm thấy cháu bắt đầu
phát sốt cao, liền cung kính niệm một ly nước chú đại bi, kêu nó dậy cho nó
uống. Nó uống xong một ly lớn nước chú đại bi, liền nói: “Bà nội! Con hôm nay
đi chơi bên ngoài, sau khi ăn cơm dưới một gốc cây, chơi một chút sức khỏe liền
rất không thoải mái, do vì có một thằng nhỏ đi theo con về nhà, nó nói với con,
nó cũng 9 tuổi, nó là thằng nhỏ hồi năm ngoái cũng chơi ở đó bị té chết, nó bây
giờ cũng còn mặc đồ học sinh, nó nói bây giờ nó rất buồn tẻ, nó muốn con cùng
nó làm bạn. Bà nội! Nó hiện vẫn còn đứng trước giường muốn con đi chơi!”.
Lúc đó lão sư tỷ nghe đứa cháu
nói những lời đó rồi, bất giác run lên, lông tóc dựng đứng, nhưng không thể
không tự phấn chấn tinh thần, tự nâng cao dũng khí nói: “Nhà của ta không oán
không thù gì với ngươi, nếu như có oán thù đi nữa, thì oán nên mở mà không nên
buộc, giờ ta niệm chú vãng sanh bố thí cho ngươi, để ngươi có thể siêu sanh
thoát khổ, ngươi nên chú ý nghe!”. Lão sư tỷ liền niệm ba xâu chuỗi liền không
gián đoạn đã hơn ba trăm biến, lại niệm tiếp Thánh hiệu A Di Đà Phật, không
biết niệm được mấy ngàn câu, đứa cháu nội lại kêu lên: “Bà nội! Lúc bà nội niệm
chú vãng sanh, nó liền đi ra ngoài cửa, vẫn còn dùng tay ngoắc con, kêu con đi
ra. Mãi đến lúc bà nội niệm A Di Đà Phật thì không thấy nữa”.
Lão sư tỷ nói:“Tôi liền rót một
ly nước nóng nữa cho thằng bé này uống cho nó trấn tỉnh tinh thần, nó liền ngồi
dậy nói muốn đi tiểu, nó lúc đó trong bụng vẫn còn run, hai mắt vẫn cứ chằm chằm
nhìn ra cửa, sợ đến nỗi hai tay ôm chặt lấy chân của bà nội. Đến nhà vệ sinh,
không dám đóng cửa, lại còn kêu bà nội đứng ngay cửa”. Lão sư tỷ nói: “Nếu
không phải thiệt nhìn thấy ma quỷ, vì sao mà sợ đến như vậy? Sau khi đi tiểu về
đến phòng, lại tháo mồ hôi đầy mình, sốt cũng đã lui rồi, ngủ một giấc ngon
lành trời sáng thức dậy, lanh lợi lại như thường, bình an vô sự”. Lão sư tỷ lại
nói tiếp: “Tôi rất cảm ơn sư tỷ, vì sư tỷ đến dạy chúng tôi niệm A Di Đà Phật,
cho nên tôi mới nói cho sư tỷ nghe”.
Tôi liền hỏi: “Đang lúc thằng bé sốt cao, quỷ phá rất
nghiêm trọng, sao bà không kêu con trai và con dâu bà dậy?”. Lão sư tỷ đáp: “Vì
tụi nó ngủ trên lầu, oan nghiệp đeo đuổi từ bên ngoài đến, người không tin theo
Phật, không cách gì giải quyết được, nên kêu cũng vô dụng, cho nên không có kêu
tụi nó”. Lão sư tỷ đã hơn 70 rồi, từ lúc nghe được pháp môn Tịnh độ, tinh thần
rất tốt, căn lành sâu dày phát trí huệ lớn, luôn giữ tâm không rời Phật, Phật
không rời tâm. Gần đây nghe cư sĩ A Thẩm nói: Lão sư tỷ đã vãng sanh hồi 4 năm
trước rồi.
9. Phật A Di Đà phóng quang gia bị
Đây là một câu chuyện thật xảy ra vào ngày mồng 9
tháng 11 ÂL năm Dân Quốc thứ 52 (Dân Quốc sơ niên là 1911) do niệm một câu đại
chú vương vạn đức hồng danh mà được cảm ứng không thể nghĩ bàn. Một phụ nữ họ
Lại ở trong vùng nông thôn mới do thành phố Đài Trung hỗ trợ, năm nay 54 tuổi,
bà ta đã từng dẫn đứa cháu mới 5 tuổi của bà sang một vị liên hữu tên Lý Kim
Phương đối diện với nhà bà để nhờ gia trì chú Đại Bi “thâu cảnh”. Gia trì chú
Đại Bi “thâu cảnh” là một phương pháp rất hiệu nghiệm, cũng là một pháp môn
phương tiện hay, khéo khuyên người niệm Phật.
Buổi trưa mồng 9 hôm đó, bà họ Lại đang làm việc trong
nhà bếp, bỗng dưng đầu bà cúi gục xuống, toàn thân co giật. Đứa cháu 5 tuổi đó
thế mà rất thông minh, thấy tình trạng như thế, vội vã chạy sang nhà đối diện
lớn tiếng kêu lên: “Bà cụ ăn chay ơi! Bà cụ ăn chay ơi! Mau qua giúp bà của con
“thâu cảnh”. Vị liên hữu Lý Kim Phương lập tức đến nhà bếp bà Lại, vừa xem, bà
giựt mình hốt hoảng, chỉ thấy bà Lại hai con mắt trắng dờ, đã hôn mê bất tỉnh
nhân sự, bà mẹ chồng hơn 70 tuổi đang đỡ một bên hông phải của bà ta; đứa con
trai lớn đang đỡ hông bên trái, hai người đều sợ đến mức chỉ biết kêu la. Vị
liên hữu Lý Kim Phương bảo họ cần phải trấn tỉnh và mọi người phải cùng nhau
niệm A Di Đà Phật. Như thế niệm được khoảng 20 phút bà Lại đang trong hôn mê
thở ra một hơi, mới mở miệng nói: “Ông ta đứng ở kia kìa, bảo tôi đi với ông
ta”. Vị liên hữu Kim Phương hỏi bà ta: “Ông ta là ai vậy?”. Bà Lại đáp: “Là ông
Lâm chồng tôi”. Vị liên hữu Kim Phương vừa cao giọng niệm Phật vừa nói với hồn
quỷ rằng: “Ông Lâm à! Ông không nên dẫn bà Lại đi, mà nên cố gắng phò hộ sức
khỏe của bà được bình an, vì bà ấy là một người con dâu hiếu thảo, trên thì lo
hầu hạ mẹ của ông, dưới còn có con nhỏ chưa trưởng thành, cần phải nuôi dạy,
ông nhất thiết không được dẫn bà ấy đi!”. Bà mẹ chồng của bà Lại lúc đó cũng
nói: “Con à! Từ sau khi con qua đời, vợ con và mẹ cùng nương nhau mà sống, con
không được dẫn nó đi, nếu con dẫn nó đi, để lại mẹ già cả thế này và mấy đứa
nhỏ còn nhỏ như thế kia, làm sao mà sống đây? Như vậy con chính là đại bất
hiếu!”. Vị liên hữu Kim Phương lần nữa lại khuyên hồn quỷ: “Ông Lâm à! Ông phải
nên niệm A Di Đà Phật phát nguyện cầu sanh Tây phương, mới có lối thoát, luân
hồi trong sáu đường là cái khổ nói không cùng. Bây giờ tôi niệm A Di Đà Phật,
ông cũng phải phát tâm niệm A Di Đà Phật theo!”. Nói xong liền niệm “A Di Đà
Phật”, niệm liên tục không dừng. Niệm được khoảng nửa tiếng đồng hồ, thì nghe
bà Lại bắt đầu nói: “Tam Tiên ánh vàng rực rỡ, Tam Tiên ánh vàng rực rỡ, chồng
tôi cũng đi rồi”. Vị liên hữu Kim Phương hỏi bà ta: “Bà hỏi thử xem, Tam Tiên
tên là gì?”. Bà Lại nói: “Họ nói là Phật A Di Đà phóng quang gia bị”. Bà Lại
đang trong hôn mê tức thời tỉnh táo trở lại, chưa đầy mấy ngày sức khỏe của bà
bình an vô sự (Tam Tiên tức là Tam Tôn, do vì bà Lại không phải tín đồ chính
thức của Phật giáo, nên không biết tôn xưng Tam Tôn). Bà Lại lần này bị sự nguy
khốn đó, cũng không phải không có nguyên nhân, việc xong bà mẹ chồng của bà ta
nói với vị liên hữu Kim Phương rằng: “Thằng Lâm con tôi sau khi kết hôn với con
dâu họ Lại này chưa từng có gây gổ với nhau lần nào, thật là một cặp vợ chồng
hạnh phúc. Từ ba năm trước khi thằng Lâm chết rồi, con Lại ngày ngày đều thương
nhớ chồng. Mười mấy hôm trước nó một mình đi ra mộ dọn dẹp, cúng bái, khóc lóc
thảm thiết một trận nữa, cho nên bắt đầu từ hôm đó, đêm nào cũng mộng thấy hồn
chồng về trong nhà. Điều kỳ lạ là không chỉ một mình nó mộng thấy, trong nhà
lớn nhỏ đều mộng thấy cả!”.
Vị liên hữu Lý Kim Phương có hơi không hiểu: Tại sao
một người đã chết ba năm rồi, thần thức còn ôm giữ trong mộ? Riêng tôi, tôi cho
rằng việc này có hai cách giải thích:
Một là ông Lâm này lúc còn sống, “chấp ngã” rất nặng
cho nên sau khi chết đọa vào quỷ đạo vẫn lưu luyến cái thi thể cũ của mình như
trước mà trở thành loài quỷ giữ xác!
Hai là lúc bà Lại đi ra mộ quét dọn cúng bái, thì
những cô hồn ngạ quỷ ở gần mộ đó biến hóa ra hình tướng của ông Lâm theo bà ta
về nhà làm loạn! Căn cứ theo trong Kinh Địa Tạng có nói: “Cõi Diêm Phù Đề này,
người hành thiện, lúc lâm chung, cũng có trăm ngàn quỷ thần ác đạo hoặc biến ra
làm cha mẹ, nhẫn đến biến ra những bà con quyến thuộc, dẫn dắt người chết khiến
vào đường ác, huống nữa là người lúc sống vốn tạo ác nghiệp.
Hai cách giải thích trên đây, không biết thuộc về cách
nào? Những vị độc giả thông minh, các ngài có thể giải đáp cho tôi không?
Phàm người khi mạng sắp lâm
chung, ngoài con đường Thánh ở Tây phương ra, thì nếu không vào được cõi trời
hay loài người, thì cũng ắt vào các đường: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Quyến
thuộc của người mạng chung, nếu có thể giúp cho họ niệm Phật, đó là đưa thần
thức của họ vãng sanh vào đường Thánh Tây phương mãi mãi thoát ly được biển khổ
sanh tử. Nhưng cái ngày sắp mạng chung, giống như ngày 30 tháng chạp, những oan
nghiệp đời trước, các chủ nợ đều đến, đâu có chịu cho anh đi dễ dàng! Nợ đã
tính chưa xong, lâm chung làm sao để cho anh tiêu dao tự tại? Trong khoảnh sát
na này thì phần lớn trách nhiệm ở nơi quyến thuộc và những người trợ niệm, cho
nên người niệm Phật tu hành nhất thiết không nên ỷ vào mình tu hành nhiều năm,
công phu rất tốt, các thứ công đức bố thí v.v… nhiều. Ngoài các bậc hành giả
thật sự nắm chắc được việc tự tại muốn đi thì đi; còn lại, lúc sắp mạng chung
vẫn phải lấy trợ niệm làm quan trọng. Bây giờ đơn cử ra một vị liên hữu vào
tháng trước vãng sanh để chứng minh.
Vị liên hữu Hồng Hoàn trưởng ban của ban 48 nguyện
kiêm ban trưởng của ban thí tài ở Liên xã Đài Trung, năm nay sáu mươi hai tuổi.
Trong hai mươi năm gần gũi, đồng tu với ân sư Bính Công, có thể nói là người có
phước báo nhứt, thành khẩn nhứt, phát tâm lớn nhứt, không có ai là sánh được
với bà. Phước báo của bà ta là gia đình thanh nhàn nhứt, con cái, dâu rể, cháu
ngoại đều hiếu thuận, cả nhà tin Phật, niệm Phật và của cải dư dã, bố thí từ
nào đến giờ không có lận tiếc, cho nên sư phụ cho bà ta làm ban trưởng ban thí
tài. Lòng thành khẩn đối với việc tin Phật của bà là mỗi khi sư phụ giảng kinh
hoặc mở hội v.v… thì bà đều đi đủ không có mưa gió gì có thể ngăn trở; chẳng
những tự tu tự lợi như thế, mà còn tâm tâm niệm niệm luôn nghĩ đến việc “lợi
tha”. Tôi thường khen ngợi Hồng Hoàn với mọi người, hạng mà khó độ nhứt là bà
con trong gia đình và những người hàng xóm, nhưng mà Hồng Hoàn thì sao? Thật có
thể nói bà là bậc “bi trí song vận” (bi trí đầy đủ), phương tiện khéo léo,
không những trong gia đình bà con đồng chí đồng đạo, ngay đến bà con hàng xóm
xa gần, cả đến trong những ngõ hẻm ngóc ngách, hầu như nhà nào cũng đều phụng
thờ tượng Tây phương Tam Thánh, có thể độ được cả một con hẻm đều tin Phật,
thật là hiếm thấy! Đây đều là cái thành quả phát Bồ đề tâm của bà. Chẳng những
như thế, bà lại còn đảm nhiệm làm cán sự hội phụ nữ khu Bắc thành phố Đài Trung,
đã từng khuyên dứt mười mấy gia đình bất hòa, năm đó có cặp vợ chồng trẻ, cảm
tình sắp bị tan vỡ, lúc chồng vợ con cái sắp chia tay, thì nhờ biện tài vô ngại
của bà khuyên bảo, gia đình trở lại tốt đẹp, và tốt hơn nữa là đều quy y Tam
Bảo. Cho nên ai cũng đều khen ngợi hoàn cảnh gia đình của sư tỷ Hồng Hoàn là
tốt đẹp, cùng với tinh thần từ bi ưa xả thí của bà, trong đời có thể nói là
“thập toàn thập mỹ” (mười phân vẹn mười).
Tuy nhiên, trong cái đẹp có cái khiếm khuyết. Cái
khiếm khuyết của sư tỷ Hồng Hoàn là vào năm ngoái bỗng nhiên bị bệnh ruột dư,
đã đi bệnh viện khoa ngoại mổ một lần, đến trung tuần tháng 2 năm nay bệnh biến
đổi nặng, đã qua Đông Tây y dược trị liệu vẫn không có hiệu quả. Lúc bệnh nặng
đã từng có thỉnh thầy Bính Công đến khai thị, thầy thấy bà uống thuốc an thần,
mơ mơ hồ hồ, liền dặn con cái của bà: “Về sau nhất thiết không nên tiếp tục cho
bà uống thuốc an thần nữa, lúc trợ niệm tinh thần sẽ mơ hồ hồ như thế, thần
thức sẽ không thể vãng sanh Tây phương được!”. Đến 3 giờ buổi chiều ngày 17,
tôi nhận được điện thoại của con gái của bà, nói là mẹ của cô đã hôn mê bất
tỉnh nhân sự. Tôi lập tức cùng với sư tỷ Ngọc Trinh và mấy người nữa đi đến trợ
niệm, lúc đó mọi người chúng tôi đều thấy bà ta hổn hển thở gấp, không còn biết
gì, hai tay giở lên buông xuống liên tục, bộ dạng như đang muốn đẩy cái gì.
Chúng tôi liên tục niệm Phật, niệm đến khoảng hơn 5 giờ, hơi thở gấp của bà đã
từ từ ổn định lại, hai tay cũng không còn giở lên giở xuống nữa, dần dần tỉnh
táo trở lại và đã có thể nói chuyện được rồi, bà nói với chúng tôi: “Sư tỷ, cám
ơn các sư tỷ nhiều! Được rồi, các sư tỷ nghỉ đi!”. Tôi nói bà ta nên tĩnh tâm
nhớ Phật, không nên nói chuyện nhiều. Lúc đó đã 6 giờ, tôi liền dặn dò con cái
của bà rằng: “Nếu như lúc nửa đêm khuya khoắt, nguy hiểm, các con cháu, mọi
người đều phải cố gắng niệm Phật, nhưng nhất định phải đồng thanh, không nên có
người thì niệm “A”, có người thì niệm “Đà”, có người thì niệm “Di”, trước sau
lộn xộn, như thế làm nhiễu loạn nhĩ căn của người sắp mạng chung”. Sau khi tôi
dặn dò xong, liền cùng các liên hữu ai về nhà nấy.
Đến sáng ngày hôm sau, nhớ nghĩ người bạn tri âm sắp
từ biệt cõi đời, không khỏi ngậm ngùi nhớ tiếc, tức khắc chạy đi xem coi tối
qua như thế nào? Lúc tôi mới vào cửa A Hoàn nghe được tiếng tôi liền lớn tiếng
kêu lên: “Sư tỷ Khán Trị lại đây, lại đây!”, tôi liền ngồi trên mép giường của
bà, bà nói với tôi: “Chiều hôm qua may mà có các sư tỷ niệm Phật cho tôi, do vì
lúc đó dường như đang bị cái chụp muỗi đen đè cứng, cái chụp đó nặng có mấy
ngàn ký, đè đến nỗi tôi không thở nổi, chỉ còn có hai tay còn tự do, nên hai
tay giở lên giở xuống muốn đẩy nó ra, nhưng lại đẩy không nổi”. Tôi hỏi bà ta:
“Tại sao chị không niệm A Di Đà Phật?”. Bà nói: “Khắp mình bị đè thở không ra
hơi, không những miệng niệm không ra, ngay cả trong tâm cũng không niệm được!
May mà còn có thể nghe được tiếng niệm Phật của các chị, tiếng vừa to vừa rõ
ràng, cái chụp muỗi đen đó dần dần biến mất, tôi mới cảm thấy thân thể nhẹ
nhàng, từ từ tỉnh lại”.
Hồng Hoàn lại nói: “Sư tỷ Khán Thị à! Tôi hôm qua lại
còn nhìn thấy một cảnh giới nữa, kể ra rất dài”. Tôi hỏi bà muốn nói cái gì, bà
nói: “Tối qua khoảng 2 giờ, tôi nhìn thấy một đứa bé khoảng chưa đầy tám tuổi
mặc đồ trắng hiện ra trong phòng tôi, tôi hỏi nó: “Mày là ăn trộm đến trộm đồ phải
không?”, thằng nhỏ liền phủ nhận: “Không phải, không phải!”. Tôi hỏi tiếp nó:
“Vậy mày ở đâu đến đây? Đến làm cái gì?”. Nó nói: “Tôi từ lục đạo luân hồi đến,
muốn đến đòi nợ bà, tính sổ với bà”. Tôi nói: “Ta làm người thanh bạch, chưa
từng thiếu nợ của người nào”. Thằng nhỏ đó lại nói: “Không phải đời này, mà là
nợ đời trước. Do vì bà đời trước ở Đài Bắc làm người hiếu sát (hay giết, ưa
giết), đã giết bốn mươi con mèo rồi đều vứt bỏ xuống sông Cô Long (tên cũ),
không tin, bà đi kiểm tra lại thì biết, tôi là một con trong đó, do vì sau khi
bà giết chết tôi bà vẫn cứ ném vào trong sông, tôi rớt xuống bên bờ, có một
người họ Hứa cứu tôi, nhưng tôi đã không thể sống tiếp, nên đã dùng một sợi dây
cột tôi lại, treo lên trên cây, tôi nhờ tinh hoa của mặt trời mặt trăng cho nên
có thể được hình người này, nhưng còn ba mươi chín anh, chị, em của tôi vẫn còn
hình dáng mèo chịu khổ ở nơi đó. Tôi đến đây là muốn bà siêu độ cho bầy mèo anh
chị em của tôi thoát khổ.” Tôi vội vàng nói: “Được, được! Liên xã chúng tôi trong
tháng sắp cúng tế Tổ, thuận tiện sẽ siêu độ cho các ngươi luôn”. Đứa bé đó lại
nói: “Không được không được! Nhất định phải làm hai cái giỏ tre đi đựng ba mươi
chín con mèo kia. Chính bà tụng kinh siêu độ tại nhà bà.” Tôi liền nhận lời,
sáng hôm nay kêu Canh Thân viết thư cho một người bà con ở Đài Bắc hỏi thăm
rồi”.
Qua ba ngày, người bà con ở Đài Bắc gởi thư hồi âm
nói: trước đây rất lâu ở Đài Bắc thật có con sông này. Việc này của Hồng Hoàn
không những nói với tôi, còn nói với rất nhiều liên hữu nữa. Bà liền thỉnh cư
sĩ Triệu Đàm Thuyên, Vương Thanh Hán, mười mấy vị liên hữu đến nhà bà tụng Kinh
Địa Tạng, tụng kinh sám ba ngày để siêu độ cho bốn mươi con mèo kia. Buổi tối
ngày cuối cùng lại làm một nhà “phổ thí” (thí khắp) để mở hết những oan kết cho
bà.
Đến sáng sớm mồng 5 tháng 3 âm lịch, có người gọi điện
thoại đến nói Hồng Hoàn sắp vãng sanh rồi, hiện chỉ còn thở thoi thóp. Tôi liền
lại cùng với sư tỷ Ngọc Trinh và mấy vị đến nhà bà niệm Phật, niệm được hơn một
giờ, thì Tố Cầm con gái của bà, nói với tôi: “Sư tỷ! Má con bắt đầu từ đêm qua,
chỉ còn một hơi thở mong manh như thế, đến bây giờ vẫn chưa được vãng sanh; má
con trước đây từng có dặn dò con: cần phải trước khi vãng sanh, trước nên thay
đồ dùm cho bà, không biết phải hay không là chưa thay đồ, nên không chịu vãng
sanh? Sư tỷ! Bây giờ thay đồ cho má con được không?”. Tôi nói: “Không được,
không được! Bây giờ động dời bà ta e rằng gây cho bà ta phiền não thì không
được vãng sanh”. Thế là lại niệm hơn nửa tiếng đồng hồ, vẫn cứ như thế, tôi
nghĩ có lẽ bà ta thật sự chấp phải thay đồ trước, liền kêu mọi người tạm ngừng
niệm Phật, tôi đến bên tai của bà lớn tiếng nói: “Sư tỷ A Hoàn, chị niệm Phật
hai mươi năm, tâm tâm niệm niệm đều là muốn vãng sanh Tây phương, chị đã hiểu
thế giới Ta bà này là giả, là khổ, đời người ở đời trong mấy chục năm, mỗi con
người cuối cùng đều phải chết, chỉ là trước sau mà thôi, thế giới Cực Lạc mới
là quê nhà an ổn của chúng ta; Phật A Di Đà là cha lành của chúng ta, sắp đến
tiếp dẫn chị, chị phải buông bỏ hết vạn duyên, nhứt tâm niệm Phật, mọi người
chúng tôi sẽ tiếp tục giúp chị niệm Phật, đưa chị vãng sanh Tây phương Cực lạc
thế giới, sau này chị còn phải thừa nguyện lực trở lại quảng độ chúng sanh. A
Hoàn! Chị phải buông bỏ tất cả, chúng tôi thỉnh Phật A Di Đà đến tiếp dẫn chị,
chị phải niệm Phật theo đại chúng!”. Thật là không thể nghĩ bàn, mọi người đều
nhìn thấy lúc tôi nói chuyện với bà, mắt của bà mở ra, đầu thì gật không ngớt,
bày tỏ dáng điệu rất hài lòng, chúng tôi bèn niệm tiếp được năm phút, bà liền
mỉm cười ra đi. Lúc đó là 11 giờ trưa ngày mồng 5 tháng 3. Sau khi bà dứt thở
chúng tôi lại còn niệm tám giờ nữa mới để con cháu bà tắm rửa thay đổi y phục
và lo đám tang.
Từ chuyện đơn cử có thật trên đây, chúng ta thấy:
trước khi Hồng liên hữu lâm chung nhìn thấy một cái chụp đen nặng cả ngàn ký đè
bà ta đến nỗi đau khổ vô cùng, tự mình không cách gì đẩy ra được; nếu như không
có các vị liên hữu bên mình bà niệm Phật cho bà, thì làm sao có thể hồi dương
được hơn mười ngày, dùng Phật pháp làm những công đức giải oan thích kết (mở bỏ
những oan trái) cho những con mèo nhỏ kia. Mà những oan hồn kia biết Hồng liên
hữu thường ngày niệm Phật, sẽ sanh Tây phương thì món oan trái này sẽ không còn
cách gì đòi cho được, bèn hiện thân ra đứa nhỏ thẳng thắn nói ra đoạn oan nghiệp
bị giết hại đời trước, yêu cầu tụng kinh siêu độ cho chúng thoát khổ. Có thể
nhìn thấy nhân quả đáng sợ, rất nguy hiểm biết bao! Tôi viết đến đây tự nhiên
lông tóc dựng ngược, cảm thán mãi! Thật là “Thân này không lo tu ngay trong đời
này, còn đợi đến đời nào mới độ được thân này!”.
LƯỢC SỬ TIỀN
THÂN ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ VÀ 48 LỜI ĐẠI NGUYỆN
Hành giả tu Pháp môn tịnh độ cần nên biết những tiền
thân, công hạnh tu tập và 48 lời đại nguyện của Đức Phật A Di Đà. Đức Phật A Di
Đà có công đức rất lớn, lòng từ bi bao la, hạnh nguyện vĩ đại. Ngài phát ra 48
lời đại nguyện để trang nghiêm Phật độ, tiếp dẫn chúng sanh.
Từ khi Ngài phát Bồ Đề tâm cho đến ngày thành Phật,
Ngài đã trãi qua hằng sa kiếp tu tập, giáo hóa cứu độ chúng sanh. Sau đây xin
lược thuật năm tiền kiếp của Ngài:
1.
Mười sáu vị Vương
Tử trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Đức Phật Đại Thông trí Thắng, khi còn
ở ngôi quốc vương có mười sáu người con trai. Lúc quốc vương từ bỏ ngai vàng,
xuất gia thành Phật thì mười sáu vị vương tử đồng vào pháp hội, xin xuất gia
làm Sa Di. Trải qua một thời gian tu học, mười sáu vị Sa Di đều chứng ngộ, đều
có thần thông, trí tuệ.
Sau khi giảng kinh Diệu Pháp Liên Hoa
cho đại chúng trong pháp hội, Đức Phật Đại Thông Trí Thắng liền nhập tịnh thất,
trụ trong đại định.
Trong thời gian Đức Phật nhập thất,
mười sáu vị Sa Di đều lên pháp tòa, giảng rộng nghĩa lý Kinh Pháp Hoa cho đại
chúng. Mỗi vị Bồ Tát Sa Di độ được sáu trăm tám mươi muôn ức na do tha, hằng hà
sa người.
Mười sáu vị Sa Di ấy hiện nay đều đã
thành Phật, đang ngự trong đạo tràng ở mười phương thế giới. Vị Sa Di thứ mười
sáu thành Phật ở cõi Ta Bà, hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Vị Sa Di thứ chín thành
Phật ở thế giới Cực Lạc, tức là Đức A Di Đà Phật.
2.
Thái Tử Thắng Công Đức
Về thửa quá khứ, có một vị thái tử
tên là Bất Tư Nghị Thắng Công Đức. Năm
mười sáu tuổi thái tử được nghe kinh Pháp Bổn Đà La Ni nơi Đức Phật Bảo Công
Đức Tinh Tú Kiếp Vương Như Lai. Nghe
kinh xong, Thái Tử tinh tấn tu tập trong bảy muôn năm không ngủ nghỉ, mà cũng
không nằm dựa. Nhờ sức tinh tấn dõng mãnh ấy nên lần lần Thái Tử được gặp chín
mươi ức trăm nghìn Đức Phật. Bao nhiêu kinh pháp của chư Phật truyền dạy Thái
Tử đều có thể thọ trì, tu tập cả. Về sau Thái Tử xuất gia làm Sa môn, lại tu
tập môn Pháp Bổn Đà La Ni chín muôn năm, và giảng truyền chính pháp cho mọi
người. Một đời cần mẫn tu hành và cần mẫn giáo hóa, Thái Tử độ được tám mươi ức
na do tha người phát Bồ Đề Tâm, trụ bậc bất thoái chuyển.
Thái Tử Thắng Công Đức là tiền thân
của đức Từ Phụ A Di Đà Phật.
3.
Vị Tỳ Kheo quán tướng lông mày trắng của Đức Phật Không Vương
Kinh Quán Phật Tam Muội Hải, chép:
Ðời quá khứ Ngài làm Tỳ Kheo, chăm lòng kính lễ quán tưởng tướng lông mày trắng
của Đức Phật Không Vương, nên được thọ ký làm Phật hiệu là A Di Ðà.
4.
Vua Vô Tránh Niệm
Trong Kinh Bi Hoa nói rằng: Về khoảng hằng sa kiếp
trước, có một đại kiếp gọi là Thiện trì. Khi ấy tại cõi Tản Đề Lam thế giới có
vua Chuyển Luân Thánh Vương, tên Vô Tránh Niệm, thống lãnh cả bốn xứ thiên hạ:
một là Đông thắng thần châu, hai là Nam thiệm bộ châu, ba là Tây ngưu hóa châu,
và bốn là Bắc cu lô châu, tiếng nhơn hiền đồn dậy bốn phương, đức từ thiện đượm
nhuần khắp xứ, nên hết thảy nhân dân ai nấy cũng sẳn lòng ái kính.
Vua ấy có nhiều người con và có một vị đại thần, tên
là Bảo Hải, con dòng Phạm Chí, rất tinh thông về nghề xem thiên văn.
Ông Bảo Hải lại có một người con trai tướng tốt lạ
thường, từ dưới chân lên đến trên đầu đều có ba mươi hai tướng tốt.
Khi con ông mới sanh ra, thì có các hàng khách tôn quý
đem nhiều đồ lễ vật đến dưng cho, nhơn vậy mà đặt tên là Bảo Tạng.
Lúc khôn lớn, thì Bảo Tạng xem biết việc đời là thống
khổ thân mạng lại vô thường, tự nhiên sanh lòng chán ngán, bỏ cuộc vinh hoa,
liền xuất gia tu hành, chẳng đặng bao lâu mà đã thành Phật, hiệu là Bảo Tạng
Như Lai, đủ các đạo Pháp nhiệm mầu, thần thông rộng lớn. Khi thành Phật rồi,
thì Ngài dạo khắp các nơi mà hóa độ chúng sanh, có nhiều hàng đệ tử đã chứng
đặng quả Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát, nên nhơn dân ai nấy cũng sẳn lòng
hoan nghinh.
Có một bữa kia, vua Vô Tránh Niệm nghe Phật Bảo Tạng cùng
Đại chúng đến giảng Đạo tại vườn Diêm Phù, gần bên thành, thì tự nghĩ rằng: “Nay
Ta muốn đến chỗ Phật, đặng xem coi giảng Đạo lý gì mà thiên hạ tín ngưỡng đông
như thế!”.
Nghĩ như vậy rồi, vua cùng các vị vương tử, đại thần
và quyến thuộc bèn đến vườn Diêm Phù lễ Phật vừa xong, liền đi chung quanh ba
vòng, rồi ngồi bên Ngài mà nghe Pháp.
Vua Vô Tránh Niệm xem thấy Đức Bảo Tạng Như Lai khoanh
chân ngồi trên bảo tọa có hình con sư tử, rất bực trang nghiêm, đủ tướng tốt
đẹp, chung quanh thân Ngài có ánh sáng nhiều sắc chói lòa.
Còn trong Pháp hội thì thấy: nào là những người đã
xuất gia làm đệ tử của Phật cạo tóc đắp y, nào là những hàng vương tử đại thần
mặc đồ anh lạc, nào là cung nga mỹ nữ dung mạo tốt xinh, nào là sĩ, nông, công,
thương, áo xiêm chỉnh đốn, kẻ thì chấp tay ngồi im lặng, người thì quỳ gối thưa
hỏi, xem bộ ai nấy cũng chăm ngó Phật mà nghe Pháp cả.
Vua Vô Tránh Niệm quan sát khắp đủ mọi lẽ, bèn ngắm
nhìn thân mình, rồi trở lại ngó Phật, mắt sửng không nháy, lòng thiệt hoan
nghênh, cái tâm niệm tín ngưỡng tự nhiên phát lộ, liền đảnh lễ Ngài và đi xung
quanh ba vòng, rồi cũng ngồi xuống một bên Ngài mà chăm nghe lời giảng dạy.
Vua nghe Đức Bảo Tạng Như Lai diễn đủ các Pháp, thì
lòng đã mở thông, căn thân thanh tịnh, rõ đường giải khổ, biết sự làm lành,
liền quỳ xuống chấp tay mà thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nay con muốn sắm đủ
những đồ ăn uống: áo chăn, mền nệm và thuốc men, đặng dưng cúng cho Ngài và đại
chúng luôn trọn ba tháng ở đây mà giảng đạo, xin Ngài từ bi ai nạp”.
Vua Vô Tránh Niệm thấy Phật nhận lời, liền trở về
truyền lịnh sắm sửa đủ mọi lễ, cứ đúng buổi mà dưng cúng không hề trễ nãi.
Vua lại khuyên bảo các vị vương tử, đại thần, quyến
thuộc và nhơn dân rằng: “Các ngươi có biết hay không? Nay Trẫm đã mở lòng bố
thí, kính thỉnh Đức Bảo Tạng Như Lai và đại chúng đến mà cúng dường trọn ba
tháng. Những đồ báu trọng ngon đẹp của Trẫm thọ dụng bấy lâu nay đều đem dâng
cúng tất cả. Các ngươi cũng thể theo ý Trẫm xả bớt huyễn tài mà cúng Phật Tăng
đặng cầu phước báu”.
Cả thảy đều vâng lời vua khuyên, hết lòng sắm sửa lễ
vật mà dưng cúng Phật.
Có một hôm, quan Đại thần Bảo Hải, là phụ thân Đức Bảo
Tạng Như Lai, nằm chiêm bao thấy vua Vô Tránh Niệm làm sự bố thí thì lớn, mà
việc cầu phước báu thì nhỏ. Sự ao ước của vua còn thuộc về phước hữu lậu trong
cõi nhơn thiên, chưa thoát ra khỏi luân hồi sanh tử.
Vậy nên quan Đại thần chẳng đặng vui lòng, vì ý của
ông muốn làm sao cho vua phát tâm cầu quả Bồ đề, tu thành Phật đạo mà cứu vớt
mọi loài chúng sanh, chớ không muốn cho vua cầu phước báu nhỏ nhen như hàng
tiểu dân vậy.
Quan Đại thần suy nghĩ như vậy, bèn đến chỗ Phật Bảo
Tạng Như Lai tỏ điềm chiêm bao ấy, và tâu với vua Vô Tránh Niệm rằng: “Muôn tâu
Đại Vương! Xin suy nghĩ đến việc này. Về sự sanh tử luân hồi phải bỏ thân này
mang lốt khác, nên khó đặng thân người. Nay Đại Vương đã cảm lấy phước báu làm
đặng vương thân, thiệt là quí báu biết dường nào! Các Đức Phật tùy cơ duyên của
chúng sanh cảm triệu mà ứng hiện ra đời, cũng như bông ưu đàm ứng thời mà nở,
thiệt là ít có! Nay Đại Vương gặp Phật xuất thế, thì phần hân hạnh biết bao!
Dứt trừ lòng dục vọng, làm mọi sự phước duyên, cũng là việc khó mà Đại vương
làm đặng như vậy, thiệt là ít ai bì đặng!
Xin Đại Vương thứ lỗi cho ngu thần hỏi lời này: Ngày
nay Đại Vương cúng dường Phật Tăng, dùng phước duyên đó mà cầu nguyện những
việc chi, xin cho ngu thần rõ.
Nếu Đại Vương muốn cầu sanh về cõi Trời mà làm một vị
thiên tử hưởng sự phước thọ hay là muốn cầu sanh về cõi Nhơn gian làm vua
Chuyển Luân, thống lãnh bốn châu thiên hạ như ngày nay vậy, thì cũng còn ở
trong khổ ải, chớ chưa ra khỏi vòng sanh tử luân hồi.
Thưa Đại Vương! Hai sự phước báu tôi đã trần tấu đó
đều là tướng vô định, đều là sự vô thường, thí như cơn gió thổi, dường tợ đám
mây tan, có chắc chắn lâu dài chi đâu mà phải cầu nguyện!
Nếu sanh về cõi Trời, khi hưởng sự khoái lạc mà có tạo
ác nghiệp, thì cũng phải đọa vào địa ngục, đặng chịu khổ. Còn như sanh về cõi
nhơn gian, thì lại chịu mọi sự khổ não phần thì oán cừu gặp gỡ, phần thì ân ái
chia lìa cái khổ trạng ấy không thể kể xiết.
Vì Đại Vương nhờ nhân duyên tu phước đời trước, nên
mới hưởng đặng sự tôn vinh như vầy. Nếu nay Đại vương giữ gìn giới luật, thì sẽ
đặng phước báu lớn hơn nữa: còn như tu học chánh pháp, thì sẽ thành chủng trí.
Vậy xin Đại vương nên phát tâm cầu đạo Vô Thượng Bồ
Đề, chớ đừng cầu nguyện những việc phước nhỏ nhen như hạng người thường kia vậy”.
Vua Vô Tránh Niệm nghe quan Đại thần Bảo Hải khuyến
thỉnh như thế, thì tâm lượng tự nhiên mở rộng, liền đáp rằng: “Trẫm chẳng cầu
những việc như khanh nói đó đâu! Trẫm muốn trãi khắp trong đường sanh tử, làm
sự bố thí, trì giới, hầu nghe những pháp mầu nhiệm, tu hạnh Bồ Tát và cứu vớt
chúng sanh, do nhân duyên ấy mà phát tâm Bồ Đề”.
Đại thần Bảo Hải lại nói rằng: “Bồ đề là một đạo rất
trong sạch sáng suốt, rất ngay thẳng chính đáng rất trang nghiêm tốt đẹp, rất
rộng lớn cao sâu, khắp cả hư không, trùm cả sa giới rất có oai thần mảnh lực.
Vả lại đạo Bồ đề là hạnh bố thí, sẽ đặng giàu sang, là
hạnh trì giới, sẽ đặng thanh tịnh, là hạnh nhẫn nhục, sẽ đặng vô ngã, là hạnh
tinh tấn, sẽ đặng bất thối, là hạnh thiền định, sẽ đặng vắng lặng, là hạnh Bát
nhã, sẽ đặng sáng suốt.
Tu được như vậy mới đến chỗ an lạc và mới chứng đặng
quả Niết Bàn. Vậy xin Đại vương nên phát tâm mà cầu đạo ấy”.
Vua Vô Tránh Niệm đáp rằng: “Này khanh! Đương thời
trung kiếp, mỗi người sống lâu chỉ có tám vạn tuổi mà thôi! Nay Đức Bảo Tạng
Như Lai ứng hiện ra đời mà giáo hóa chúng sanh, hoặc có kẻ chứng pháp Tam muội,
hoặc có người đặng bực Bồ Tát, hoặc đặng thọ ký làm Phật, hoặc đặng quả báo nơi
cõi Nhơn Thiên. Trong hàng chúng sanh có một người nào không trồng căn lành mà
Đức Như Lai chẳng nói Pháp đoạn khổ.
Tuy Ngài là phước điền của chúng sanh, song những
người không có căn lành thì Ngài không có thể hóa độ cho dứt đặng mọi sự khổ
não.
Nay Trẫm phát Bồ Đề tâm, tu Bồ Tát hạnh, học đạo Đại
thừa, chứng pháp môn rất mầu nhiệm, chuyên làm Phật sự mà giáo hóa chúng sanh.
Trẫm muốn cầu làm sao cho khi thành Đạo Bồ Đề, thì Thế giới đặng trang nghiêm
thanh tịnh chúng sanh không còn có một chút khổ gì. Nếu đặng như vậy thì Trẫm
sẽ chứng đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”.
Vua Vô Tránh Niệm nói như vậy rồi, bèn đi với quan Đại
thần Bảo Hải đến chỗ Đức Bảo Tạng Như Lai, thấy Ngài đương nhập định, lại dùng
phép thần thông biến hóa và phóng hào quang sáng suốt, hiện cả mười phương thế
giới của Chư Phật ra trước mặt cho chúng hội xem: hoặc có cõi Phật đã Niết Bàn
rồi, hoặc có cõi Phật đương Niết Bàn, hoặc có các cõi vị Bồ Tát mới ngồi nơi
đạo tràng dưới cây Bồ Đề, đương hàng phục chúng ma, hoặc có cõi Phật mới thành
đạo và mới nói Pháp, hoặc có cõi Phật thành đạo đã lâu, đương còn nói Pháp,
hoặc có thế giới toàn là các bực Bồ Tát, hoặc có thế giới toàn là những hàng
Thinh Văn và Duyên Giác, hoặc có thế giới không có Phật, Bồ Tát, Thinh Văn và
Duyên Giác chi hết, hoặc có thế giới đủ năm món ác trược, hoặc có thế giới đủ
các thứ trang nghiêm, hoặc có thế giới hèn dơ nhớp, hoặc có thế giới tốt đẹp lạ
thường, hoặc có thế giới mà nhơn dân sống lâu vô cùng, hoặc có thế giới mà nhơn
dân thọ mạng ngắn ngủi, hoặc có thế giới thường bị tai nạn thủy hỏa, hoặc có
thế giới hằng bị tai nạn gió bão, hoặc có thế giới gần thành tựu, hoặc có thế
giới đã thành tựu rồi.
Đại thần Bảo Hải thấy vậy, bèn tâu với vua Vô Tránh
Niệm rằng: “Nay Đại vương nhờ sức oai thần của Đức Như Lai mà đặng thấy các thế
giới, vậy Đại vương phát Bồ đề tâm muốn cầu lấy thế giới nào”.
Vua chấp tay mà thưa với Đức Bảo Tạng Như Lai rằng: “Bạch
Đức Thế Tôn! Chẳng biết các vị Bồ Tát tu hạnh gì mà chiếm đặng cõi Phật tốt đẹp
trang nghiêm, tu nghiệp gì mà chiếm đặng thế giới xấu xa ác trược.
Do nghiệp gì mà đặng thọ mạng lâu dài, tạo nghiệp gì
mà thọ số ngắn ngủi? Xin Ngài chỉ dạy cho con biết mà tu học”.
Đức Bảo Tạng Như Lai nói rằng: “Vì bởi các vị Bồ Tát
có sức thệ nguyện, muốn ở cõi thế giới thanh tịnh, không có các điều ác trược,
nên sau khi thành đạo được về ở cõi ấy rất trang nghiêm.
Còn các vị Bồ Tát nào do sức thệ nguyện, muốn ở cõi
thế giới ngũ trược đủ sự phiền não, nên sau khi thành đạo về ở cõi ấy”.
Vua Vô Tránh Niệm lễ Phật rồi lui trở về trong cung,
một mình ngồi im lìm mà suy nghĩ đến sự thệ nguyện của mình, mong cầu cho đặng
cõi cực kỳ tốt đẹp, đặng tiếp dẫn chúng sanh.
Suy nghĩ rồi vua bèn trở lại lễ Phật mà thưa rằng: “Bạch
Đức Thế Tôn! Vì con muốn chứng đạo Bồ đề, nên đem công đức cúng dường Ngài và
đại chúng trong ba tháng mà cầu đặng cõi Phật rất thanh tịnh trang nghiêm.
Bạch đức Thế Tôn!
1. Nay tôi nguyện trong khi tôi thành Phật, làm sao
đặng một thế giới đủ sự vui đẹp, hình dạng nhơn dân trong cõi ấy toàn là sắc
vàng và không có những đường địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh xen ở chung lộn. Hết
thảy chúng sanh nơi cõi ấy chẳng khi nào còn phải thối chuyển mà đọa vào trong
ba đường dữ đó nữa, và người nào cũng đủ sáu phép thần thông và căn thân tốt
đẹp.
2. Tôi nguyện tất cả chúng sanh được về cõi ấy, đều
thành đàn ông tươi tốt vô cùng, không còn thọ báo sắc thân đàn bà và cũng chẳng
cần có danh hiệu của người đàn bà nữa. Hết thảy chúng sanh khi được về đó, thần
thức đầu thai trong bông sen, lúc bông nở ra thì căn thân xinh tốt, thọ mạng
lâu dài, không kể xiết đặng.
3. Tôi nguyện cõi ấy đặng trang nghiêm, cảnh vật thiệt
xinh đẹp, không có mọi sự nhiễm trược, hằng có hoa tốt hương thơm mùi bay các
hướng.
4. Tôi nguyện cho chúng sanh trong cõi ấy, ai nấy cũng
đều đặng ba mươi hai tướng tốt, sáu phép thần thông, trong giây phút dạo khắp
các cõi Phật trong mười phương, đặng cúng dường và nghe Pháp, rồi trở về cũng
chưa trễ buổi ăn.
5. Tôi nguyện nhơn dân trong cõi ấy đều đặng mọi sự
thọ dụng tự nhiên, đúng giờ ăn thì có đủ các món ngon vật lạ hiện ra trước mắt,
còn muốn bận đồ gì thì có áo xiêm tốt đẹp hiện ra bên mình, không cần phải sắm
sửa như trong cõi nhơn gian vậy.
6. Tôi phát nguyện cầu đặng cõi Phật như vậy, đặng từ
rày về sau, đời đời kiếp kiếp, thường tu hạnh Bồ Tát, làm sự hi hữu mà tạo
thành cõi Tịnh Độ, đến thời kỳ chứng đạo thì ngồi dưới cây Bồ Đề mà thành quả
Chánh Giác, phóng hào quang soi các thế giới cho các Đức Phật đều xem thấy,
đặng khen ngợi danh hiệu của tôi.
7. Tôi nguyện khi thành Phật rồi, những loài chúng
sanh ở trong thế giới khác, đã có tu tập thiện căn, hễ nghe danh hiệu tôi mà
muốn sanh về cõi tôi, đến khi lâm chung đặng vãng sanh, chỉ trừ những người
phạm tội ngũ nghịch, tội chê bai các Pháp Đại thừa và phá hư Chánh Pháp mà
thôi.
8. Tôi nguyện khi tôi thành Phật rồi, mà có chúng sanh
ở các thế giới đã phát Bồ Đề tâm, tu Bồ Tát đạo, muốn sanh về cõi tôi, thì đến
khi mạng chung, tôi và đệ tử tôi đều hiện thân đến trước mặt người ấy đặng tiếp
dẫn.
9. Tôi nguyện khi tôi nhập diệt, trải vô số kiếp về
sau những người nữ nhơn ở trong các thế giới nghe danh hiệu tôi mà chăm lòng
vui mến và phát Bồ Đề tâm, cho đến lúc thành Phật, cứ cảm báo đặng làm thân đàn
ông hoài, chớ không khi nào còn mang lấy thân đàn bà nữa.
Bạch Đức Thế Tôn! Con nguyện đặng cõi Phật như vậy,
chúng sanh như vậy, mọi sự thanh tịnh trang nghiêm như vậy, thì con mới chịu
thành Phật”.
Đức Bảo Tạng Như Lai nghe vua Vô Tránh Niệm nguyện mấy
lời ấy rồi khen rằng: “Hay thay! Hay thay! Đại vương phát nguyện sâu lớn, muốn
cõi thanh tịnh. Kìa Đại vương hãy xem qua hướng Tây, cách trăm ngàn muôn ức cõi
Phật có một thế giới gọi là Tôn Thiện Vô Cấu, giáo chủ cõi ấy hiệu là Tôn Âm
Vương Như Lai, hiện nay đương vì các bực Bồ Tát mà giảng dạy Pháp Đại thừa,
giáo hóa các người Thượng căn, chứ không diễn thuyết mấy Pháp quyền tiểu”.
Trong cõi ấy cũng không có chúng sanh căn trí Tiểu
thừa và cũng không có một người nữ nhân. Nhưng y báo (y báo là cảnh vật) và
chánh báo (chánh báo là căn thân) của Phật Tôn Âm Vương Như Lai thiệt thanh
tịnh trang nghiêm, rất xứng hiệp với chỗ cầu nguyện của Đại vương đó! Vì Đại
vương có thệ nguyện muốn cõi thanh tịnh, nên nay Ta đổi hiệu Đại vương là Vô
Lượng Thanh Tịnh.
Khi Vô Lượng Thanh Tịnh mãn một trung kiếp, thì Đức
Phật Tôn Âm Vương Như Lai nhập Niết Bàn, Chánh Pháp truyền bá đặng mười trung
kiếp. Đến khi diệt rồi, trải qua sáu mươi trung kiếp, thì cõi Tôn thiện vô cấu
đổi tên lại là: Di Lâu Quang Minh có Đức Phật, hiệu là Bất Khả Tư Nghị Công Đức
Vương Như Lai, ứng hiện ra đời mà hóa đạo chúng sanh. Sau khi Đức Phật ấy nhập
Niết Bàn rồi, trải vô số hằng sa kiếp và vô lượng Phật diệt độ, thì cõi Di Lâu
Quang Minh đổi tên lại là: An Lạc, đến thời kỳ Vô Lượng Thanh Tịnh chứng quả về
cõi đó mà thành Phật thì hiệu là: A Di Đà Như Lai (dịch là Vô Lượng Thọ), sống
lâu vô cùng, tiếp dẫn vô lượng chúng sanh trong các thế giới về đó, rồi giáo
hóa cho thành Phật đạo tất cả.
Vua Vô Tránh Niệm nghe Phật Bảo Tạng Như Lai thọ ký
như vậy liền thưa rằng: "Bạch Đức thế Tôn! Nếu lòng thệ nguyện của con quả
đặng y như lời thọ ký của Ngài, thì con kỉnh lễ xin nhờ Ngài dùng phép thần
thông làm cho các Đức Phật ở trong hằng sa thế giới cũng thọ ký cho con như
Ngài nữa".
Vua Vô Tránh Niệm thưa rồi, đương cúi đầu thi lễ, tức
thì mười phương thế giới thảy đều vang động.
Vua ở trong pháp Hội nghe Chư Phật đều thọ ký cũng như
lời Đức Phật Bảo Tạng đã nói trên đó, thì rất đổi vui mừng, liền chấp tay đảnh
lễ, rồi ngồi nghe Phật Bảo Tạng thọ ký cho các vị Bồ Tát khác.
Từ đó về sau, vua Vô Tránh Niệm mạng chung thọ sanh ra
các đời khác, kiếp nào cũng giữ lời bổn nguyện, tu hạnh Bồ Tát cứu độ chúng
sanh, trải vô lượng kiếp quả mãn công viên hiện thành Chánh Giác, đến nay đã
mười đại kiếp rồi, Ngài ở cõi Cực Lạc Thế Giới bên Tây Phương, đương giảng dạy
các Pháp Đại Thừa và hằng tiếp dẫn chúng sanh đem về cõi ấy.
5. Tỳ Kheo
Pháp Tạng
Kinh Vô Lượng Thọ chép: thữa
xưa quá a tăng kỳ vô số đại kiếp có Đức Phật ra đời hiệu là Thế Tự Tại Vương
Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.
Lúc bấy giờ có Quốc Vương nghe đức Phật thuyết pháp
lòng rất vui đẹp phát tâm Vô thượng Bồ Đề, từ bỏ ngôi vua xuất gia làm Tỳ Kheo
hiệu là Pháp Tạng.
Tỳ Kheo Pháp Tạng đối trước Đức Phật
Thế Tự Tại Vương Như Lai phát nguyện rộng lớn để trang nghiêm Phật quốc vô
lượng thanh tịnh trang nghiêm.
Thể theo tâm nguyện rộng lớn của Tỳ Kheo Pháp Tạng,
Đức Thế Tự Tại Vương Như Lai nói rõ hai trăm mười ức quốc độ trang nghiêm của
chư Phật, mỗi quốc độ Ngài đều phóng quang hiện rõ.
Nghe và thấy các quốc độ nghiêm tịnh, Tỳ Kheo Pháp
Tạng phát khởi thệ nguyện thù thắng vô thượng. Trọn đủ năm kiếp, Ngài suy xét
nhiếp lấy công hạnh trang nghiêm thanh tịnh nước Phật.
Sau khi nhiếp lấy công hạnh thanh tịnh trang nghiêm
hai trăm mười ức nước Phật xong, Ngài đến trước đức Thế Tự Tại Vương Như Lai và
chúng hội phát 48 lời đại nguyện như sau:
1. Khi tôi thành Phật, nước tôi còn
có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng ở ngôi chánh giác.
2. Khi tôi thành Phật, hàng thiên
nhơn nước tôi sau khi mạng chung còn trở lại ba ác đạo thì tôi chẳng ở ngôi
chánh giác.
3. Khi tôi thành Phật, hàng thiên
nhơn nước tôi chẳng đều thân màu vàng ròng thì tôi chẳng ở ngôi chánh giác.
4. Khi tôi thành Phật, hàng thiên
nhơn nước tôi sắc thân chẳng đồng có kẻ xấu người đẹp thì tôi chẳng ở ngôi
chánh giác.
5. Khi tôi thành Phật, hàng thiên
nhơn nước tôi chẳng biết túc mạng, tối thiểu là biết sự việc trong trăm ngàn ức
na do tha kiếp thì tôi chẳng ở ngôi chánh giác.
6. Khi tôi thành Phật, hàng thiên
nhơn nước tôi chẳng được thiên nhãn, tối thiểu là thấy trăm ngàn ức na do tha
cõi nước chư Phật thì tôi chẳng ở ngôi chánh giác.
7. Khi tôi thành Phật, hàng thiên
nhơn nước tôi chẳng được thiên nhĩ, tối thiểu là nghe lời thuyết pháp của trăm
ngàn ức na do tha chư Phật và chẳng thọ trì hết, thì tôi chẳng ở ngôi chánh
giác.
8. Khi tôi thành Phật, hàng thiên
nhơn nước tôi chẳng được tha tâm trí, tối thiểu là biết tâm niệm của chúng sanh
trong trăm ngàn ức na do tha cõi nước, thì tôi chẳng ở ngôi chánh giác.
9. Khi tôi thành Phật, hàng thiên
nhơn nước tôi chẳng được thần túc, tối thiểu là khoảng một niệm qua đến trăm
ngàn ức na do tha nước Phật thì tôi chẳng ở ngôi chánh giác.
10. Khi tôi thành Phật, hàng thiên
nhơn nước tôi nếu sanh lòng tưởng nghĩ tham chấp thân thể thì tôi chẳng ở ngôi
chánh giác.
11. Khi tôi thành Phật, hàng thiên
nhơn ở nước tôi, chẳng an trụ định tụ quyết đến diệt độ thì tôi chẳng ở ngôi
chánh giác.
12. Khi tôi thành Phật, quang minh có
hạn lượng, tối thiểu chẳng chiếu đến trăm ngàn ức na do tha cõi nước chư Phật
thì tôi chẳng ở ngôi chánh giác.
13. Khi tôi thành Phật, thọ mạng có
hạn lượng, tối thiểu là trăm ngàn ức na do tha kiếp thì tôi chẳng ở ngôi chánh
giác.
14. Khi tôi thành Phật, hàng Thanh
Văn trong nước tôi mà có người tính đếm được, nhẫn đến chúng sanh trong cõi Ðại
Thiên đều thành bực Duyên Giác cùng nhau chung tính đếm suốt trăm nghìn kiếp mà
biết được số lượng ấy thì tôi chẳng ở ngôi chánh giác.
15. Khi tôi thành Phật, hàng thiên
nhơn nước tôi thọ mạng không ai hạn lượng được, trừ họ có bổn nguyện dài ngắn
tự tại. Nếu chẳng như vậy thì tôi chẳng ở ngôi chánh giác.
16. Khi tôi thành Phật, hàng thiên
nhơn nước tôi mà còn nghe danh từ bất thiện thì tôi chẳng ở ngôi chánh giác.
17. Khi tôi thành Phật, mười phương
vô lượng chư Phật chẳng đều ngợi khen xưng tụng danh hiệu của tôi thì tôi chẳng
ở ngôi chánh giác.
18. Khi tôi thành Phật, chúng sanh ở
mười phương chí tâm tin ưa muốn sanh về nước tôi nhẫn đến mười niệm, nếu không
được sanh thì tôi chẳng ở ngôi chánh giác.
19. Khi tôi thành Phật, chúng sanh ở
mười phương phát tâm Bồ đề tâm, tu các công đức chí tâm phát nguyện muốn sanh
về nước tôi. Lúc họ mạng chung, tôi và đại chúng vây quanh hiện ra trước mặt
họ. Nếu không như vậy thì tôi chẳng ở ngôi chánh giác.
20. Khi tôi thành Phật, chúng sanh ở
mười phương nghe danh hiệu của tôi, chuyên nhớ nước tôi, trồng những cội công
đức, chí tâm hồi hướng muốn sanh về nước tôi mà chẳng được toại nguyện thì tôi
chẳng ở ngôi chánh giác.
21. Khi tôi thành Phật, hàng thiên
nhơn nước tôi chẳng đều đầy đủ ba mươi hai tướng đại nhơn thì tôi chẳng ở ngôi
chánh giác.
22. Khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát
ở cõi nước khác sanh về nước tôi rốt ráo tất cả đến bực nhứt sanh bổ xứ. Trừ
người có bổn nguyện tự tại hóa độ, vì chúng sanh mà mặc giáp hoằng thệ chứa
công đức độ tất cả, đi qua các nước Phật tu hạnh Bồ Tát, cúng dường chư Phật
mười phương, khai hóa hằng sa vô lượng chúng sanh khiến họ đứng nơi đạo chánh
chơn vô thượng, vượt hơn công hạnh của hạng tầm thường, hiện tiền tu công đức
Phổ Hiền. Nếu không như vậy thì tôi chẳng ở ngôi chánh giác.
23. Khi tôi thành Phật, Bồ Tát trong
nước tôi thừa thần lực Phật đi cúng dường chư Phật, khoảng bữa ăn nếu không đến
khắp vô số vô lượng ức na do tha cõi nước thì tôi chẳng ở ngôi chánh giác.
24. Khi tôi thành Phật, Bồ Tát trong
nước tôi ở trước chư Phật hiện công đức mình, nếu những thứ dùng để cúng dường
không có đủ theo ý muốn thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
25. Khi tôi thành Phật, Bồ Tát trong
nước tôi chẳng thể diễn nói nhứt thiết trí thì tôi chẳng ở ngôi chánh giác.
26. Khi tôi thành Phật, Bồ Tát trong
nước tôi chẳng được thân Kim Cương Na la diên thì tôi chẳng ở ngôi chánh giác.
27. Khi tôi thành Phật, hàng thiên
nhơn và tất cả vạn vật trong nước tôi trang nghiêm thanh tịnh sáng rỡ hình sắc
đặc biệt lạ lùng vi tột diệu không ai lường biết được, dầu là có thiên nhãn mà
biện biệt được danh số ấy thì tôi chẳng ở ngôi chánh giác.
28. Khi tôi thành Phật, Bồ Tát trong
nước tôi, nhẫn đến người công đức ít nhứt mà chẳng thấy biết đạo tràng thọ màu
sáng vô lượng cao bốn trăm muôn dặm thì tôi chẳng ở ngôi chánh giác.
29. Khi tôi thành Phật, Bồ Tát trong
nước tôi nếu đọc tụng thọ trì diễn thuyết kinh pháp mà chẳng được trí huệ biện
tài thì tôi chẳng ở ngôi chánh giác.
30. Khi tôi thành Phật, trí huệ biện
tài của Bồ tát trong nước tôi mà có hạn lượng thì tôi chẳng ở ngôi chánh giác.
31. Khi tôi thành Phật, nước tôi
thanh tịnh soi thấy tất cả vô lượng vô số bất khả tư nghị thế giới chư Phật
mười phương, như gương sáng soi hiện hình gương mặt, nếu không như vậy thì tôi
chẳng ở ngôi chánh giác.
32. Khi tôi thành Phật, từ mặt đất
lên đến hư không, những cung điện, lâu đài, ao nước, cây hoa, tất cả vạn vật
trong nước tôi đều dùng vô lượng châu báu, trăm ngàn thứ hương hiệp lại làm
thành xinh đẹp kỳ lạ hơn hàng thiên nhơn. Hương ấy xông khắp vô lượng thế giới
mười phương. Bồ Tát nghe mùi hương ấy đều tu hạnh Phật. Nếu không như vậy thì
tôi chẳng ở ngôi chánh giác.
33. Khi tôi thành Phật, những loài
chúng sanh của vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương, được quang minh tôi
chiếu đến thân, thân họ nhu nhuyến hơn hẳn hàng thiên nhơn. Nếu không như vậy
thì tôi chẳng ở ngôi chánh giác.
34. Khi tôi thành Phật, những loài
chúng sanh của vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương nghe danh hiệu tôi mà
chẳng được Bồ Tát vô sanh pháp nhẫn các thâm tổng trì thì tôi chẳng ở ngôi
chánh giác.
35. Khi tôi thành Phật, hàng nữ nhơn
của vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương nghe danh hiệu tôi vui mừng tin
ưa phát tâm Bồ đề nhàm ghét thân người nữ, nếu sau khi chết mà họ còn sanh thân
người nữ lại thì tôi chẳng ở ngôi chánh giác.
36. Khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát
trong vô lượng bất tư nghì thế giới mười phương thế giới nghe danh hiệu tôi sau
khi thọ chung thường tu phạm hạnh đến thành Phật đạo. Nếu không như vậy thì tôi
chẳng ở ngôi chánh giác.
37. Khi tôi thành Phật, hàng thiên
nhơn trong vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương nghe danh hiệu tôi rồi năm
vóc gieo xuống đất cúi đầu vái lạy vui mừng tin ưa tu hạnh Bồ Tát thì được chư
Thiên và người đời đều kính trọng. Nếu không như vậy thì tôi chẳng ở ngôi chánh
giác.
38. Khi tôi thành Phật, hàng thiên
nhơn nước tôi muốn được y phục liền tùy nguyện hiện đến, y phục đẹp đúng pháp
như Phật khen ngợi tự nhiên mặc trên thân. Nếu còn phải may cắt nhuộm giặt thì
tôi chẳng ở ngôi chánh giác.
39. Khi tôi thành Phật, hàng thiên
nhơn nước tôi hưởng thọ khoái lạc chẳng như bực lậu tận Tỳ Kheo thì tôi chẳng ở
ngôi chánh giác.
40. Khi tôi thành Phật, Bồ Tát nước
tôi tùy ý muốn thấy vô lượng nước Phật trang nghiêm thanh tịnh mười phương thì
liền được toại nguyện, đều được soi thấy ở trong những cây báu, như thấy mặt
mình hiện rõ trong gương sáng. Nếu không như vậy thì tôi chẳng ở ngôi chánh
giác.
41. Khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát
ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi, từ đó đến lúc thành Phật nếu các căn
thân còn thiếu xấu chẳng được đầy đủ thì tôi chẳng ở ngôi chánh giác.
42. Khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát
ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi thảy đều chứng được thanh tịnh giải
thoát tam muội, khoảng một lúc phát ý, cúng dường vô lượng bất khả tư nghị chư
Phật Thế Tôn, mà không mất tâm chánh định. Nếu không như vậy thì tôi chẳng ở
ngôi chánh giác.
43. Khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát
ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi, sau lúc thọ chung sanh nhà tôn quý.
Nếu không như vậy thì tôi chẳng ở ngôi chánh giác.
44. Khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát
ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi vui mừng hớn hở tu hạnh Bồ Tát đầy đủ
cội công đức. Nếu không như vậy thì tôi chẳng ở ngôi chánh giác.
45. Khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát
ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi thảy đều chứng được phổ đẳng tam muội,
an trụ trong tam muội nầy đến lúc thành Phật thường thấy vô lượng bất khả tư
nghị tất cả chư Phật. Nếu không như vậy thì tôi chẳng ở ngôi chánh giác.
46. Khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát
ở trong nước tôi tùy chí nguyện của mỗi người muốn được nghe pháp liền tự nhiên
được nghe. Nếu không như vậy thì tôi chẳng ở ngôi chánh giác.
47. Khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát
ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi mà chẳng liền được đến bực bất thối
chuyển thì tôi chẳng ở ngôi chánh giác.
48. Khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát
ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi mà chẳng liền được đệ nhứt nhẫn, đệ
nhị nhẫn và đệ tam pháp nhẫn, nơi các Phật pháp chẳng liền được bực bất thối
chuyển thì tôi chẳng ở ngôi chánh giác.
Tỳ Kheo Pháp Tạng phát nguyện xong, khắp mặt đất liền
chấn động sáu cách. Trời mưa hoa đẹp rải trên mình Ngài. Âm nhạc tự nhiên trên
hư không khen rằng: Quyết định chắc thành Vô thượng Chánh giác.
Kể từ đó, Ngài siêng năng tinh tấn cần
khổ tu tập trãi qua vô lượng kiếp. Đến khi công tròn quả mãi Ngài chứng đạo Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác hiệu là A Di Đà ở cõi Tây Phương Cực Lạc.
THÂN TƯỚNG ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ
Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật diễn tả thân tướng Đức
Phật A Di Đà như sau:
Thân của đức A Di Đà Phật như trăm
ngàn muôn ức lần sắc vàng diêm phù đàn của cõi trời Dạ Ma, cao sáu mươi muôm ức
hằng hà sa do tuần. Lông trắng giữa chân mày uyển chuyển xoáy tròn về phía hữu
như năm trái núi Tu Di, đôi mắt trắng xanh biếc như bốn đại hải, các lỗ chân
lông nơi thân đều phóng ánh hào quang như núi Tu Di. Viên quang của Đức Phật
lớn như trăm ức cõi đại thiên. Trong viên quang có trăm muôn ức na do tha hằng
hà sa vị hóa Phật, mỗi hóa Phật lại có vô số hóa Bồ Tát theo hầu.
Thân mình của đức Phật có tám mươi
bốn ngàn tướng tốt, mỗi tướng có tám muôn bốn nghìn tùy hình hảo, mỗi hình hảo
có tám muôn bốn nghìn tia sáng. Mỗi tia sáng chiếu khắp thập phương thế giới,
nhiếp lấy chúng sinh niệm Phật không bỏ rơi. Sắc đẹp của những tia sáng cùng
với hóa Phật không thể dùng lời tả xiết.
Muốn quán tướng hảo của Phật thì nên
quán tướng lông trắng giữa chân mày trước. Nếu tướng lông trắng hiện rõ thì bao
nhiêu tướng hảo khác tự lần lượt hiển hiện.
KẾT LUẬN
Trong
pháp hội giảng Kinh A Di Đà, chẳng những riêng Đức Phật Bổn Sư ca ngợi, tán
thán Kinh A Di Đà, và công hạnh độ sanh của Đức Phật A Di Đà, mà mười phương
chư Phật cũng đồng tán thán ca ngợi. Sau đây là đọan trích trong Kinh A Di Đà:
“Xá Lợi Phất! Như Ta hôm nay ngợi khen
công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của đức Phật A Di Đà, phương Đông cũng có
Đức A Súc Bệ Phật, Tu Di Tướng Phật, Đại Tu Di Phật, Tu Di Quang Phật, Diệu Âm
Phật; Hằng hà sa số những Đức Phật như thế đều ở tại nước mình, hiện ra tướng
lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng:
"Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức
Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.
Cứ như
vậy, chư Phật phương Nam ,
Tây, Bắc, Thượng và Hạ phương cũng đồng tán thán ca ngợi.
Qua sự
tán thán ca ngợi của Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, và chư Phật mười phương,
chúng ta thấy tầm quan trọng bộ Kinh A Di Đà, và hạnh nguyện độ tha của Đức
Phật A Di Đà. Mà Kinh A Di Đà dạy Pháp môn Tịnh, khuyên người niệm Phật cầu
nguyện vãng sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc. Vậy suy ra, Pháp môn Tịnh độ là
pháp môn rất quan trọng, đặc biệt luôn được chư Phật mười phương quan tâm, ca
ngợi, tán dương, khuyến khích, chỉ dạy chúng sanh tu tập. Pháp môn này là
phương tiện thù thắng độ chúng sanh của chư Phật nên các Ngài luôn bảo vệ, giữ
gìn, hộ niệm.
Nếu ai
tu tập pháp môn này thì cũng được Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, Đức Phật A
Di Đà và chư Phật mười phương bảo vệ, giữ gìn, hộ niệm và tiếp dẫn vãng sanh.
Pháp
môn Tịnh độ là pháp thù thắng, siêu việt, dễ tu, mau chứng, phù hợp với mọi
trình độ căn cơ chúng sanh, là con đường tu tắt, sớm giải thoát, sớm thành Phật
nên mới được chư Phật quan tâm, hộ niệm như vậy.
Theo
giáo lý tiệm tu Đức Phật chỉ dạy; một người từ khi phát tâm tu cho đến ngày
giải thoát thành Phật phải trãi qua ba a tăng kỳ kiếp, a tăng kỳ là số kiếp rất
nhiều không tính được. Người tu Pháp môn Tịnh độ chỉ cần chuyên tâm niệm Phật
thì một đời sẽ được vãng sanh Cực Lạc, được giải thoát, giác ngộ, sớm thành
thành Phật đạo. Vậy nên nói Pháp môn Tịnh độ là pháp thù thắng, con đường tu
tắc.
Thật vậy, chúng ta thấy một người ở thế
gian này, họ là một chúng sanh bình thường, là phàm phu còn đầy dẫy phiền não
nghiệp chướng, tham sân si nặng nề. Họ tu tập Pháp môn Tịnh độ, hàng ngày niệm
Phật A Di Đà cầu nguyện vãng sanh. Sau khi lâm chúng, được vãng sanh về Cực Lạc
liền dự vào hàng Bất thối chuyển, hàng bất thối chuyển là vị Bát Địa trong Thập
Địa Bồ Tát. Ở thế gian này hay thế giới khác, tu lên đến Thập Địa Bồ Tát thì
không biết đến bao nhiên đời bao nhiêu kiếp mới đến dịa vị này. Ngược lại người
niệm Phật tu hành mau chóng, chỉ trong một đời từ phàm phu siêu vược lên các Thánh
vị đến vị Bất thối chuyển. Như có một em học sinh có khả năng đặc biệt, đang
học lớp 1, lớp 2 lại được đưa thẳng vào lớp 12 học để chuẩn bị thi vào đại học.
Pháp môn Tịnh độ cũng thù thắng, siêu việt như vậy.
Chúng ta hôm nay có duyên lành, phước đức
từ nhiều đời nhiều kiếp nên mới gặp được pháp môn này, lại có thiện căn phước
đức hơn nữa là có lòng tin Pháp môn Tịnh độ. Vậy ngay bây giờ, chúng ta hãy
thực hành tu tập pháp môn này, nghĩa là hàng ngày chuyên tâm niệm danh hiệu Đức
Phật A Di Đà, và cầu nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, để sớm được giải
thoát thành Phật.
Nhưng chúng ta lưu ý, muốn tu tập Pháp môn
Tịnh độ được thành công, phải có ba điều kiện quan trọng đó là Tín, Hạnh và
Nguyện. Tín phải tin sâu, Nguyện phải tha thiết, Hạnh phải chuyên cần. Chuyên
cần nghĩa là phải siêng năng tinh tấn niệm Phật, niệm suốt đời, niệm cho đến
khi nào được vãng sanh mới thôi.
Cuộc đời là một biển khổ mênh mông, chúng
ta đang trôi nổi, chìm đắm trong biển khổ này từ vô lượng kiếp đến này, và tiếp
tục chìm đắm trôi nổi đến vô lượng kiếp về sau. May mắn thay, giữa biển khổ
mênh mông chúng ta gặp được cái phao cứu mạng. Cái phao chỉ cho Pháp môn Tịnh
độ, nếu không có Pháp môn Tịnh độ thì làm sao chúng ta thoát khỏi được biển khổ
sanh tử này.
Một lần nữa, kính khuyên chư thiện nam tín
nữ, ai có duyên gặp được Pháp môn Tịnh độ, thì hãy thực hành tu tập, hàng ngày
chuyên tâm niệm Phật, và phát nguyện cầu vãng sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc để
sớm được giải thoát thành Phật. Sau đó chúng ta cùng với chư Bồ Tát, chư Phật
thị hiện phân thân đến khắp mươi phương thế giới giáo hóa cứu độ chúng sanh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét