Đức Phật Thích Ca đã giáng sanh tại thành Ca Tỳ La Vệ, xứ
trung Ấn Độ (trước Tây lịch 563 năm). Thời bấy giờ đã có đến
94 thứ Đạo, thế mà Đức Phật còn ra đời làm gì nữa?
Chẳng qua các Đạo ấy tuy nhiều mà chưa được toàn: CHƠN,
THIỆN, MỸ. Đức Phật mới ứng thân thị hiện để dạy cho chúng
sanh chuyển Mê thành Ngộ, thấy Tánh tỏ Tâm, vượt Sống khỏi
Chết, lìa Khổ được Vui, hầu chứng Đạo quả VÔ THƯỢNG CHÁNH
ĐẲNG CHÁNH GIÁC.
Trước khi Đạo Phật từ Ấn Độ được truyền sang Trung Hoa (đời
Đông Hán Vĩnh Bình năm thứ 10, Tây lịch năm 67), nước này đã
có sẵn Nho giáo và Lão giáo nên các Tổ Trung Hoa dùng phương
tiện châm chước hai Đạo sẵn có trên thành Nghi lễ của Phật
giáo, làm pháp môn hoằng hóa , hướng dẫn những kẻ sơ cơ nhập
Đạo một cách rất đắc lực.
Thời gian sau, Đạo Phật từ Trung Hoa truyền sang và thịnh
hành ở Việt Nam (cuối đời Hán bên Tàu, thuộc thế kỷ thứ I)
đã trên 19 thế kỷ. Phần đông dân số nước ta là tín đồ Phật
giáo (chiếm hết 80 %). Đạo Phật là Đạo chí hiếu, cho nên hầu
hết nhà nào có đốt hương thờ ông bà đều có thể gọi là tín đồ
Phật giáo.
Người ta theo Đạo Phật chính nhờ tổ tiên truyền lại hoặc do
tình cảm với thân quyến và nhất là Đạo Phật đã đi sâu vào
quần chúng để chia xẻ những nỗi buồn vui trong lúc gia đình
họ có người đau hay kẻ chết, hoặc trong những thời thạnh suy
của đất nước. Nhờ vậy mà đa số dân tộc Việt Nam đã phát tâm
quy y, ngưỡng mộ Đạo Phật.
Vậy, Nghi lễ là một pháp môn hoằng Đạo rất đắc lực . Do pháp
môn này nhiên hậu chúng ta lần lượt đưa con người vào chỗ
hiểu đúng giá trị cao siêu và lợi ích rộng lớn của Đạo Phật.
Tài liệu Nghi lễ này ra đời bởi những nguyên do:
_ Quý Thầy trong Ban Thường Vụ Phật học viện Hải Đức đã
nhiều lần yêu cầu tôi soạn Nghi lễ để chỉ bày anh em học
Tăng trong nội bộ.
_ Anh em cũng đã hiểu nhu cầu của đại đa số tín đồ Phật giáo
ở hiện tại cũng như tương lai, phần nhiều chú trọng về Nghi
lễ.
Muốn đáp ứng nhu cầu nói trên, cần phải có một tài liệu Nghi
lễ để học tập.
Riêng tôi tự nghĩ, tài sơ trí kém, chưa đủ khả năng làm việc
này, lại nữa, mỗi địa phương mỗi khác, thay đổi tùy thời
đại.v.v...Cho nên soạn Nghi lễ là một việc khó. Nhưng vì
mang trách nhiệm Trưởng ban Nghi lễ, nếu cứ do dự mãi rồi
suốt đời cũng chẳng làm được việc gì. Tôi biết rằng khó
tránh khỏi sự phê phán: dư, thiếu.v.v...Song vẫn cố gắng thi
thố khả năng, nếu chỗ nào khiếm khuyết, nhờ các bậc tài đức
sửa chửa lại cho.
Nghĩ thế, tôi liền mạnh dạn soạn tập Nghi lễ này để chỉ bày
cho anh em trong nội bộ hàng xuất gia thực tập. Nhưng phải
nhờ sự “truyền khẩu thay vì truyền thơ”, hầu mong đem lại
lợi ích chung, phần nào hay phần nấy.
Xin thưa quý vị hành giả, Nghi lễ là vấn đề không cố định,
nên tuy soạn thế này, nhưng quý vị cũng tùy thời, tùy xứ mà
linh động, phải hợp chiếu các Nghi thức hiện hữu, khéo châm
chước việc hành lễ cho hợp thời nghi, làm sao đầy đủ mà
không kém phần trang nghiêm là được.
Soạn giả cẩn chí.
THÍCH DIỆU TÁNH
Khi nói đến Nghi lễ chúng ta cần
phải hiểu qua ý nghĩa của nó. Hai chữ nghi lễ có nhiều ý nghĩa:
Nghi: Nghi thức, lễ nghi, lễ
phép, khuôn phép, oai nghi.v.v..
Lễ: Lễ giáo, lễ nhạc, (điều
hòa), lễ bái, cúng tế, tôn thờ, cung kính.v.v...
Nói tóm, Nghi lễ là chỉ chung cho
nghi thức tụng niệm hành lễ, sinh hoạt, trong phạm vi tín ngưỡng thờ
phụng của một tôn giáo.
Bất cứ một tôn giáo nào đều phải có
những hình thức nghi lễ để tiêu biểu tinh thần đạo vị của mình. Mặc dầu
trên thể thức và âm điệu của mỗi đạo giáo có phần sai khác nhưng mục
đích vẫn là chí thành cầu nguyện, tán thán công đức vị Giáo chủ mà mình
đã quy ngưỡng tôn thờ.
Đạo Phật không phải là một tôn
giáo chỉ chú trọng về phương diện nghi lễ, nhưng nhờ có sinh hoạt nghi
lễ mà đưa người vào đạo Phật một cách dễ dàng. Ví dụ: cầu an cho người
bệnh hoạn, tai nạn..., cầu siêu bạt độ cho kẻ lâm chung.v.v...Đó là
những phương tiện thực tế để điều hòa lý trí, gieo rắc tình cảm của con
người, an ủi tinh thần cho người còn cũng như kẻ mất.Vì thế, nghi lễ
cũng là vấn đề quan trọng và có nhiều lợi lạc trong đạo Phật.
Vậy kẻ hành giả cần phải học tập và
hiểu rõ ý nghĩa những vấn đề thuộc về nghi lễ trước khi hành lễ.
Mỗi khi hành lễ, muốn được điều hòa
âm thanh nhịp nhàng, trầm bỗng để tăng phần trang nghiêm và linh cảm cần
phải có những pháp khí để làm phương tiện hộ tương trong những khóa lễ
như sau:
Đây là bài kệ: chuông trống bát
nhã (song hành) Bát nhã hội (3lần) Thỉnh Phật thượng đường
(1 lần) Đại chúng đồng văn (1 lần) Bát nhã âm (1 lần)
Phổ nguyện pháp giới (1 lần) Đẳng hửu tình (1 lần) Nhập
Bát Nhã (1 lần) Ba La Mật Môn (5, 10 lần)
Trước hết câu từ 3 hồi chung bản
qua chuông trống, phải đổ một hồi ngắn, kế đánh 3 hồi chính thức dài y
đúng bài kệ trên, sau cùng dứt 4 tiếng.
Lễ thường đánh 3 hồi dài, lễ lớn
đánh 9 hồi dài.
- Tiên khởi tam (trước đánh 3 tiếng)
- Thứ lôi thất (tiếp nhịp 7 tiếng)
- Tịnh đã tam (và đánh 3 tiếng)
- Chung đã thành (giữa đánh 10
tiếng)
- Hậu diệt tứ (sau dứt 4 tiếng)
- Trước đánh 3 tiếng: Ý nói
là chúng sanh đều do 3 nghiệp (thân, khẩu, ý) tạo ác, sau đọa 3 đường
khổ (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh). Cũng có nghĩa trừ tam độc (tham, sân,
si), để chứng tam đức (pháp thân, bát nhã, giải thoát).
- Tiếp nhịp 7 tiếng: Là tiêu
biểu thất chi tội (thân tam: sát, đạo, dâm. Khẩu tứ: vọng ngôn, ỷ ngữ,
lưỡng thiệt, ác khẩu). Để chứng thất giác chi (trạch pháp, tinh tấn, hỷ,
trừ, xả, định, niệm).
- Và đánh 3 tiếng: Nghĩa là
hay tu tam học (giới, định, huệ). Quyết chứng tam thừa (Thanh văn, Duyên
giác, Bồ tát).
- Giữa đánh 10 tiếng: Là để
tiêu trừ 10 điều ác (thất chi tội, cộng thêm ý có 3 thành 10 điều ác),
để chứng 10 thân (bồ đề thân, nguyện thân, hóa thân, lực thân, trang
nghiêm thân, oai thế thân, ý sanh thân, phước thân, pháp thân, trí huệ
thân).
- Sau dứt 4 tiếng: Là tiêu
trừ 4 tướng (sanh, lão bệnh, tử) để chuyển thành tứ trí:
. Hành sở tác trí (tiền
ngũ thức).
. Diệu quang sát trí (đệ
lục ý thức).
. Bình đẳng tánh trí (đệ
thất mạc na thức).
. Đại viên cảnh trí (đệ
bát a lại gia thức).
Tán sám: Là khen ngợi tướng
tốt và thâm ân của Tam Bảo.
Tụng: Đọc tụng kinh, chú của
Phật dạy.
Niệm: Tưởng niệm danh hiệu
và tướng tốt của Đức Phật.
Nếu nói rõ, tụng niệm là mục đích
để làm cho tâm và miệng được hợp nhất vào câu Kinh tiếng Pháp của Phật.
Tụng niệm để giữ 3 nghiệp cho được
thanh tịnh, trang nghiêm và huân tập những điều hay tốt, đồng thời ôn
lại những lời Phật dạy để làm phương châm đời sống hằng ngày và huân tập
giống Bồ đề giải thoát tâm thức cho mình cùng người.
Tụng niệm để làm cho Pháp âm lưu
chuyển trong nhân gian, cảm hòa mọi người cải tà qui chánh và khuyến
khích nhắc nhở mình cùng người trên đường làm lành học Đạo.
Nói tóm, người tu hành luôn luôn
phải tụng niệm để sám hối tội lỗi cầu mong sớm đạt được mục đích giải
thoát và giác ngộ. Lại nữa, tụng niệm để cầu an cho người bệnh hoạn và
cầu siêu cho kẻ lâm chung chóng thoát luân hồi, siêu sanh Tịnh Độ.
Vậy, là Phật tử bất luận tại gia
hay xuất gia, ai ai cũng cần phải học và hiểu ý nghĩa Nghi lễ để tụng
niệm.
Ý nghĩa cầu an: Cầu an là
mục đích sám hối tội lỗi, dứt trừ nghiệp chướng, tránh mọi bệnh hoạn,
tai họa và nghiệp báo, để được thân tâm an lạc, phước huệ trang nghiêm,
đạo tâm kiên cố, bồ đề tăng trưởng.
Nếu nói rõ, cầu an là cầu nguyện
trong những trường hợp tai họa, ốm đau do nguyên nhân tội lỗi gây ra.
Lúc bấy giờ ta vận hết lòng thành, tắm gội thân tâm, tập trung tất cả
điện lực bằng cách tụng kinh, niệm Phật, trì chú, Bái sám hồng danh.v.v...đối
trước Tam Bảo. Chính nhờ sức mạnh của tinh thần cầu nguyện này, mà giao
cảm đến Chư Phật, Bồ tát sẽ phóng quang đến gia hộ cho chúng ta sớm đạt
được như ý và hợp với chánh đạo.
Vì rằng Phật thương chúng sanh như
mẹ thương con, chúng sanh nhớ Phật như con nhớ mẹ, vậy mỗi lúc cầu
nguyện chúng ta cần phải thành khẩn và đầy đủ đức tin, mới có sự cảm ứng
và gia hộ của Chư Phật và Bồ Tát.
Ý nghĩa cầu siêu: Cầu siêu
là mục đích sám hối tội lỗi cho người quá vãng, hầu chuyển nghiệp nhân
xấu của người, khiến họ xa lìa quả báo đau khổ, rời khỏi cảnh giiới tối
tăm đọa đày, cầu cho thần thức người được nhẹ nhàng thảnh thơi, siêu
sanh về nơi thế giới tịnh lạc, chóng thoát luân hồi.
Nếu nói rõ, cầu siêu là cầu nguyện
cho người sau khi lâm chung, thời gian 49 ngày, cứ mỗi thất làm tuần,
hoặc ngày giáp năm hay húy kỵ.v.v..Trong thời gian này, gia quyến cần
đặt vấn đề cầu nguyện và hiếu sự lên trên hết, nên tránh tất cả sự sát
hại sinh linh và bao nhiêu việc làm khác có tính cánh gây tội lỗi, cần
nhất là người cầu nguyện phải trai giới thanh tịnh, vận hết lòng thành
tập trung vào việc tụng Kinh, niệm phật, sám hối để cầu nguyện. Thân
nhân của người quá vãng cần làm thêm những việc từ thiện: Phóng sanh, bố
thí, cúng dường, ấn tống Kinh điển.v.v...
Trong Kinh Phật dạy:
Tụng niệm và làm các việc phước,
đem công đức ấy hồi hướng cho vong linh, cũng như gởi lương hướng cho
người đi xa vậy. Người đã siêu rồi mau được Phật thọ ký; người ở cõi
trên mau lên các địa vị cao hơn, hào quang càng sáng tỏ. Người đang sa
đọa trong 3 đường ác thì cũng nhờ các công đức ấy mà siêu sanh Tịnh Độ
hay thoát khổ lên làm Trời, làm người v.v...
Đó là ý nghĩa cầu siêu và việc cần
làm của người còn đối với kẻ mất vậy.
Những lễ cầu an, cầu siêu hay cúng
ngọ Phật tại chốn Già lam Tịnh xá hoặc tư gia Phật tử, nếu đứng trước
bàn Tam Bảo, trước khi hành lễ phải tán một bài gì có ý nghĩa cúng hương,
cuối bài ấy phải có câu: Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát (3 lần). Rồi
kế đó mới được tán những bài khác, ngoài ý nghĩa nói trên.
Ví dụ tán bài: giới hương,
lư hương hay hương vân hoặc tâm diên và hương tài...(tùy ý chọn một bài).
Trái lại những lễ như: Trị quan,
Trị huyệt hoặc An vị Phật hay Khánh thành...bắt đầu khởi lễ phải tán một
bài gì thuộc về ý nghĩa “Cam lồ sái tịnh” thì được, cuối bài phải có câu:
Nam Mô Cam Lồ Vương Bồ Tát, hay câu: Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ
Tát (3 lần)
Ví dụ tán bài: Tào khê thủy
hay Hải chấn hoặc Dương chi... (tùy ý chọn), kế đó trong buổi lễ mới
được tán bài khác, ngoài ý nghĩa nói trên. Những lễ đứng trước bàn Tam
Bảo như: Cầu an, cúng ngọ, khánh thành, an vị hoặc cầu siêu. Đầu buổi lễ
lúc nào cũng tụng Chú Đại Bi, cuối buỗi lễ phải tụng Bát nhã
và sau phần hồi hướng: Tam tự quy, nguyện dĩ thử...
Lễ an vị Phật tại tư gia, bàn thờ Phật phải đặt
chính giữa nhà, bàn thờ linh phải đặt hai bên hoặc sau lưng Phật, nếu
nhà lầu, thì Phật thờ tầng trên. Trước khi thờ Phật trong nhà phải trang
hoàng sạch sẽ, trưng dụng hương hoa tinh khiết, đèn đài chuông mõ đầy đủ,
Tất cả trong gia đình phải tắm gội thân tâm, trì trai giữ giới và nhất
là phải thỉnh Tăng già chứng minh hành lễ cùng thiện hữu tri thức hộ
niệm, cần phải đơn giản nhưng không kém phần trang nghiêm và thanh tịnh.
PHẦN HÀNH LỄ:
Chủ lễ niệm hương bạch Phật (chấp tay thầm niệm):
Tịnh pháp giới chơn ngôn: Án lam tóa ha (3
lần)
Tịnh tam nghiệp chơn ngôn: Án ta phạ bà phạ,
thuật đà ta phạ bà phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám (3 lần)
Đảnh lễ Phật 1 lạy, tiếp quỳ gối cầm 3 cây hương
đưa lên trán thầm niệm bài:
Thử nhất biện hương, bất tùng
thiên gián, phi thuộc địa sanh, lưỡng nghi vị phán chi tiên, căn nguyên
sung tắc tam giới, nhất khí tài phân chi hậu, chi diệp biến mãn thập
phương, siêu nhật nguyệt chi quang hoa, hàm sơn xuyên chi tú lệ, tức
giới, tức định, tức tuệ, phi mộc, phi hỏa, phi yên, thâu lai tại nhất vi
trần, tán khứ phổ châu sa giới, ngã kim nhiệt hướng kim lô, đoan thân
cúng dường thập phương thường trụ Tam Bảo, sát hải vạn linh, tất trượng
chơn hương, đồng quy chơn tế.
Tư hữu đệ tử..............đồng
gia đẳng, phụng Phật, hiến cúng thỉnh Phật an vị kỳ an tập phước sự. Kim
tắc cung bạch Phật tiền duy nguyện phủ thùy minh chứng.
(Xá 3 xá đứng dậy, đưa hương cắm
lên lư).
Chủ lễ xướng Lễ Phật:
Thế Tôn sắc tướng như kim thân,
Diệc như thiên nhật chiếu thế
gian.
Năng bạt nhất thế chư khổ não;
Ngã kim khê thủ đại pháp vương.
Pháp vương vô thượng tôn
Tam giới vô luân thất.
Thiên nhơn chi đạo sư.
Tứ sanh chi từ phụ.
Đệ tử chúng đẳng..............từ
nhất niệm quy y, năng diệt tam kỳ nghiệp, xưng dương nhược tán thán,ức
kiếp mạc năng tận.
1/ Nhất tâm đảnh lễ:
Nam Mô Tận Hư Không, Biến Pháp
Giới, Vi Trần Sát Độ Trung, Quá Hiện Vị Lai, Chư Phật, Tôn pháp, Hiền
Thánh Tăng, Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo (1 lạy).
2/ Nhất tâm đảnh lễ:
Nam Mô Hiện Tọa Đạo Tràng, Liên
Hoa Đài Thượng, Ta Bà Giáo Chủ Trung Thiên Điều Ngự, Thiên Bách Ức Hóa
Thân Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Nam Mô Long Hoa Giáo chủ Đường Lai Từ
Thị Di Lặc Tôn Phật. Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ
Tát Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát Ma Ha Tát (1 lạy).
3/ Nhất tâm đảnh lễ:
Nam Mô Tây Phương Giáo Chủ Cực
Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật. Nam Mô Đông Phương Giáo Chủ Mãn
Nguyệt Từ Dung, Tịnh Lưu Ly Thế Giới Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Lưu Ly
Quang Vương Phật. Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát. Biến
Pháp Giới Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát Ma Ha Tát (1lạy)
Bắt đầu khởi chuông mõ và tán:
Nói hoặc tán bài: Dương
chi tịnh thủy, Biến sái tam thiên, tánh không bát đức lợi nhơn thiên,
pháp giới quảng tăng nhiên, diệt tội tiêu khiên, hỏa diệm hóa hồng liên.
Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát
(3 lần)
Và tiếp bài:
Hải chấn triều âm thuyết Phổ môn.
Cửu liên hoa Lý hiện đồng chơn.
Dương chi nhất đích chơn cam lồ.
Tán tác sơn hà đại địa xuân.
Nam Mô Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát
(3 lần)
CAM LỒ SÁI TỊNH:
(Bây giờ chủ lễ tay trái
bưng chén nước cam lồ có cành hoa để sẵn trên chén, tay phải dùng ngón
vô danh nhúng vào chén nước quyết ấn cam lồ viết hai chữ Án Lam vào chén
nước búng 3 cái, miệng đọc bài pháp ngữ):
Phù thử thủy giả, bát công đức
thủy tự thiên chơn, tiên tẩy chúng sanh nghiệp cấu trần, biến nhập tỳ lô
hoa tạng giới, cá trung vô xứ bất siêu luân, thủy bất tẩy thủy, diệu cực
pháp thân, trần bất nhiễm trần, phản tác tự kỷ, nguyên trừ nội ngoại,
đản địch đàn tràng, sái khô mộc nhi tác dương xuân, khiết uế ban nhi
thành tịnh độ, sở vị đạo, nội ngoại trung gian vô trược uế, thánh phàm u
hiển tổng thanh lương.
Kế tiếp nhịp tang mõ đều đều,
chủ lễ thán bài:
Bồ tát liễu đầu cam lồ thủy.
Năng linh nhất đích biến thập
phương,
Tinh chuyên cấu uế tận quyên trừ.
Phổ sái pháp diên tất thanh tịnh.
(Giáo hữu Đại bi chơn ngôn cẩn
đương trì tụng)
(Miệng vừa thán bài trên, tay cầm
cành hoa sẵn có trong chén cam lồ, đưa lên giữa không trước Phật đài
viết hai chữ Án Lam, 3 phen viết 3 phen rẩy. Khi thán hết 4 câu trên,
tiếp đọc)
Giáo hữu Đại bi chơn ngôn cẩn đương
trì tụng:
(Đồng thanh tụng Chú Đại Bi
(1 biến) trong lúc chúng tụng chú, thì chủ lễ cầm hoa trên chén nước
viết vá sái cam lồ tịnh thủy khắp 6 phương).
Nam Mô Cam Lồ Vương Bồ Tát (3
lần)
1/ Chúng hòa: Hương hoa
thỉnh, hương hoa thỉnh
Chủ lễ thỉnh: Nam mô nhất
tâm phụng thỉnh, thiên hoa đài thượng, bách bảo quang trung, tam thập
nhị tướng chi năng nhơn, bát thập chưởng hảo chi đại giác quá hiện vị
lai vô lượng Phật đà gia. Duy nguyện: thiên thùy bảo cái, địa dõng kim
liên, quang gián đạo tràng chứng minh công đức.
2/ Chúng hòa: Hương hoa
thỉnh, hương hoa thỉnh.
Chủ lễ thỉnh: Nam mô nhất
tâm phụng thỉnh, tây thiên trúc quốc, bạch mã đà lai, tu đà la liễu
nghĩa thượng thừa, thập nhị bộ chơn Kinh bí điển, quá hiện vị lai vô
lượng đạt ma gia. Duy ngưyện: Tường quang vạn đạo, thoại khí thiên diệu,
quang gián đạo tràng chứng minh công đức.
3/Chúng hòa: Hương hoa thỉnh,
hương hoa thỉnh.
Chủ lễ thỉnh:
Nam mô nhất tâm phụng thỉnh, tam minh (1), bát giải (2), ngũ quả (3),
lục thông (4), phân thân ư thử độ tha phương, thuyết pháp ư nhơn gian
thiên thượng quá hiện vị lai vô lượng tăng già gia. Duy ngưyện: Trần
gian nguyệt ấn, không cốc truyền thanh, quang gián đạo tràng chứng minh
công đức.(trên đây là thỉnh Tam Bảo, còn tùy thờ tượng Đức Phật nào
mà thỉnh).
Đồng thanh: Nam Mô Đăng
Bảo Tọa Bồ Tát (3 lần)
( Chủ lễ tiếp lạy tam bái và quỳ
gối xướng sớ, nếu có)
Tánh hải bích ba trần trạm trạm.
Giác viên tâm ấn thể như như.
Đại thừa Bồ Tát khai phương tiện.
Nhất điểm linh quang chiếu thái
hư.
Thế tôn, đức tướng nan tận tán
dương, kim thời đệ tử....chúng đẳng, thỉnh Phật an vị kỳ an tập phước sự,
cụ hữu sớ chương, cung bạch Phật tiền, duy nguyện từ bi phủ thùy minh
chứng. (đọc sớ)
Đồng thanh:
Thiên thượng thiên hạ vô như
Phật.
Thập phương thế giới diệt vô tỷ.
Thế gian sở hữu ngã tận kiến,
Nhất thế vô hữu như Phật giả.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Phật (3 lần)
Đồng niệm Hồng danh các Đức Phật và
Bồ Tát, tùy tượng thờ Phật nào mà niệm (niệm nhiều niệm ít tùy ý)
Đồng tụng: Nguyện trú cát
tường dạ cát tường.v.v..
Tiếp tụng bài: Đệ tử
chúng đẳng...hoặc bài: Đệ tử kính lạy.v.v...
Bát nhã (1 biến). tiêu
tai (3 biến).
Tán: Bồ đề diệu pháp....hay:
Quan Âm linh cảm phó đạo tràng....
Tam tự quy. Nguyện tiêu.
Nguyện dĩ thử công đức.
LỄ TẤT
1/ Tam minh: Thiên nhãn, túc
mạng, và lậu tận minh
2/ Bát giải: 1. Nội
hữu sắc quán ngoại giải thoát
2. Nội vô sắc quán ngoại giải thoát
3. Tác chứng cụ túc tịnh giải thoát
4. Không vô biên xứ giải thoát
5. Thất vô biên xứ giải thoát
6. Vô sở hữu xứ giải thoát
7. Phi tưởng, phi phi tưởng xứ giải thoát
8. Diệt thọ tưởng định, thân tác tụ túc giải thoát.
3/ Ngũ quả: Tức là tứ quả
Thanh Văn, cộng thêm một quả vị Bích Chi Phật thành Ngũ quả.
4/ Lục thông: Thiên nhãn,
thiên nhĩ, tha tâm, thần túc, túc mạng và lậu tận thông.
Lễ yễm tâm này chỉ áp dụng cho
trường hợp thờ Phật bằng đồng, gỗ hoặc đất, nếu có để chỗ yễm tâm. Trước
khi hành lễ nên sắm chỉ ngũ sắc, vật bảy báu nước đại dương, nếu có.
Nhớ viết sẵn bài chú Đại bi và bài
Bát nhã, đến khi hành lễ, lúc tụng đại bi, tiếp tụng Bát nhã, vừa tụng
vừa để kinh chú và vật báu vào trong lòng tượng Phật. Phần hành lễ, từ
đầu đến cuối lễ, đều y như nghi an vị trước, chỉ thay đổi trong khi niệm
hương lời bạch Phật:
Phụng Phật tu hương hiến cúng yễm
tâm Phật tượng, ký an tăng phước huệ sự, đến phần thỉnh Tam Bảo nên sơ
lược thôi.
Chủ lễ niệm hương bạch Phật:
(đứng chắp tay thầm niệm)
- Tịnh pháp giới chơn ngôn: Án
lam tóa ha
- Tịnh tam nghiệp chơn ngôn: Án
ta phạ bà phạ, thuật đà ta phạ bà phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ
hám (3 lần)
(Đảnh lễ Phật 1 lạy, tiếp quỳ gối
cầm 3 cây hương đưa lên trán đọc):
Nam Mô Thập Phương Thường Trú
Tam Bảo tác đại chứng minh.
Nguyện thử diệu hương vân,
Biến mãn thập phương giới.
Cúng dường nhất thiết Phật,
Tôn pháp chư Bồ tát.
Vô biên Thanh văn chúng,
Cập nhất thiết Thánh Hiền
Duyên khởi quang minh đài,
Xứng tánh tác Phật sự.
Phổ huân chư chúng sanh,
Giải phát Bồ Đề tâm
Viễn ly chư vọng nghiệp,
Viên thành vô thượng đạo
Tư thời đệ tử.........đồng gia
đẳng, phụng Phật tu hương phúng kinh (sám hối hay đảo bệnh hoặc bạt
nghiệp) kỳ an nghinh tường tập phước sự. Kim tắc, cung bạch tam bảo đài
tiền, duy nguyện phủ thùy minh chứng.
(Xá 3 xá đứng dậy đưa hương cắm lên
lư)
Xướng đảnh lễ:
Năng lễ sở lễ, tánh không tịch.
Cảm ứng đạo giao nan tư nghì
Ngã thử đạo tràng như đế châu
Thập phương Chư Phật ảnh hiện
trung
Ngã thân ảnh hiện Chư Phật tiền.
Đầu diện tiếp túc quy mạng lễ.
1/- Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Tận
Hư Không, Biến Pháp Giới, Quá Hiện Vị Lai, Chư Phật, Tôn pháp, Hiền
Thánh Tăng, Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo (1 lạy).
2/- Nhất tâm đảnh lễ:
Nam Mô Hiện Tọa Đạo Tràng, Liên
Hoa Đài Thượng, Ta Bà Giáo Chủ Trung Thiên Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu
Ni Phật
Nam Mô Đông Phương Giáo Chủ Mãn
Nguyệt Từ Dung, Tịnh Lưu Ly Thế Giới Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Lưu Ly
Quang Vương Phật.
Nam Mô Ngũ Đài Sơn Đại Trí Văn
Thù Sư Lợi Bồ Tát
Nam Mô Nga Mi Sơn Đại Hạnh Phổ
Hiền Vương Bồ Tát
Nam Mô Phổ Đà Sơn Đại Bi Quan
Thế Âm Bố Tát
Nam Mô Linh Sơn Hội Thượng Phật
Bồ Tát Ma Ha Tát (1 lạy)
3/ Nhất tâm đảnh lễ:
Nam Mô Tây Phương Giáo Chủ Cực
Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Pháp Giới Tàng Thân A Di Đà Phật.
Nam Mô Vị Đăng Bổ Xứ, Hiện Trú
Đâu Suất Thiên Cung, Phật Kế Thích Tôn, Đương Sanh Diêm Phù Thế Giới
Long Hoa Giáo chủ Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật.
Nam Mô Đại Hùng Đại Lực Đắc Đại
Thế Chí Bồ Tát
Nam Mô Thất Câu Chi Phật Mẫu Đại
Chuẩn Đề Vương Bồ Tát
Nam Mô Hư Không Tạng Bồ Tát, Đại
Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát Ma Ha Tát (1 lạy)
( Bắt đầu khởi chuông mõ, cử tán
hay tụng đều do chủ lễ, toàn chúng chỉ được phép hòa mà thôi)
Cử tán: Hương vân nhi bố,
thánh đức chiêu chương, bồ đề tâm quảng mạc năng lường, xúc xứ phóng hào
quang vi thoại vi tường, ngưỡng khởi pháp trung vương,
Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát (3
lần)
Tụng: Chú Đại Bi (1
biến)
Tán: Trí huệ hoằng
thâm đại biện tài.
Đoan cư ba thượng
tuyệt trần ai.
Tường
quang thước phá thiên sanh bịnh.
Cam lồ
năng trừ vạn kiếp tai.
Túy liễu phất khai
kim thế giới.
Hồng liên dõng xuất
ngọc lâu đài.
Ngã kim khê thử phần
hương tán.
Nguyện hướng nhơn
gian ứng hiện lai.
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát
(3 lần)
Nam Mô Thập Phương Thường Trụ
Tam Bảo (3 lần)
CHỦ LỄ LẠY PHẬT VÀ QUỲ XUỐNG SỚ:
(nếu có)
Huỳnh kim mãn nguyệt tướng ,
Tam giới độc xưng tôn .Hàng phục nhất thế ma , Chư thiên giai củng thủ .Như
lai ,đức tướng nan tận tán dương , kim hữu đệ tử ......phụng Phật tu
hương phúng kinh (sám hối hay đảo bệnh hoặc bạt nghiệp) kỳ an tập phước
sự. Kim tắc, cẩn cụ sớ văn, cung bạch Phật tiền, duy nguyện hào tướng
quang trung phủ thùy minh chứng.
(Nếu không sớ thì đổi lời bạch từ
chữ): Kim tắc, cung bạch Phật tiền, duy nguyện từ bi gia hộ đệ tử..........chúng
đẳng, nghuyệp chướng tiêu trừ, thân tâm an lạc.
Thật lại Phật ân, chứng minh cẩn
bạch.
Tụng:
Nguyện trú cát tường dạ cát
tường.
Trú dạ lục thời hằng cát tường.
Nhất thế thời trung cát tường
giả.
Duy nguyện từ bi thùy gia hộ.(3
biến)
Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang
Vương Phật (54 – 108 biến)
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát
(3 lần)
Nam Mô Chuẩn Đề Vương Bồ Tát
(10 biến)
Nam Mô Hư Không Tạng Bồ Tát
(10 biến)
Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ
Tát (10 biến)
Và tụng:
Chuẩn đề công đức tụ.
Tịnh tịch tâm thường tụng.
Nhất thiết chư đại nạn.
Vô năng xâm thị nhơn.
Thiên thượng cập nhơn gian.
Hưởng phước như Phật đẳng.
Ngô thử như ý châu.
Định họach vô đẳng đẳng.
Nam Mô Thất Câu Chi Phật Mẫu Đại
Chuẩn Đề Vương Bồ Tát.
Bộ lam, án lam án xỉ lam, án ma
ni bát nạp minh hồng. án chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha
(108 biến)
Tiếp theo:
Ngã kim trì tụng đại chuẩn đề.
Tất phát bồ đề quảng đại nguyện.
Nguyện ngã công đức giai thành
tựu.
Nguyện ngã thắng phước biến
trang nghiêm.
Nguyện cộng chúng sanh thành
Phật đạo.
Ngã tích sợ tạo chứ vọng nghiệp.
Giai do vô thỉ tham sân si.
Tùng thân ngữ ý chi sở sanh.
Nhất thế ngã kim giai sám hối.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát Ma Ha
Tát (3lần)
Kế tụng Thập chú: Từ bài:
Như ý bảo luân vương đà la ni cho đến hết bài Bát nhã tâm kinh
(đốt sớ)
Hồi hướng bài: Đệ tử chúng đẳng
hay Thiên A To La Dược xoa đẳng, hoặc: Đệ tử kính lạy......(tùy
ý)
Tán: Quan Âm linh cảm phú
đạo tràng , trừ tam tai miễn bát nạn, hộ quốc nhơn dân gián cát tường (trung
vĩ) Tam tự quy, Nguyện tiêu, Nguyện dĩ thử công đức....
Tất cả nghi tiết: niệm hương bạch
Phật, đảnh lễ, tán tụng cho đến phần xướng sớ đều tương tợ nghi kỳ an
thường ở trước, chỉ khác, sau khi đọc sớ nếu có xong, kế tiếp tụng kinh
bộ tùy sự phát nguyện tụng kinh gì đều nên ngồi và theo nghi này:
Bắt đầu vào kinh:
Tụng:
Tịnh khẩu nghiệp
chơn ngôn: Tu ly, tu ly, ma ha tu ly, tu tu ly tác bà ha
(3 biến)
Tịnh tam nghiệp
chơn ngôn: Án ta phạ bà phạ, thuật đà ta phạ đạt mạ ta phạ bà phạ
thuật độ hám (3 biến)
Án thổ địa chơn
ngôn: Nam mô tam mãn đà mẫu đà nẩm án độ rô độ rô địa vĩ tác bà ha
(3 biến)
Hư không tạng bồ
tát, phổ cung dường chơn ngôn: Án nga nga nẳng tam bà phạ
phiệt nhật ra hộc (3 biến)
Khể thủ tam giới
tôn
Qui mạng thập
phương Phật
Ngã kim phát
hoằng nguyện
Trì
tụng....................kinh.
Thượng báo tứ
trọng ân
Hạ tế tam đồ khổ
Nhược hữu kiến
văn giả
Tất phát bồ đề
tâm
Tận thử nhất báo
thân
Đồng sanh cực
lạc quốc
Nam Mô bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Phật (3lần)
Khai kinh kệ:
Vô thượng thậm
thâm vi diệu pháp
Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
Nguyện giải Như Lai chơn thiệt
nghĩa
(Bây giờ, phát nguyện tụng kinh gì
thì tiếp tục tụng kế vào luôn, sau khi tụng xong , phải tụng Bát Nhã,
niệm Phật và những bài hồi hướng nào có ý nghĩa sám hối kỳ
an, và chú tiêu tai, tam tự quy, nguyện tiêu, nguyện dĩ thử....)
Đến phần hồi hướng tùy sự linh động
của chủ lễ.
Hộ niệm khi sắp lâm chung
Nhà có thờ Phật nếu không có phải
tạm thiết, lúc thân nhân lâm bệnh hoặc già yếu, sau khi tụng kinh bái
sám, mà bệnh nhân quá yếu sắp lâm chung, nên tụng kinh Di Đà và
niệm Phật. Đến khi sắp tắt thở, ta chỉ nên đồng thanh chí thành
niệm: Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật cho đến khi tắt thở,
tiếp niệm : Nguyện sanh Tây Phương Tịnh Độ trung........(nghỉ)
Nên lưu ý: Nếu đàn bà lâm
chung, ta hãy đứng phía trên đầu, đàn ông thì đứng phía dưới chân để hộ
niệm. Bảo gia quyến không được khóc, nên đồng thanh niệm Phật tiếp dẫn
là tốt hơn hết. Ít nhất từ khi tắt thở cho đến giờ nhập liệm, phải cách
4 tiếng đồng hồ mới đụng vào thi thể.
Sau khi chọn ngày giờ tẩn liệm,
vong gia tắm rửa xong, thay đồ mới, nhớ để cái phái quy y đã ép cháy,
lên ngực và đắp mền Quang Minh lên thi hài (nếu có), sửa soạn đất cát
trang bị quan tài và đồ liệm xong Chư Tăng mặc áo lễ chỉnh tề, đứng tôn
nghiêm phía trên đầu quan tài, xông một lò trầm để vào quan tài, bắt đầu
lễ trị quan.
TRỊ QUAN
Chủ lễ tán hay pháp ngữ bài:
Dương chi tịnh thủy....
Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát (3
lần)
Tụng chú: Đại Bi và Thập
chú, 10 bài chú xem y trong khóa tụng sáng, sau cuối bài
Bát Nhã, tiếp tụng:
Nguyện chú cát tường dạ cát
tường...v.v...
Vạn loại hữu tình đăng thập địa.
Nam Mô Siêu Thập Địa Bồ Tát Ma
Ha Tát (3 lần)
NHẬP LIỆM
Bây giờ bảo người hộ liệm võng thi
hài vào quan tài. Chủ lễ đứng giữa đầu quan tài, nói bài pháp ngữ:
Hữu sanh hữu tử hữu luân hồi.
Vô sanh vô tử vô khứ lai.
Sanh tử khứ lai đô thị mộng
Tốc phao trần thế thượng liên
đài.
Ngưỡng bạch Di Đà từ tôn tiếp độ
hương hồn:
Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà
Phật (niệm luôn đến khi liệm gần xong, tiếp niệm):
Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát, Thế
Chí, Địa Tạng, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát (mỗi vị đều 3 biến).
(Nếu có liệm mền Quang Minh thì
tụng 2 bài mật chú):
1/ Tỳ Lô Quán Đảnh Chơn Ngôn
(từ 21, 108 biến)
2/ Đại Bảo Quán Bát Lâu Cát Hiện
Trụ Bí Mật Đà La Ni (21 biến)
Nguyện sanh Tây phương...........
Nguyện dĩ thử công đức............
-Lễ tất-
Thần chú này Đức Phật dạy rõ trong
kinh:“Bất không quyền tác tỳ lô giá na Phật đại quán đảnh quang minh
chơn ngôn”. Thần chú là thuộc về mật giáo, nên Đức Phật dạy gia trì
nguyện lực tụng chú này có rất nhiều công năng lợi ích, để cứu bạt cho
người khi lâm chung vậy. Vì rằng, tất cả chúng ta từ vô thỉ kiếp đến nay
đã gây vô lượng tội lỗi nghiệp chướng, khi lâm chung nghiệp báo ấy hiển
hiện như bóng theo hình, hành hạ thân xác người sắp chết, và chết rồi
phải đọa vào 3 đường ác. Trong kinh Phật dạy nên lấy chơn ngôn này mà
gia trì vào đất hoặc cát cho đựoc 108 biến, rồi rãi trên hài cốt của
vong giả hoặc nơi rừng chôn tử thi.
Nhờ oai lực của thần chú này và sức
gia trì chú nguyện vào đất cát kia mà cảm được hào quang của Chư Phật
chiếu đến nơi thân vong giả, vong giả liền xả trừ được các nghiệp báo
khổ não, sanh về Tây phương Cực Lạc thế giới. Trong kinh này cũng có dạy
nên lấy lụa, vải viết bài chơn ngôn này đắp lên thi hài hoặc xương cốt
của vong giả, vong giả hưởng được nhiều lợi ích, lìa khổ được vui.
Sau đây là 2 bài nguyên văn chữ
Phạn, nay phiên âm Hán văn ra quốc văn để cho dễ đọc tụng:
Bài đầu nguyên văn có mấy chữ
đọc là:
Tỳ lô quán đản chơn ngôn: Án a
mộ già vi lô tả nặng, ma ha mẩu nại ra, ma nị bát nạp mạ, nhập phạ lã,
bát ra mạ đá dạ hồng (108 biến)
Bài thứ 2 có nhiều chữ đọc là:
Đại bảo quản bát, lâu cát thiện
chủ bí mật đà la ni:
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt
đá nẩm án vỉ bổ lã, nghiệt bệ mạ nỉ, tô bát ra bệ vỉ mạ lê, bà nghiệt ra
tỉ lệ, hồng hồng nhập phạ lã, nhập phạ lã, một đà vỉ lô chỉ đế, hồng hê
dạ địa sắc sí, đa nghiệt bệ ta bà ha (21, 108 biến).
Hai bài thần chú này công năng xa
rộng, ý nghĩa rất sâu sắc, không thể nào kể hết được. Nay đây chỉ sơ
lược về phần chính yếu để phổ biến ý nghĩa và hiệu lực của nó trong khi
dùng mền Quang Minh.
BÀI KỆ:
- Chơn ngôn phạm tự xúc thi cốt,
- Vong giả tức sanh tịnh độ
trung
- Kiến Phật văn pháp thân thọ ký,
- Tốc chứng vô thượng đại Bồ Đề
Nghi này sau khi nhập liệm xong,
Chư Tăng nghỉ một chút, đợi thiết bàn thờ Phật và linh sàn (tiền Phật
hậu linh). Nên thờ tượng Đức Phật Di Đà, hoặc Quan Âm hay Địa Tạng, còn
bàn linh thì thiết bài vị cố phụ hay cố mẫu...hình ảnh và lễ phẩm. v.v...Thiết
xong tang gia tề tựu trước linh cữu, lễ phục hồn bắt đầu:
PHẦN HÀNH LỄ:
Chủ lễ xướng: Hiếu quyết
tự lập bình thân quỳ, phần hương, thượng hương (hoặc xướng tựu vị)
Tả chức: Lễ nhị bái. Hữu
chức: Bình thân quỳ.
Chủ lễ cử tán: Kim nhật
(dạ) đạo tràng pháp diên khai, hội diên lai, triệu thỉnh hương hồn
lai phú hội.
Hương hồn (a) bất muội, bất muội
diêu văn tri. Hương hồn (a) bất muội, bất muội thỉnh lai lâm.
Tả chức: Chuyên thân triệu
thỉnh, cung vọng lai lâm, thử nhật (dạ) kim thời, thuyền tăng (sám chủ)
thượng hương cẩn đương triệu thỉnh.
1/ Đồng thanh: Hương vân
thỉnh, hương vân thỉnh
Chủ lễ cầm hương: Nam mô
nhất tâm phụng thỉnh, thế tôn tam giới chủ, đại hiếu Thích Ca văn, trần
sát báo thân ân, tích nhơn thành chánh giác, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
nguyện thùy từ lực, ứng tiếp quần cơ, kim vị tang chủ................linh
tiền phủ thủ. Thống vị cố phụ (hay cố mẫu hoặc thế tử, lương phu, hiền
thê.....) chi linh cửu.
Tả chức: Duy nguyện, hồn
như tại nhựt, phách nhược sanh thời, văn triệu thỉnh dĩ lai lâm, ứng
linh thanh nhi phú hội, văn kim sơ thỉnh, thỉnh đáo linh sàn, thính diệu
pháp âm, y vị thỉnh tọa.
2/ Đồng thanh: Hương vân
thỉnh, hương vân thỉnh
Chủ lễ thỉnh: Nam mô nhất
tâm phụng thỉnh, lạc bang giáo chủ, y chánh trang nghiêm, tứ thập bát
nguyện độ chúng sanh, cữu phẩm liên đài mông thát hóa, tiếp dẫn đạo sư A
Di Đà Phật, nguyện thùy từ lực, tiếp độ........chi linh cữu.
Tả chức: Duy nguyện, chơn
linh bất muội, giác tánh thường minh, văn ngọc kệ dĩ ưu du, thính kim
kinh nhi giải thoát. Văn kim tái thỉnh, nguyện phú linh diên, thính pháp
văn kinh, tiềm hình pháp vị.
3/ Đồng thanh: Hương vân
thỉnh, hương vân thỉnh
Chủ lễ thỉnh: Nam mô nhất
tâm phụng thỉnh, thủ kình phan cái, thân quải hoa mang, đạo chúng sanh
qui cực lạc chi ban, tiếp hương hồn phú đạo tràng chi hội, đại bi Quán
Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, đại nguyện Địa Tang Vương Bồ Tát, bất
vi bổn thể, lân mẫn hữu tình, tiếp độ Phật tử.........chi linh cữu.
Tả chức: Duy nguyện, thần
đăng an dưỡng, tạ nghiệp trần lao, liễu xanh tử chi mê đồ, chứng niết
bàn chi diệu cảnh. Văn kim tam thỉnh, nguyện phú linh diên, thừa tư pháp
vị.
Đồng thanh:
Tam thỉnh hương hồn dĩ lai lâm,
thọ thử hương hoa phổ cúng dường, y nhiên thỉnh tọa thỉnh kinh văn, diễn
kinh văn bồ tát ma ha tát (1lần).
Tả chức: Điểm trà. Hữu
chức: lễ nhị bái.
Chủ lễ thán:
Sơn trung tự hữu thiên niên thọ,
Thế thượng nan lưu bách tuế nhơn.
(Bây giờ đến đây có thể tùy thời xứ,
làm lễ thành phục chung với lễ này, phần hành lễ thành phục xem nghi sau,
nếu không cũng tiếp tục):
Biến thực, biến thủy, phổ cúng
dường chơn ngôn:
Nam mô tát phạ...(3 biến).
Nam mô tô rô....(3 biến)
Án nga nga nẵng....(3 biến)
Cử tán:
Gia trì chú thực diệu dà đà,
Biến thiểu thành đa giai bảo mãn.
Nam mô mỹ hương trai bồ tát
(3 lần)
Tả chức: Hiến trà. Hữu
chức: lễ nhị bái.
Chủ lễ: Gia trì lực Bồ
Tát ma ha tát (3 biến)
Đồng tụng: Thập phương
hay nhứt tâm (tùy ý).
Chủ lễ: Phục vị. Lễ nhị bái.
Đồng thanh:
Nam kha nhứt mộng
đoạn,
Tây vực cữu liên khai.
Phiên thân quy tịnh
độ,
Hiệp chưỡng lễ Như
Lai
Pháp ngữ:
Nhứt cú Di Đà vô biệt
niệm
Bất lao đòn chỉ đáo
Tây phương.
Đồng niệm: Nam
Mô A Di Đà Phật (1 lần)
Lễ này, nếu đúng ra thì
từ khi chết cho đến ngày thứ tư mới thọ phục, nhưng bây giờ có thể châm
chế, nghĩa là sau khi liệm và phục hồn xong, gia quyến sắm đồ tang phục
đầy đủ và định ngày giờ thuận tiện, tất cả tề tụu trước linh sàn để thọ
phục.
PHẦN HÀNH LỄ:
Chủ lễ: Tự lập
phần hương.
Tả chức: Bình
thân quỳ (chủ tang niệm hương).
Chủ lễ thán:
Bành tổ cao niên (800
tuổi) kim hà tại,
Nhan hồi thọ yểu (33
tuổi ) diệc quy không.
Kham thán lão thiểu
bất đồng đồ,
Sanh tử đáo đầu quy
nhất lộ.
Hữu chức: Thượng
hương, lễ nhị bái, bình thân quỳ (đọc 4 câu trên xong, bảo tang chủ cắm
hương lên lư).
Chủ lễ xướng:
Âm dương vô nhị lý, sanh tử hữu thù đồ. Phát phục thiếp nhất thông, đối
linh tiền minh thị (nếu có).
Xướng thọ phục:
Ngũ phục chi nhơn, cát phục kỳ phục
(Bây giờ tang gia mặc
tang phục thọ lễ trước linh sàn)
Chủ lễ pháp ngữ:
Hải đức thâm nan báo,
Sơn công đại mạc thù.
Linh tiền phi tố phục,
Ức niệm kỷ thời hưu.
Cù lao đức trọng, cúc
dục ân thâm,
Thập nguyệt hoài thai
, tam niên nhủ bố.
Thử ân thử đức, phấn
cốt nan thù.
Liên đới bạch dĩ biểu
châu lý,
Tự lưu hồng nhi thành
huyết lệ.
Linh tiền phủ thủ, ô
hô ai tai.
Tả chức: Điểm trà,
gia trì lực bồ tát ma ha tát.
Đồng niệm: A
Di Đà Phật và Tứ Thánh (tùy ý)
Hữu chức: Thượng
lai văn điệp , độc tại linh tiền, dĩ cựu phu tuyến, trượng bằng phần hóa.
Đồng thanh: Ma
ha bát nhã (1biến), Vãng sanh (3)
Sám: Mạt đạo
tây phương viển, tây phương tại mục tiền.Thủy lưu ly quy đại hải, nguyệt
lạc bất ly tiên,
Tả chức:Phục vị.
Hữu chức: Lễ nhị bái.
Chủ lễ pháp ngữ:
Kiến văn như huyển
ế,
Tam giới nhược
không hoa.
Văn phục ế căn trừ,
Trần tiêu giác
viên tịnh.
Đồng thanh:
Nam Mô A Di Đà Phật
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét