QUÊ HƯƠNG CỰC LẠC
HÒA
THƯỢNG TUYÊN HÓA
Thích Thuận Nghi dịch
Nhà xuất bản Phương Đông
PL:
2551 - DL: 2007
Mục lục
Lúc
bình thường tại sao cần phải niệm Phật? Vì bình thường niệm Phật là để chuẩn bị
cho khi lâm chung. Tại sao không đợi đến lâm chung mới niệm Phật? Vì hằng ngày
niệm Phật chính là để huân tập hạt giống Phật vào trong tâm của bạn. Nếu bạn
niệm mãi thì trải qua thời gian, hạt giống đó lớn dần lên trong mảnh đất tâm
của bạn và đưa bạn đến kết quả giải thoát giác ngộ. Nếu bình thường bạn không
niệm Phật thì bạn không biết gieo hạt giống Phật vào mảnh đất tâm của mình. Khi
lâm chung, thần trí rối loạn thì làm sao nghĩ đến Phật mà niệm được chứ. Tại
sao vậy? Vì hiện tại không thường xuyên niệm Phật. Do đó, hằng ngày cần phải
niệm Phật, lạy Phật, tu pháp môn Tịnh độ. Được như thế thì hiện tại được bình
an, khi lâm chung không bị hôn mê tán loạn lại được tự tại vãng sanh về thế
giới Tây phương Cực lạc.
Tại
sao phải vãng sanh về thế giới Tây phương Cực lạc? Bởi vì đức Phật A Di Đà khi
chưa thành Phật tên là Tỳ kheo Pháp Tạng đã phát ra 48 lời nguyện, trong đó có
một lời nguyện “Sau khi tôi thành Phật, chúng sanh trong khắp mười phương
nếu niệm danh hiệu của tôi A Di Đà Phật, tôi nhất định tiếp dẫn họ về cõi nước
của tôi, tương lai thành Phật… Chúng sanh trong cõi nước tôi đều hóa sanh từ
hoa sen, nên thân thể thanh tịnh không bị nhiễm ô”. Với đại nguyện rộng lớn
của Phật A Di Đà như thế, nên tất cả chúng sanh ai ai cũng tu “pháp môn niệm
Phật”, vì đây là pháp môn hợp với mọi trình độ căn cơ và rất dễ tu.
Kinh
Đại Tập (tên đầy đủ là Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập, do
Ngài Đàm Vô Sấm đời Bắc Lương dịch) nói:
“Thời mạt pháp ức ức người tu hành, khó có người đắc đạo, chỉ nương vào pháp
môn niệm Phật thì độ thoát sanh tử”. Đây là nói ức ức người tu hành mà không có
một người đắc đạo, chỉ có niệm Phật cầu vãng sanh Tây phương Cực lạc mới thoát
khỏi sanh tử. Đặc biệt bây giờ là thời đại mạt pháp, niệm Phật rất tương ưng và
hợp căn cơ của người thời này.
Nhưng
ở các nước phương Tây, hiện tại chưa phải là thời đại mạt pháp, có thể nói đang
là thời kỳ chánh pháp. Tại sao nói đang là thời kỳ chánh pháp? Bởi vì Phật pháp
mới vừa đến các quốc gia ở Tây phương nên lúc này đang thịnh vượng. Hiện tại ở
Mỹ có rất nhiều người thích ngồi thiền, đây là biểu hiện đang thời chánh pháp.
Thời chánh pháp cũng tu pháp môn niệm Phật được, thời mạt pháp cũng tu pháp môn
niệm Phật được. Vì sao?
Thời
đại nào cũng tu được, nếu người nào tu pháp môn khác mà không tiến bộ thì nên
tu pháp môn niệm Phật.
Thiền
sư Vĩnh Minh Diên Thọ (Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ, tự là Xung Huyền, người
đời nhà Tống, Vĩnh Minh là lấy tên chùa ở núi Tuệ Nhật tại Hàng Châu, Trung
Quốc, niên hiệu là Vĩnh Minh, có chỗ gọi là Vĩnh Minh Thọ) nói: “Có Thiền
có Tịnh độ, giống như hổ mọc sừng, hiện đời làm thầy người, tương lai thành
Phật thành Tổ”. Nếu vừa tham thiền vừa niệm Phật thì giống như hổ mọc sừng,
hiện đời đủ tư cách làm thầy, tương lai thành Phật thành Tổ.
Vì
vậy, người chân chánh tham thiền cũng chúng là người chân chánh niệm Phật,
người chân chánh niệm Phật, cũng chính là người chân chánh tham thiền. Nói một
cách nữa, người chân chánh trì giới, cũng chính là người chân chánh tham thiền,
người chân chánh tham thiền cũng chính là người chân chánh trì giới. Thế thì
người chân chánh giảng kinh thuyết pháp cũng chính là chân chánh tham thiền.
Sách Chứng đạo ca của Ngài Vĩnh Gia.
“Tông
diệc thông, pháp diệc thông, định tuệ viên minh bất trệ không. Nghĩa là: tông
cũng thông, pháp cũng thông, định huệ sáng tròn chẳng trệ không”. Vừa tham
thiền vừa giảng kinh, đây chính là tông thuyết đều thông. Hoặc nói một cách
khác, người chân chánh trì chú, chính là người chân chánh tu Mật tông, cũng
chính là người chân chánh tham thiền.
Tuy
nói năm loại: Thiền, Giáo, Luật, Mật, Tịnh nhưng chung quy lại là một chứ chẳng
phải hai. Nhưng nói rốt ráo, ngay một cũng chẳng có, sao lại nói năm loại chứ?
Người học Phật chân chánh cần hiểu rõ ràng điều này.
Có
người đem tâm phân biệt cho rằng pháp môn niệm Phật là tối cao, tham thiền
không đúng, hoặc có người nói tham thiền là tối cao, niệm Phật là sai lầm.
Những người như thế đều chưa hiểu Phật pháp. Nên biết, tất cả đều là Phật pháp,
đều bất khả đắc, đã không có pháp để chứng đắc, vậy sao trên đầu lại đội thêm
cái đầu nữa chứ? Đã vô sự sao lại tìm việc làm gì nữa chứ? Nếu bạn thật sự hiểu
và lãnh hội là không pháp để chứng đắc. Nghe qua lời này có thể một vài người
chưa lĩnh hội điểm này, họ sẽ thất vọng. Vì sao vậy? Vì Phật pháp phương tiện
nên lập quyền pháp, chính là để nói thật pháp. Phật nói quyền trí, là đưa người
đi đến thật trí. Thế nào là thật trí? Thật trí là một tên “Quy vô sở đắc” là
trở về chỗ không thể đắc tức là thật tướng vô tướng, không hình không tướng, đó
mới là trí huệ chân thật.
Chúng
ta không được may mắn, sanh nhằm vào thời mạt pháp cách Phật khá xa, pháp nhược
mà cường, nhưng trong cái không may mắn đó lại gặp pháp môn niệm Phật. Pháp môn
niệm Phật đã không tốn công, lại chẳng phí sức, rất dễ dàng và tiện lợi cho sự
hành trì tu tập, bởi vì niệm Phật là thành Phật. Vì sao niệm Phật lại thành Phật?
Vì trong vô lượng kiếp trước đức Phật A Di Đà đã phát ra 48 lời nguyện, trong
48 lời nguyện đó, có một nguyện: “Nếu có chúng sanh xưng niệm danh hiệu của
tôi, mà không sanh về thế giới Cực lạc, tôi thệ không thành chánh giác”.
Phật
A Di Đà đã phát ra nguyện lực này, mỗi nguyện mỗi nguyện đều nhiếp thọ chúng
sanh vãng sanh về thế giới Tây phương Cực lạc. Với điều kiện là họ phải có lòng
tin mãnh liệt. Đó là tin có đức Phật A Di Đà ở thế giới Tây phương Cực lạc, nên
nguyện đến đó làm đệ tử của đức Phật A Di Đà. Tha thiết một lòng xưng niệm danh
hiệu Ngài và lấy ba món tư lương – Tín, Hạnh, Nguyện – làm căn bản cho việc
vãng sanh.
Thế
giới Tây phương Cực lạc, đủ các thứ an vui không bị các thứ khổ não. Không có
ba đường ác – địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh – chỉ có các loại chim Bạch hạc,
Khổng tước, Anh võ, Ca lăng tần già, Cộng mạng, những loại chim đó đều do thần
lực của Phật A Di Đà biến hóa ra để diễn hát pháp âm, chẳng phải là loại súc
sanh thật. Thế giới Cực lạc không có các thứ ác duyên phiền não, khổ đau như
thế giới Ta bà mà ở đó ngày đêm sáu thời diễn nói diệu pháp – niệm Phật, niệm
Pháp, niệm Tăng. Vì vậy, chúng ta muốn vãng sanh về thế giới Cực lạc thì phải
chân thành niệm Phật. Chân thành niệm Phật chính là tâm của mình phải chuyên
nhất với câu Phật hiệu dù thành Phật hay không thành Phật, vãng sanh hay không
vãng sanh không cần để ý tới. Điều quan trọng ngay trong hiện tại chỉ có một
việc là nhất tâm niệm Phật mà thôi. Niệm Phật phải niệm cho chuyên nhất, đến
khi bạn lâm chung, nhất định đức Phật A Di Đà sẽ đến tiếp dẫn bạn về thế giới
của Ngài và tuơng lai nhất định thành Phật.
Vì
sao người thông thường như chúng ta mà được Phật A Di Đà đến tiếp dẫn? Lời nói
này rất khó tin. Đúng thật, vì đây là pháp môn khó tin, cho nên trong kinh A Di
Đà không có vị nào thưa hỏi mà tự đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói. Vì không có
người hiểu và cũng khó có người tin nhận về pháp môn này. Do vậy, đức Phật
Thích Ca Mâu Ni thương xót chúng sanh thời mạt pháp nên chọn con đường ngắn
nhất để dạy bảo chúng ta tu hành.
Chân
thành niệm Phật chính là miệng niệm Phật, tâm niệm Phật, đi, đứng, nằm, ngồi
đều niệm Phật. Trong tâm niệm danh hiệu Phật A Di Đà, toàn thân hành trì A Di
Đà Phật. Sao gọi là hành? Giống như chúng ta bây giờ đến đây tham dự khóa tu
niệm Phật. Cho dù là bận trăm công ngàn việc, gia duyên bận rộn … khi vào tu,
thì ta phải buông hết xuống, làm thế nào khi ta đến đây tham gia khóa tu này
phải phát tâm tu tập thật tha thiết, phát tâm niệm Phật cho đến nhất tâm bất
loạn. Muốn nhất tâm bất loạn thì mình phải trì niệm liên tục, chẳng phải niệm
một chút rồi thấy hơi vất vả lại đi tìm chỗ nghỉ, đó là tâm giải đãi muốn tìm
sự an nhàn theo thế gian. Thế là không đắc niệm Phật tam muội, không chân thành
niệm Phật. Người chân thành niệm Phật là nhất tâm nhất ý niệm Phật, ngay cả khi
ăn cơm, uống nước, mặc áo, đi ngủ cũng không quên.
Xưa
nay việc thường tình của con người là ăn, uống, ngủ nghỉ, đây là việc không thể
thiếu được. Riêng người tu niệm Phật lại khác, khác gì? Là khi vào tu có những
việc cần phải quên: không để ý tới việc ăn ngon, mặc đẹp, đói khát, ngủ nghỉ …
Đây chính là chân thành niệm Phật. Nếu công phu tu một chút thì nghĩ đến ăn
cơm, đó chẳng phải chân thành niệm Phật; hoặc lạnh một chút thì vội đi tìm áo
mặc cho ấm thân, đó cũng phải là chân thành niệm Phật; hoặc sợ thiếu ngủ đi tìm
chỗ ngủ tiếp, cũng chẳng phải là chân thành niệm Phật. Người chân thành niệm
Phật không luận là đi đứng nằm ngồi hoặc làm bất cứ việc gì, trong tâm chỉ biết
câu hồng danh sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật”. Bạn trì niệm liên tục như thế lâu
ngày sẽ kết thành một phiến, muốn được điều này bạn phải trì niệm liên tục
không đứt đoạn, đến nước chảy cũng nghe niệm câu “Nam Mô A Di Đà Phật”, gió
thổi cũng nghe niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, tiếng chim kêu cũng thành tiếng “Nam
Mô A Di Đà Phật”. Câu niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” phải hòa với chính ta không
tách rời. Niệm câu “Nam Mô A Di Đà Phật” không phải một mình ta, nghĩa là, ta
là yếu tố chính, là năng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”. Còn câu “Nam Mô A Di Đà
Phật” là sở niệm, cả hai hòa lại thành một. Đến đây, gió thổi cũng chẳng lay,
mưa to cũng chẳng động, đạt đến niệm Phật tam muội; nước chảy, gió động đều
diễn nói diệu pháp – niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”. Như thế mới đúng thật là chân
thành niệm Phật.
Giả
như nước chảy, gió động mà tâm cứ chao động trông Đông, ngóng Tây rồi phân biệt
động tịnh như thế nào? Đó chẳng phải là chân thành niệm Phật. Hoặc miệng niệm
Phật, mắt thì nhìn trước ngó sau như trộm đồ. Thế cũng chẳng phải là chân thành
niệm Phật. Chân thành niệm Phật chính là tâm thiết tha với câu Phật hiệu, chẳng
xen tạp một vọng tưởng nào vào. Nếu như lúc thì niệm lúc thì nghĩ đến chuyện ăn
cơm uống nước, đúng sai, được mất thì không phải là chân thật niệm Phật. Tất cả
các thứ ấy phải buông bỏ hết, như thế mới là chân thành niệm Phật. Niệm Phật không
có bí quyết gì cả, chỉ đòi hỏi sự chuyên tâm mà thôi, chẳng cần quét vọng
tưởng, đây chính là chân thành niệm Phật. Bạn đề khởi chánh niệm, đó chính là
chân thành niệm Phật. Bạn muốn hết loạn tưởng, quét hết tà niệm, đó chẳng phải
chân thành niệm Phật. Cho nên chân thành niệm Phật thật là vi diệu không thể
nói, chỉ khi nào bạn dụng công tu, khi ấy bạn mới nhận biết mà thôi, khi ấy bạn
lại càng đại tự tại, không nhân, không ngã, không chúng sanh, không thọ giả,
chỉ có Nam Mô A Di Đà Phật.
Nói
là pháp, hành là đạo, không chỉ nói mà không hành cũng như
miệng nói ăn đồ ngon mà trong bụng lại bị đói, một chút thức ăn cũng không có.
Hôm nay, tôi nói về đạo lý này, mong các vị phải hiểu rõ, điều chính yếu phải
thiết tha chân thành niệm Phật, chân thành tu niệm Phật. Thời gian và sanh mạng
của chúng ta quý báu vô cùng, nhớ đừng bỏ qua. Hy vọng mọi người luôn ghi nhớ
ba điều này trước khi bước vào tu tập “kiên trì, thành thật, hằng ghi”.
Mỗi niệm chân thành mỗi niệm thông
Tịch lặng cảm ứng tịch
lặng trong
Cho đến non cao nước
cùng tận
Rong choi pháp giới
khắp Tây Đông
Có
ai trong pháp hội hiểu ý nghĩa bài kệ này không? Chữ “niệm” thứ nhất là niệm
phải từ nơi tâm phát ra, chữ “niệm” thứ hai là từ nơi miệng phát ra, niệm phải
từ nơi tâm rồi phát ra nơi miệng. Nếu chỉ “niệm” bằng miệng thì chẳng phải chân
thành niệm Phật. Cho nên, niệm Phật hoặc niệm danh hiệu Bồ tát tâm miệng phải
tương ưng, thiết tha chân thành. Quý vị niệm đến tâm-khẩu hợp nhất, một mà
chẳng thấy hai, cũng chẳng phải niệm theo kiểu tùy hứng, cũng không phải tán
loạn mà niệm, lại cũng chẳng phải xen tạp vọng tưởng mà niệm. Làm được những
điều trên, mới gọi là niệm Phật “chân thành”.
Niệm một cách chân
thành mới có sự cảm ứng. Cảm ứng này như thế nào? Chính là tâm phàm phu cùng
với ánh quang minh của Phật và Bồ tát tương thông, nên nói “Quang quang tương
chiếu, khổng khổng tương thông”, tức là ánh sáng quang minh của Phật, Bồ tát
hòa với bản tâm sáng suốt xưa nay của bạn, đến từng lỗ chân lông trên toàn thân
thể của bạn. Sao lại có cảm ứng này? Giống như gọi điện thoại, khi gọi đúng số
thì bên kia “Alô!”, bắt đầu giao tiếp liên lạc với nhau. Niệm Phật, niệm Bồ tát
cũng giống như gọi điện thoại, khi làn sóng bạn phát đi thì bắt gặp làn sóng
của Bồ tát và ở bên kia các Ngài cũng hỏi bạn: “Người nam lành, người nữ lành
kia, bạn muốn cầu gì nào?” Thì biết, lúc đó bạn có sự cảm ứng rất mầu nhiệm.
Niệm Phật mà chẳng
thành tâm thành ý thì giống như điện thoại có năm số mà bạn chỉ bấm gọi ba số,
thế làm sao gọi được? Niệm Phật và Bồ tát cũng như thế. Nếu như bạn niệm một
lúc rồi không niệm nữa, thiếu sự chuyên tâm thành ý thì nhất định chẳng thông
được. Khi quý vị tu tập thành tâm thành ý, thì trong người quý vị sẽ phát ra
một loại ánh sáng, ánh sáng đó giao cảm với ánh sáng quang minh của chư Phật và
Bồ tát. Muốn được điều này, mỗi vị trong chúng ta phải cố gắng tu tập. Giống
như gọi điện thoại thì biết rõ ràng tiếng nói của đầu dây bên kia, mắt thịt
phàm phu không thể nhìn và nghe xa được, cho nên nói “Lặng lặng cảm ứng lặng lặng
trong” là vậy.
Câu “Cho đến non cao
nước cùng tận” nghĩa là đạt đến trình độ “Trăm đầu sào chỉ một bước chân, giơ
tay nắm hết cả càn khôn”. Khi niệm đến chỗ “Sơn cùng thủy tận”, đó thật là niệm
mà chẳng phải niệm, kết thành một khối, niệm thành một phiến. Đến đó quý vị
“Rong chơi pháp giới dạo Tây Đông”. Nếu như quý vị muốn vãng sanh về thế giới
Tây phương Cực lạc thì ứng một niệm là lập tức đi ngay, muốn giương thuyền từ
để cứu độ chúng sanh thì từ thế giới Tây phương Cực lạc chỉ ứng một niệm là bạn
đến ngay thế giới Ta bà và khắp tất cả pháp giới. Chỉ cần bạn ứng một niệm là
đi ngay. Nên nói “Rong chơi khắp Đông Tây”, tức là dạo khắp tất cả. Hoặc “Nhất
như ý nhất thiết như ý, nhất tự tại nhất thiết tự tại” tức là bạn đại tự do đại
tự tại rồi.
Do đó, chúng ta là
người học Phật, mỗi nơi mỗi chỗ đều phải chân thành, không hư ngụy. Hư ngụy thì
như “Hoa không nở, quả không kết”. Người học Phật phải ghi nhớ điều này, đừng
bao giờ lừa dối với chính mình. Kế nữa, người xưa nói: “Quân tử cầu nơi mình,
tiểu nhơn cầu nơi người”. Chúng ta không quan tâm ỷ lại, nên biết cảm ứng là tự
mình nỗ lực chứ chẳng phải tự nhiên đến được.
Có người nói: “Niệm
Phật được sanh về Tịnh độ, phải nương nhờ vào Phật lực tiếp dẫn”. Câu nói này,
nếu không khéo hiểu, sẽ bị sai lầm, vì sao vậy? Bởi vì câu nói là đối cơ mà
nói, tức đối với người chưa hiểu biết gì cả. Chư Tổ phương tiện tạo ra sự ham
thích cho chúng sanh khởi tâm niệm Phật, hy vọng có thể dụng công ít mà thu
hoạch lại lớn, giống như buôn bán kinh doanh, bỏ vốn ra ít mà thu vào thì
nhiều. Vì vậy chư Tổ tùy cơ ứng biến, nói có Phật lực tiếp dẫn, mục đích là
khích lệ cho chúng sanh nỗ lực niệm Phật.
Thực ra, người niệm
danh hiệu Phật và Bồ tát mà được vãng sanh Tịnh độ, hoàn toàn có niềm tin rất
lớn nơi chính mình. Vì sao vậy? Có phải niệm Phật là Phật niệm thay bạn được
không? Niệm một câu danh hiệu Bồ tát là Bồ tát hiện ra không? Nếu nói không
phải, sao nói nương dựa vào tha lực của các Ngài? Giống như Phật và Bồ tát
phóng ánh hào quang gia hộ cho bạn, đó là do công đức của chính bạn đã trì niệm
danh hiệu Phật Bồ tát, cho nên mới có cảm ứng như thế. Thí dụ như điện thoại,
nếu như bạn chẳng gọi, thì có ai đầu dây bên kia nói chuyện với bạn được không?
Cho nên người niệm Phật cũng như gọi điện thoại là vậy. Lý lẽ ở chỗ này. Tâm hy
vọng trông mong nương tựa vào năng lực của Phật để tiếp dẫn mình vãng sanh Tịnh
độ, thật ra đó chính là tâm tham, tâm ỷ lại, không thể được. Chúng ta tu hành,
chính yếu là phải tự lực, tinh thần phải mạnh mẽ dũng khí, tinh tấn, được kết
quả chẳng phải tự dưng do người khác ban tặng cho. Niệm Phật, có thể nói không
nên trông mong và nương tựa vào sự tiếp dẫn của Phật.
Cổ nhân nói: “Làm
tướng vốn không phải là cha truyền con nối, nam nhi nên tự cường”. Chúng ta là
người học Phật nên có ý thức câu nói này: “Làm Phật vốn không phải Phật ban cho
thành Phật, chúng sanh nên tự cường”. Nếu chẳng được như thế, thì cả ngày cứ ỷ
lại Phật lực tiếp dẫn, giống như con em nhà giàu ỷ lại sản nghiệp của cha mẹ,
rốt cuộc tự làm hại chính mình. Mọi người nên tỉnh giác chỗ này!
Phật
tử Á đông chúng ta phần nhiều có câu nói như thế này: “Người người Quán Thế Âm,
nhà nhà A Di Đà Phật”. Bồ tát Quán Thế Âm có nhân duyên đặc biệt với chúng ta.
Ngài vui mừng khi chúng ta được đến thế giới Cực lạc, chẳng cần phải làm thủ
tục di dân. Chỉ cần có “nhất niệm tâm thành” để ấn chứng, thì hoàn thành thủ
tục, tuyệt đối chẳng có phiền phức gì cả. Nếu như không “nhất niệm tâm thành”
để làm chứng, thì chẳng có thể di dân đến thế giới Cực lạc.
Tại
sao chứng minh nhất niệm tâm thành mới đến được? Cách này vô cùng đơn giản, rất
dễ dàng, chỉ cần thành tâm thành ý niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” hoặc “Nam Mô Quán
Thế Âm Bồ tát” hoặc “Nam Mô Đại Thế Chí Bồ tát” là thành tựu rồi. Vì Phật A Di
Đà là giáo chủ ở thế giới Cực lạc. Có hai vị Bồ tát Quán Thế Âm và Bồ tát Đại
Thế Chí đứng hai bên Phật A Di Đà để cùng cứu độ chúng sanh. Phật A Di Đà, Bồ
tát Quán Thế Âm và Bồ tát Đại Thế Chí gọi là Tây phương Tam Thánh. Ta niệm bất
cứ danh hiệu vị nào trong ba vị cũng được cả. Cần nhớ, niệm đến nhất tâm bất
loạn, một trần không nhiễm thì được đới nghiệp vãng sanh, hoa nở thấy Phật hoặc
Bồ tát.
Nếu
chẳng muốn di dân đến thế giới Cực lạc, thì không cần phải trì niệm danh hiệu
Tam Thánh. Nếu muốn di dân đến thế giới Cực lạc thì phải niệm danh hiệu Bồ tát
Quán Thế Âm. Niệm danh hiệu của Bồ tát hiện đời ta có thể tránh được tam tai
thất nạn, khi chết được bình an, sanh về Tịnh độ, chỉ một mà lợi cả hai sao
chần chờ không làm chứ?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét