Chúng
ta muốn niệm danh hiệu Bồ tát Quán Thế Âm, niệm sao cho danh hiệu của Ngài hòa
quyện với tâm lại thành một. Không tách rời ra, nghĩa là miệng niệm tâm phải
tương ưng, đến lúc đó, không muốn đến thế giới Cực lạc cũng đến được! Vì sao
vậy? Vì đã thấm nhuần sâu vào cội gốc rồi, tương lai cành lá sẽ phát triển và
đơm hoa kết quả.
Vì
sao phải niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”? Bởi vì đức Phật A Di Đà có nhân duyên rất
lớn với tất cả chúng sanh khắp mười phương thế giới. Đức Phật A Di Đà khi chưa
thành Phật là một vị Tỳ kheo, tên là Pháp Tạng. Tỳ kheo Pháp Tạng phát ra 48
lời nguyện, mỗi nguyện thệ cứu độ hết tất cả chúng sanh giúp cho hết thảy chúng
sanh đều thành Phật. Trong 48 lời nguyện đó có một nguyện như thế này: “Khi tôi
thành Phật, mười phương tất cả chúng sanh, nếu trì niệm danh hiệu tôi, nhất
định tất cả sẽ thành Phật. Nếu như họ chẳng thành Phật, tôi thề cũng không
thành Phật”.
Nguyện
lực này của đức Phật A Di Đà, giống như sức hút của máy nam châm, mà mười
phương chúng sanh giống như một hòn sắt, đều hút về thế giới Tây phương Cực lạc.
Nếu như hút không được thì sao? Tỳ kheo Pháp Tạng chẳng thành Phật A Di Đà. Cho
nên, tất cả chúng sanh xưng niệm danh hiệu của Phật A Di Đà đều có cơ hội thành
Phật.
Kinh
A Di Đà là quyển Kinh không ai hỏi mà tự Phật Thích Ca Mâu Ni nói ra. Vì sao
không ai hỏi mà Phật tự nói? Vì khó có người tin hiểu pháp môn này, cho nên
không có người hỏi. Đại trí Xá Lợi Phất là bậc thượng căn, nhưng cũng không
biết hỏi thế nào. Phật nói, pháp môn này vô cùng thù thắng, là phương tiện bậc
nhất, tu tập rất dễ thành tựu. Dụng công tu rất tiện, ít tốn công tốn sức. Ngài
nói: “Chỉ cần mỗi người chuyên tâm niệm Phật, niệm được một ngày, hai ngày, ba
ngày, … cho đến bảy ngày, nhất tâm bất loạn, người đó khi lâm chung đức Phật A
Di Đà cùng với Thánh chúng hiện ra để tiếp dẫn họ”.
Cho
nên Phật nói, pháp môn này ít người tin nhận, vì đó là pháp môn trực tiếp, rất
thù thắng, đặc biệt thu nhiếp ba hạng người thượng, trung và hạ căn. Nếu là
người thông minh hay ngu si, một lòng niệm Phật thì đều thành Phật cả.
Khi
vãng sanh về Cực lạc thế giới “không có các sự khổ, đủ các sự an lạc”. Chúng
sanh nơi thế giới đó đều sanh ra từ hoa sen, không giống như loài người chúng
ta phải sanh ra ừ bào thai. Ở thế giới Cực lạc, bào thai là hoa sen, khi người
ở trong hoa sen nở ra, tương lai nhất định thành Phật rồi.
Nhất
cú Di Đà vạn Pháp vương
Ngũ
thời bát giáo tận hàm tạng
Hành
nhân đản năng chuyên trì niệm
Định
nhập Như Lai bất động đường.
“Nhất
cú Di Đà vạn Pháp vương”, nghĩa là một câu Di Đà là vua của vạn pháp. “Ngũ thời
bát giáo tận hàm tạng”, nghĩa là năm thời (thời Hoa nghiêm, thời A hàm, thời
Phương Đẳng, thời Bát nhã, thời Niết bàn). Tám giáo (tạng giáo, thông giáo,
biệt giáo, viên giáo, đốn giáo, tiệm giáo, bí mật giáo, bất định giáo) bao hàm
lại thành một. Đó là một câu “A Di Đà Phật”.
“Hành
nhân đản năng chuyên trì niệm”, nghĩa là không luận người nào nếu chuyên tâm
niệm Phật thì “Định nhập Như Lai bất động đường”, nghĩa là nhất định đạt đến
tịch quang Tịnh độ, đến thế giới Cực lạc. Tất cả chúng sanh vào thời mạt pháp
chỉ nương vào câu Phật hiệu A Di Đà để được cứu độ, ai muốn được độ thì chỉ có
niệm Phật.
Bớt
đi một câu nói
Niệm
nhiều câu Phật hiệu
Si
mê bị đoạn dứt
Liền
liễu sanh thoát tử
Sống
với pháp thân bạn.
Cho
nên, mọi người chúng ta chớ xem thường Pháp môn Niệm Phật.
Pháp
môn niệm Phật có bốn cách niệm như sau:
a) Trì danh niệm
Phật: Tai nghe danh hiệu Phật, nhất tâm xưng niệm
“Nam Mô A Di Đà Phật”.
b) Quán tưởng niệm Phật:
Quán tưởng chính là quán thấy, thấy cái gì?
A
Di Đà Phật thân kim sắc
Tướng
hảo quang minh vô đẳng luân
Bạch
hào uyển chuyển ngũ Tu Di
Hám
mục trừng thanh tứ đại hải,
Quang
trung hóa Phật vô số ức
Hóa
Bồ tát chúng diệt vô biên
Tứ
thập bát nguyện độ chúng sanh
Cửu
phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.
Dịch
nghĩa:
Di Đà thân Phật sắc vàng tươi
Tướng
tốt quang minh vẹn đủ mười
Ánh
sáng bao trùm năm núi lớn
Mắt
trong như bốn bể đại dương
Hào
quang hóa Phật nhiều vô số
Bồ
tát hiện thân gấp mấy mươi
Bốn
tám lời nguyện mong độ chúng
Hoa
sen chín phẩm rước lên ngôi.
c) Quán tướng niệm
Phật: Quán tướng là đối trước đức tướng của đức Phật
A Di Đà, niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”. Đây chính là quán tướng niệm Phật. Mỗi câu
Phật hiệu từ miệng niệm ra tai ta nghe rõ ràng, tâm tỉnh giác từng câu niệm,
đây gọi là quán tướng niệm Phật.
d) Thật tướng niệm Phật:
Tức là niệm từ nơi tự tánh, Phật tánh là chân pháp thân của bạn cũng chính là
tham thiền. Bạn tham câu “niệm Phật là ai?” – bạn hỏi lại mình xem, ai là người
đang niệm Phật đây?
Đến
Phật thất bảy ngày viên mãn, chúng ta tìm người “niệm Phật là ai?”, nhất định
sẽ tìm được, không mất đâu. Nếu bạn bị mất, thế thì thiếu chánh niệm đi lạc
đường rồi, mau trở về nhà! Nếu không trở về nhà, thì không gặp được Phật A Di
Đà rồi.
Tín,
Nguyện, Hạnh, chính là ba món tư lương của người tu pháp môn Tịnh độ. Sao gọi
là tư lương? Giống như bạn đi du lịch đến một vùng nào đó, trước tiên phải
chuẩn bị một ít thức ăn, đó gọi là “Lương”. Lại đem theo một ít tiền thì gọi là
“Tư”. “Tư lương” chính là thức ăn và những thứ tiền bạc nhu yếu trong sinh hoạt
của bạn. Bạn đến thế giới Cực lạc, cũng cần ba món tư lương, đó là: tín,
nguyện, hạnh. Điều quan trọng trước tiên là phải Tín. Nếu bạn không có tín tâm,
thế là bạn không có duyên với Phật A Di Đà ở thế giới Cực lạc rồi. Nếu bạn có
tín tâm là có duyên với Ngài. Cho nên niềm tin là điều hết sức quan trọng của
bất cứ hành giả tu tập bất cứ pháp môn nào của Phật pháp. Bạn tin, là tin chính
mình, tin cả người khác, vừa tín nhân, tín quả, tín sự tín lý.
Tin, sao gọi là tin
chính mình? Bạn phải tin chính bạn nhất định về được thế giới Tây phương Cực
lạc, bạn đầy đủ tư cách đến được thế giới Tây phương Cực lạc. Bạn không nên xem
thường mình và nói rằng: “Chao ôi! Tôi gây tạo rất nhiều tội nghiệp, tôi không
có cách gì để về được thế giới Tây phương Cực lạc”. Thế là bạn không có tin
chính bạn rồi.
Bạn tạo rất nhiều tội
nghiệp, phải không? Nhưng hôm nay bạn gặp cơ hội tốt. Cơ hội tốt như thế nào?
Có thể đới nghiệp vãng sanh (mang nghiệp cũ vãng sanh). Bạn tạo những nghiệp
gì, đều mang theo về thế giới Tây phương Cực lạc. Nhưng bạn nên biết, đới
nghiệp là mang nghiệp cũ, chứ không phải mang nghiệp mới. Do khi trước chưa học
Phật nên không biết tội phước. Nay biết Phật pháp biết niệm Phật nên mang cái
nghiệp khi xưa đó về cõi Phật. Nghiệp mới, chính là tội nghiệp tương lai, mang
nghiệp cũ, chứ không phải mang nghiệp mới, mang tội nghiệp quá khứ, chứ không
phải mang tội nghiệp tương lai. Lúc trước bạn đã gây tạo những hành vi tội lỗi
bất thiện, không luận là nặng hay nhẹ, nhưng bây giờ bạn tự mình ăn năn cải
đổi, bỏ ác hướng thiện, thế là tội nghiệp của bạn lúc trước đã gây tạo, có thể
mang theo về thế giới Tây phương Cực lạc, không mang nghiệp tương lai.
Tín tha, nghĩa là bạn
tin đích thật có thế giới Tây phương Cực lạc, từ thế giới của chúng ta trải qua
mười vạn ức cõi Phật xa như thế. Đây là khi chưa thành Phật, Ngài có tên là Tỳ
kheo Pháp Tạng. Ngài từng phát nguyện, tương lai tạo thành một thế giới Cực
lạc, mong muốn mười phương tất cả chúng sanh đều sanh về cõi nước của Ngài.
Không cần gì nhiều, chỉ cần chúng sanh xưng niệm danh hiệu của Ngài, thì được
về thế giới Tây phương Cực lạc, ngoài những việc khác ra, đều phí công. Pháp tu
này vừa dễ, vừa đơn giản, lại phương tiện, viên dung, không phí tiền, không phí
sức, có thể nói đây là pháp môn thù thắng. Chỉ cần niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”
thì được sanh về thế giới Tây phương Cực lạc, đây chính là tín tha.
Lại phải tin nhân, tin
quả. Sao gọi là tin nhân quả? Bạn phải tin chính bạn trong quá khứ đã có căn
lành, nay mới gặp pháp môn này. Nếu bạn không có căn lành, thì không gặp được
pháp môn niệm Phật, cũng như không gặp được tất cả pháp môn của Phật. Bạn có
căn lành, trong quá khứ đã gieo trồng nhân lành, nên nay gặp được pháp môn Tịnh
độ mới có thể đầy đủ tín, nguyện. Nếu bạn chẳng tiếp tục vun bồi phát triển căn
lành này, thì tương lai bạn chẳng có cơ hội để thành tựu quả vị Phật. Cho nên
điều cần yếu bạn phải tin nhân, tin quả, bạn phải tin chính bạn ở trong đời quá
khứ đã có gieo trồng nhân bồ đề, tương lai nhất định sẽ kết quả bồ đề. Giống
như làm ruộng, khi gieo giống xuống cần phải chăm bón nó mới phát triển được.
Tin sự, tin lý. Sao
gọi là tin sự? Sao gọi là tin lý? Bạn phải biết đức Phật A Di Đà có nhân duyên
với chúng ta rất lớn, Ngài nhất định trợ giúp chúng ta thành Phật, đây là sự.
Tin lý, tại sao chúng ta và Phật A Di Đà có nhân duyên rất lớn? Nếu không có
nhân duyên chúng ta không gặp được pháp môn Tịnh độ. Phật A Di Đà cũng chính là
tất cả chúng sanh, chúng sanh cũng chính là Phật A Di Đà. A Di Đà Phật là niệm
Phật mà thành A Di Đà Phật, chúng ta cùng với tất cả chúng sanh tinh tấn niệm
Phật, cũng có thể thành Phật A Di Đà, đây là lý.
Rõ lý, tỏ sự như thế
rồi, chúng ta nương vào đó mà tu hành như Kinh Hoa Nghiêm nói: “Sự vô ngại pháp
giới, lý vô ngại pháp giới, lý sự vô ngại pháp giới, sự sự vô ngại pháp giới”.
Đứng về phương diện tự tánh mà nói, chúng ta và đức Phật A Di Đà là một, cho
nên chúng ta đều đủ tư cách để thành Phật A Di Đà. A Di Đà Phật là Phật ở trong
tâm chúng sanh, chúng sanh nào cũng là tâm của Phật A Di Đà, sự quan hệ này
cũng có sự có lý. Đạo lý này, bạn cần phải tin và phải thực hành, không làm
biếng giải đãi. Cũng như niệm Phật, ngày hôm nay phải hơn ngày hôm qua, không
phải ngày hôm nay lại kém hơn ngày hôm qua.
“Tín” đã giảng xong,
tiếp theo giảng “Nguyện”. Sao gọi là nguyện? Nguyện chính là ý nguyện, ý nguyện
của bạn, ý niệm bạn hướng mạnh thì tâm tưởng của bạn cũng như thế, phát ra một
nguyện. Một nguyện này, chính là tứ hoằng thệ nguyện:
Chúng sanh vô biên thệ
nguyện độ
Phiền não vô tận thệ
nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ
nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ
nguyện thành.
Chư Phật trong quá khứ
và các bậc Bồ tát, đều dựa vào tứ hoằng hệ nguyện này mà chứng quả vị vô thượng
chánh đẳng chánh giác. Hiện tại chư Phật và chư Bồ tát vị lai cũng đều dựa vào
tứ hoằng thệ nguyện này tu hành chứng quả. Nhưng khi phát nguyện, trước hết bạn
phải có tín tâm này, trước phải tin “có thế giới Cực lạc”. Thứ hai là tin “có
Phật A Di Đà”. Thứ ba là tin “ta và Phật A Di Đà nhất định có nhân duyên rất
lớn, ta nhất định sẽ sanh về thế giới Cực lạc”. Vì có đầy đủ ba đức tin đó, sau
mới phát nguyện sanh về thế giới Cực lạc. Cho nên mới nói “nguyện sanh Tây
phương Tịnh độ trung”. Ý nguyện của ta sanh về thế giới Cực lạc, không phải
người nhà quyết định cho ta đi, cũng không phải người khác đến nắm tay dắt ta
đi.
Tuy nói Phật A Di Đà
đến tiếp rước ta, nhưng cái chính yếu là ý nguyện chính mình có muốn thân cận
với Phật A Di Đà hay không? Ý nguyện có muốn sanh về thế giới Tây phương Cực
lạc gặp Phật nghe pháp tu hành hay không? Muốn thành tựu được “Nguyện” này,
tiếp theo cần phải có “Hành”. Sao gọi là hành? “Nam Mô A Di Đà Phật”, “Nam Mô A
Di Đà Phật” … đó! Giống như cứu lửa cháy đầu phải đi mau cho rồi, có người muốn
hại đầu của ta, thì mình vội vã tìm cách bảo vệ cái đầu của mình, vậy chẳng dám
giải đãi.
Niệm Phật tức là thực
hành tín, nguyện, hạnh. Đây chính là lộ phí, là tư lương để đi đường. Tư lương
chính là lộ phí, là tiền để chi dụng. Đến thế giới Cực lạc giống như đi du
lịch, đi du lịch bạn cần phải có tem phiếu, có tiền … Còn ba món tư lương “Tín,
Nguyện, Hạnh” này chính là ngân phiếu mình đi du lịch.
Chúng ta bây giờ niệm
“Nam Mô A Di Đà Phật” chính là mỗi người tự tạo thế giới Cực lạc cho chính
mình, mỗi người tự trang nghiêm thế giới Cực lạc cho chính mình, mỗi người
thành tựu thế giới Cực lạc cho chính mình. Thế giới Cực lạc này không cách xa
mười vạn ức cõi Phật. Thế giới Cực lạc thật cách xa mười vạn ức cõi Phật. Tuy
xa như thế nhưng chẳng cách xa một tâm niệm hiện tiền này của bạn và tôi. Bởi
vì nó không ngoài tâm niệm của bạn và tôi, cho nên chẳng cách xa mười vạn ức
cõi Phật. Thế giới ấy chính là ở trong tâm của chúng ta.
Thế giới Cực lạc chính
là chân tâm vốn có xưa nay của chúng ta. Bạn nhận được chân tâm xưa nay của bạn
thì thế giới Cực lạc ở đây rồi. Bạn không rõ chân tâm xưa nay của mình thì
không sanh về thế giới Cực lạc. A Di Đà Phật và chúng sanh chẳng phải hai. Cho
nên chúng ta nói thế giới Cực lạc là chẳng cách xa là thế, nhất niệm hồi quang
biết cội gốc xưa nay là Phật, xưa nay chính là thế giới Cực lạc.
Chỉ cần bạn quét sạch
tâm ô nhiễm của bạn đi, bạn không có tâm niệm tư dục, không có tâm đố kỵ, tâm
tự tư, tâm ích kỷ. Bạn học hạnh Bồ tát, làm lợi ích cho tất cả mọi người, giác
ngộ vì tất cả chúng sanh, thế là cảnh thế giới Cực lạc xuất hiện. Bạn không có
tạp niệm không có vọng tưởng, thế có phải là thế giới Cực lạc ở đây không? Nếu
chẳng phải là thế giới Cực lạc thì bạn nói đó là thế giới gì? Cho nên chẳng cần
phải hướng ngoại tìm cầu.
Các bạn là thiện tri
thức! Các bạn đều là bậc đại trí tuệ, thông minh hơn tôi. Tương lai các bạn
thuyết pháp hay hơn tôi, chẳng qua bây giờ các bạn chưa hiểu hết tiếng Trung
Quốc thôi. Tôi xin giới thiệu tặng cho các bạn bài ca:
Đại thánh chủ, A Di Đà
Đoan nghiêm vi diệu
không gì bằng
Thất trân trì, hoa tư
sắc, dõng kim ba.
Nghĩa là:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét