Bậc thánh chủ A Di Đà
Tướng tốt đoan nghiêm
không gì bằng
Ao bảy báu, hoa bốn
màu, sóng nước hiện vàng tươi.
Đại thánh chủ này là
ai vậy? A Di Đà, Ngài ngồi đó thân tướng đoan nghiêm, rất đẹp! Rất đoan nghiêm!
Không gì đẹp bằng hảo tướng của Phật A Di Đà. Ao bảy báu này, cũng chính là “ao
thất bảo”. “Hoa tứ sắc”, tức hoa sen trong ao có bốn màu sắc khác nhau. “Dõng
kim ba” nước và sóng trong ao thất bảo đều là sắc vàng.
Chúng ta niệm “Nam Mô
A Di Đà Phật”, ở trong ao thất bảo bên thế giới Tây phương Cực lạc hoa sen đang
từ từ nở ra. Trong ao đó có tám loại nước công đức. Chúng ta niệm Phật niệm
càng nhiều thì hoa sen càng nở lớn ra, bạn niệm thật ít, thì hoa sen nhỏ. Bạn
nói: “Nếu không niệm thì sao?” Nếu bạn không niệm, thì hoa sen khô héo và đi
đến chết thôi. Cho nên bằng giá nào bạn cũng phải tranh thủ tu tập để thành tựu
quả vị giải thoát cho chính mình.
Tâm tịnh trăng hiện
nước
Ý định trời không mây
Khi
bạn niệm Phật đạt đến mức độ niệm Phật tam muội, tiếng gió thổi qua bạn cũng
nghe là âm thanh “Nam Mô A Di Đà Phật”. Bạn nghe tiếng mưa rơi, cũng là âm
thanh “Nam Mô A Di Đà Phật”. Bạn nghe tất cả âm thanh, đều là tiếng niệm Phật
đó! Cho nên nói “nước chảy, gió lay đều diễn nói Kinh điển”. Tiếng nước chảy
cũng là “Nam Mô A Di Đà Phật”. Tiếng gió thổi cũng là “Nam Mô A Di Đà Phật”.
Nước chảy, gió thổi đều là “Nam Mô A Di Đà Phật”. Cho nên Tô Đông Pha nói: “Khê
thanh tận thị quảng trường thiệt, sơn sắc vô phi thanh tịnh thân”, nghĩa là âm
thanh của suối chảy, đều là tướng lưỡi rộng dài của Phật để diễn nói diệu pháp,
màu sắc dáng núi cũng đều là pháp thân thanh tịnh của Như Lai, đây chính là đắc
được niệm Phật tam muội. Lúc trước tôi có làm một bài kệ niệm Phật:
Năng
niệm năng niệm vô gián đoạn
Niệm
Di Đà đã thành phiến
Tạp
niệm bất sanh đắc tam muội
Vãng
sanh Tịnh độ định hữu phán
Chung
nhật yểm phiền Ta bà khổ
Tài
tương hồng trần tâm niệm đoạn
Cầu
sanh Tịnh độ ý niệm trọng
Phóng
hạ nhiễm niệm quy tịnh niệm.
Cầu
này nói: “Khẩu niệm năng niệm vô gián đoạn”, bạn niệm Phật niệm đến chỗ không
gián đoạn, từ sáng cho đến tối chỉ âm thanh niệm Phật, không có thời gian ngừng
nghỉ. “Khẩu niệm Di Đà đã thành phiến”, là miệng luôn niệm “Nam Mô A Di Đà
Phật” thường niệm như thế, kết thành một khối.
“Tạp
niệm bất sanh đắc tam muội”, là bạn không bị các vọng niệm loạn tưởng lăng xăng
khác, đây chính là đạt đến định niệm Phật, người niệm Phật nên nhận ra chỗ này.
“Vãng sanh Tịnh độ định hữu phán”, hy vọng bạn vãng sanh về thế giới Tây phương
Cực lạc, nhất định đạt được!
“Chung
nhật yểm phiền Ta bà khổ”. Từ sáng đến tối nhàm chán những nỗi thống khổ ở thế
giới Ta bà này. “Tài tương hồng trần tâm niệm đoạn”. Bởi vì bạn biết ở thế giới
Ta bà này là khổ, cho nên mau mau dứt bỏ những thú vui thế gian. Khi các tâm
niệm thế gian đoạn rồi, không còn tâm dâm dục, tâm thích đẹp ghét xấu không có,
tâm tranh danh, tâm đoạt lợi, cũng không còn. Buông bỏ tất cả các duyên thế
gian xuống, phải thấy tất cả những thứ đó đều là giả, cho nên các niệm hồng
trần đều đoạn dứt.
“Cầu
sanh Tịnh độ ý niệm trọng”. Cầu sanh về thế giới Cực lạc ý niệm người đó vô
cùng trọng yếu!
“Phóng
hạ nhiễm niệm quy tịnh niệm”. Buông bỏ niệm ô nhiễm ngay từ niệm đầu. Ngay đó
được niệm thanh tịnh rồi.
Bài
kệ nói rõ về đạo lý niệm Phật. Tám câu kệ này tuy rất ngắn gọn, nhưng sẽ giúp
ích cho các bạn rất nhiều. Bạn nên tư duy suy ngẫm, nhất là đối với người tu
pháp môn niệm Phật.
Trong
khóa tu Phật thất, mỗi hôm niệm Phật để làm gì vậy? Đó là gieo chủng tử Phật.
Bạn niệm một câu Phật hiệu thì gieo một hạt giống Phật, niệm mười câu Phật hiệu
thì gieo mười hạt giống Phật. Chúng ta mỗi ngày niệm trăm, ngàn, vạn câu Phật
hiệu, chính là gieo hàng trăm, ngàn, vạn hạt giống Phật như thế. Khi bạn gieo
hạt giống đó xuống, tương lai nhất định sẽ nảy mầm, bất kể là niệm Phật tán tâm
hay định tâm. Có một câu kệ rất hay:
Thanh
châu đầu ư trọc thủy
Trọc
thủy bất đắc bất thanh
Niệm
Phật nhập ư loạn tâm
Loạn
tâm bất đắc bất Phật.
Có
một hạt minh châu, xưa nay bỏ trong nước “trọc thủy bất đắc bất thanh”, dù nước
có đục thế nào đi nữa, cũng đều thanh tịnh trong sáng cả. Người trì danh hiệu
Phật, cũng giống như hạt minh châu vậy, bỏ vào trong nước thì nước sẽ trong.
“Niệm
Phật nhập ư loạn tâm”. Tâm của chúng ta xưa nay vọng động thô tháo, vọng tưởng
dẫy đầy, vọng tưởng này sanh ra rồi mất đi, rồi lại sanh, rồi mất, cứ như thế
giống như sóng biển, không khi nào dừng. Thế khi một câu danh hiệu Phật đi vào
tâm loạn động thì “tâm loạn cũng được thành Phật”. Đó bạn thấy loạn tâm như vậy
mà cũng thành tâm Phật rồi, bởi vì bạn niệm một tiếng Phật thì trong tâm bạn có
một vị Phật, bạn niệm mười tiếng Phật thì có mười vị Phật, niệm trăng tiếng,
ngàn tiếng, vạn tiếng niệm càng nhiều thì càng nhanh thành Phật. Bạn niệm một
tiếng “Nam Mô A Di Đà Phật”, trong tâm có một người niệm Phật. Bạn niệm Phật,
Phật cũng niệm bạn, cũng giống như máy vô tuyến điện, bạn niệm một câu A Di Đà
Phật thì máy vô tuyến sẽ thâu âm và phát đi, vậy gọi là cảm ứng đạo giao.
Qua
bài kệ vừa rồi chúng ta thấy người niệm Phật được công đức không thể nghĩ bàn,
dù niệm mà vọng tưởng vẫn còn nhưng vẫn thành tựu được công đức từ nơi tự tánh
của họ.
Pháp
môn này được chư Bồ tát khắp mười phương đồng hoan hỷ tán thán.
Tâm
của bạn như thế nào? Nó rất bận rộn đủ thứ chuyện vui buồn từ sáng cho đến tối,
không lúc nào dừng nghỉ. Cho nên tâm này của chúng ta nếu chẳng cho nó một điều
kiện gì thì nó chẳng có tự tại được. Vì vậy phải tìm cho nó một câu “Nam Mô A
Di Đà Phật”.
Một
câu danh hiệu Phật cũng chính là tham thiền, bạn chẳng cần phải ngồi chỗ nào
cả, chỉ cần nhắm mắt niệm Phật như thế cũng chính là tham thiền. Hoặc bạn mở
mắt ra niệm Phật cũng là tham thiền. “Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền, nói năng
động tịnh thể an nhiên”. Tất cả bốn oai nghi đi đứng nằm ngồi là tham thiền cả.
Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ nói một bài kệ trong Tứ liệu giản:
Có
thiền, có Tịnh độ
Giống
như cọp mọc sừng
Hiện
đời là thầy người
Tương
lai làm Phật, Tổ
Có
thiền không Tịnh độ
Mười
người tu chín người lạc
Không
thiền có Tịnh độ
Vạn
người tu vạn người được.
Pháp
môn Tịnh độ là một pháp môn rất dễ tu, được chư Bồ tát ca ngợi tán thán.
Bồ
tát Văn Thù cũng tán thán pháp môn niệm Phật. Trong Kinh Hoa Nghiêm – phẩm
Phổ Hiền hạnh nguyện, Bồ tát Phổ Hiền cùng mười phương chúng sanh đồng
nguyện vãng sanh Tịnh độ và Bồ tát Quán Thế Âm cũng niệm Phật vãng sanh Tịnh độ.
Nếu có vị nào nghe qua bộ Kinh Lăng Nghiêm đều biết phẩm “Bồ tát Đại Thế Chí
niệm Phật viên thông” nói người tu pháp môn niệm Phật vô cùng tốt. Cho nên
Bồ tát Đại Thế Chí cũng tán thán.
Trong
quá khứ tất cả chư đại Bồ tát đều tán thán pháp môn Tịnh độ, chuyên tu pháp môn
Tịnh độ. Tất cả chư Tổ trong quá khứ trước tiên tham thiền, sau niệm Phật. Sau
khi họ tham thiền khai ngộ rồi thì lại chuyên tâm niệm Phật. Giống như Ngài
Vĩnh Minh Diên Thọ niệm một câu A Di Đà Phật thì từ miệng phóng ra một đạo hào
quang có hóa thân của Phật A Di Đà. Thời cận đại, đại sư Ấn Quang chuyên xiển
dương pháp môn niệm Phật.
Cho
nên pháp môn niệm Phật là pháp môn phương tiện bậc nhất, đơn giản, rất dễ tu,
người hành trì pháp môn này rất là viên dung. Pháp môn này mười phương chư Phật
đồng ca ngợi tán thán. Bạn xem bản Kinh Di Đà nói mười phương chư Phật có tướng
lưỡi rộng dài, biến khắp tam thiên đại thiên thế giới đều ca ngợi tán thán pháp
môn này. Nếu như nói không chân thật thì mười phương chư Phật làm sao ca ngợi
tán thán? Do vậy, đủ chứng minh người tu pháp môn niệm Phật vô cùng thù thắng,
đặc biệt vào thời mạt pháp này mọi người chúng ta phải nên tu theo.
Thế
nhưng, hiện giờ ở Tây phương là thời đại chánh pháp, các bạn không tu pháp môn
niệm Phật, thế các bạn lại tham thiền thì có sợ khổ không?
Đến
Tây phương liễu sanh thoát tử.
Trì
danh niệm Phật là một pháp môn tu tập vô cùng quan trọng trong thời kỳ mạt
pháp, cho nên hiện nay rất nhiều người tu tập và hành trì pháp môn này.
Nếu
bạn xem thường pháp môn niệm Phật thì hãy xem Ngài đại sư Vĩnh Minh Diên Thọ
niệm một câu “Nam Mô A Di Đà Phật”, từ trong miệng liền bay ra một hóa thân
Phật. Người thời đó ai cũng đều biết cả, cho nên công đức niệm Phật không thể
nói hết được. Khi bạn niệm một câu Phật hiệu thì bạn lại phóng quang. A! Phóng
một ánh hào quang, yêu ma quỷ quái đều bỏ chạy. Công đức và oai lực của việc
niệm Phật là như thế, không nói hết được.
Khi
tu pháp môn niệm Phật, bạn chẳng cần trông mong đạt đến ngộ bản tâm, hay đạt
đến chân hay giả. Điều quan trọng bạn dụng công tu là tốt rồi, lúc đó tự nhiên
biến thành chân, nếu dụng công không tốt thì biến thành giả. Chẳng những pháp
môn niệm Phật là như thế mà tất cả pháp khác cũng như vậy. Nên nói: “Người tà
hành chánh pháp, chánh pháp trở thành tà, người chân chánh tu pháp, tà pháp
cũng trở thành chánh”. Đây hoàn toàn là do người.
Chúng ta bây giờ khi tu tập dụng công lễ Phật
nên quán tưởng, quán tưởng cái gì? Quán tưởng thân thể này của chúng ta biến
khắp mười phương vô lượng quốc độ cõi nước chư Phật, trong cõi nước chư Phật
gặp mặt Phật chúng ta đến trước đảnh lễ. Bạn có thể quán tưởng pháp giới, thân
thể của bạn cũng chính là pháp giới, rộng lớn như thế. Cho nên mới nói:
Nếu người muốn biết rõ
Chư Phật trong ba đời
Nên quán pháp giới tánh
Tất cả do tâm tạo.
Pháp môn niệm Phật là pháp môn rất dễ hành trì
tu tập, mọi người ai cũng tu được pháp môn này. Chỉ cần bạn niệm một câu “Nam
Mô A Di Đà Phật”, tương lai khi đến lúc lâm chung bạn sanh về thế giới Tây
phương Cực lạc, hóa sanh trong hoa sen, mỗi ngày nghe Phật A Di Đà nói pháp,
tương lai thành Phật.
Xưa nay thường nói, niệm Phật khi lâm chung thì
vãng sanh về thế giới Tây phương Cực lạc, còn hiện tại chúng ta chưa chết, thế
bây giờ chúng ta niệm Phật để làm cái gì? Đúng không? Nhưng để có lợi ích khi
chết, thì khi sống bạn phải cần lo vun bồi trước. Giống như bạn trồng loại cây
ăn quả, muốn thu hoạch kết quả thì bây giờ ta phải tốn thời gian ít năm chăm
bón cây mới phát triển được. Sự phát triển đó, phải theo thời gian mà tạo thành
kết quả. Niệm Phật cũng như thế, bây giờ bạn niệm Phật, đến khi lâm chung mới
không bị các bệnh thống khổ, không bị tâm tham, sân, si làm bấn loạn, nhất tâm
niệm Phật thì Phật A Di Đà đến tiếp dẫn bạn đi. Bây giờ nếu bạn không niệm
Phật, đến khi lâm chung, tứ đại phân ly, khi ấy bạn muốn niệm Phật cũng không
niệm được, trừ khi có bậc thiện tri thức đến trợ giúp cho bạn, nhắc nhở bạn,
bảo bạn niệm Phật. Cho nên lúc còn sống, mỗi ngày đều niệm Phật, niệm mãi đến
khi kết thành một mảng. Lâm chung chỉ cần niệm câu “Nam Mô A Di Đà Phật”, thì
lúc đó bạn chỉ nhớ đến Phật, ngoài ra chẳng luyến tiếc vướng bận gì cả, bạn sẽ
thanh thản ra đi về cõi Phật. Cho nên, khi sống cũng như khi chết bạn không
quên câu “Nam Mô A Di Đà Phật”. Khi bạn không quên câu “Nam Mô A Di Đà Phật”,
thì Phật A Di Đà cũng không quên bạn, chúng ta nương vào đại nguyện của Phật A
Di Đà thì Ngài dùng kim đài đến tiếp dẫn bạn vãng sanh về thế giới Tây phương
Cực lạc.
Bạn niệm Phật, tôi niệm Phật, bạn và tôi niệm
Phật làm gì đây?
Liễu sanh tử, chuyển Ta bà mỗi nơi thành cõi
Phật.
Không bạn, không tôi, có gì nào? Tịnh quán vạn
vật đều rõ ràng.
Phá vô minh dứt phiền não, vượt ba cõi qua bể ái
hà.
Vì sao bạn niệm Phật? Tại sao tôi niệm Phật? Bạn
nói đi! Người thiếu hiểu biết thì nói rằng: “Cầu Phật giúp con, ngày mai ăn
uống cho tốt”. Có người vừa niệm vừa nói rằng: “Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô A
Di Đà Phật”, xin Ngài giúp con khỏi lạnh, khỏi rét! Có người niệm “Nam Mô A Di
Đà Phật”, cho con tránh khỏi những phiền não, mọi việc đều cát tường như ý,
bình an hạnh phúc. Có người niệm Phật để cầu sung sướng trong hiện tại. Tuy có
nhiều loại chẳng giống nhau, nhưng cái chính yếu chẳng phải cầu những việc đó.
Thế thì niệm Phật cầu chuyện gì? Đó là cầu “liễu sanh tử” thôi!
Người “liễu sanh tử” thì sống an vui tự tại. Còn
các bạn chẳng “liễu sanh tử”, thì vào ra hợp với sanh tử. Khi sống bạn không
biết được chính mình, không làm chủ mình. Sống không biết mình là ai thì khi
chết cũng bị mê man trôi vào các nẻo luân hồi khổ sở. Vậy làm sao làm chủ được
đây? Nghĩa là bạn làm chủ khi còn sống, muốn sống thì sống, muốn chết thì chết.
Bạn thích sống lâu, muốn trường thọ thì mỗi ngày chúng ta niệm “Nam Mô A Di Đà
Phật”. Như thế mỗi ngày thọ mạng ta sẽ tăng lên, mạnh khỏe lên. Ta muốn chết,
thì niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, thì đức Phật A Di Đà đến đón ta về thế giới Tây
phương Cực lạc. Như thế, thân không bệnh, tâm không tham luyến, ý không điên
đảo, đây là nói ý cũng không điên đảo, giống như nhập vào thiền định. Như thế
mới sanh về thế giới Tây phương Cực lạc. Quý vị chú ý vấn đề này.
“Hóa Ta bà”. Chuyển hóa thế giới Ta bà thành thế
giới Cực lạc, không còn sự đau khổ mà được tất cả sự an vui. Cho nên nói: “Nơi
nơi đều là cõi Phật A Di Đà”. Nơi nào cũng đều là thế giới Cực lạc, không còn
thế giới đau khổ phiền não nữa, nơi đâu cũng A Di Đà Phật.
“Không bạn, không tôi”. Bạn niệm Phật, niệm đến
không còn thấy bạn niệm và đối tượng là “Phật” để bạn niệm. Tại sao nói
“không”. Ồ! Như thế rất nguy hiểm rồi! Niệm phải được chứ sao nói không? Thế là
không xong rồi? Chỉ sợ bạn không xong, nếu bạn xong rồi thì giải thoát rồi. Bạn
không xong, nên chẳng được gì hết. Nếu bạn xong rồi thì sao? “Tịnh quán vạn vật
đều liễu rõ”. Tất cả vạn vật thế gian, bạn đều thấu hiểu rõ ràng, thậm chí loại
chim nào màu gì, cây tùng sao lại mọc thẳng, … bạn đều rõ biết hết.
Lúc này, bạn biết rõ hết rồi, thì phiền não dứt
sạch, vô minh phá hết. “Nhảy ra khỏi tam giới vượt khỏi biển ái bao la”. Bạn
nhảy ra khỏi sông ái bao la là dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Người ở trong
tam giới như thế nào? Giống như bị trôi theo dòng sông mênh mông rộng lớn! Điên
đảo, bạn nói yêu tôi, tôi nói yêu bạn, tình ái đến đi, chết rồi mà chẳng biết
tỉnh ngộ, đến rồi đi rồi lại gặp lại trong vòng lưới ái, cuối cùng không ra
khỏi.
Có người nói: “Bây giờ tôi chẳng muốn nhảy ra
sông ái”. Thế bạn đợi khi nào nhảy ra đây? Bạn muốn ở lại trong tương lai sao?
Bạn sống nơi này rồi chết, chết rồi lại sanh ra nơi khác, cứ thế, sanh rồi tử
lẩn quẫn trong vòng luân hồi, sống chẳng ra sống, chết chẳng ra chết. Cho nên
phải nhanh đi, nhanh nhảy đi, nhảy ra khỏi sông mê biển ái, nếu không nhảy qua
thì chết chìm rồi! Thật chết chìm rồi! Người chết chìm sẽ như thế nào? Thì bị
đọa lạc đến cùng cực, tánh linh mất rồi hoặc biến thành những loại côn trùng
nhỏ, như sâu, giun, dế, …, trí huệ cạn cợt, phước báu không có. Loài súc sanh
như thế rất dễ sống và rất dễ chết. Nên nói “sống chẳng ra sống, chết chẳng ra
chết”.
Thế bạn rõ biết về thế giới Ta bà này, vạn sự
vạn vật đều không nhất định, luôn chuyển biến liên tục. Nếu bạn nói thế giới
này là cố định thì chuyện đó không đúng. Bởi vì thế giới này là vô thường không
bền chắc. Do không hiểu điều này nên xưa nay ta không đến được thế giới Tây
phương Cực lạc. Nay hiểu ra rồi thì ngay bây giờ chỉ cần bạn niệm “Nam Mô A Di
Đà Phật” thế là bạn và mọi người ai ai cũng đủ tư cách về thế giới Tây phương Cực
lạc cả. Điều quan trọng là bạn niệm hay không niệm. Bạn niệm, dù hiện tại có
khó khăn, chướng ngại bạn cũng quyết tâm làm cho được, thế là việc khó làm mà
bạn làm được, ngay đó thế giới Tây phương sẽ rất gần với bạn. Nếu bạn không
niệm thì sao? Thì chẳng đến được. Chỉ cần bạn nhất niệm thì là sanh rồi. Bạn
không niệm, thì hợp với tử, thế là chẳng thành tựu được rồi. Nên biết các pháp
ở thế gian này là không thật, là không cố định.
Kinh Kim Cang nói: “Không có định pháp gọi là A
nậu đa la tam miệu tam bồ đề”. Đây là nói đến chỗ vô thượng chánh đẳng chánh
giác. Chính ta phải phát đại tâm dõng mãnh, chẳng sợ khổ, sợ khó, mỏi mệt, đói
khát, dõng mãnh hướng tới trước, nhanh về thế giới Tây phương Cực lạc mới thôi.
Chúng ta niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” đây mới là chân thật. Chúng ta niệm “Nam Mô
A Di Đà Phật” mới giúp chúng ta liễu thoát sanh tử.
Lúc
Phật A Di Đà còn là Chuyển Luân Thánh Vương, Ngài Quán Thế Âm là con trưởng,
Ngài Đại Thế Chí là con kế. Hai vị đại Bồ tát này đang ở thế giới Cực lạc đứng
hai bên trái phải để phụ trợ cùng Phật A Di Đà cứu độ chúng sanh. Sau khi đức
Phật A Di Đà nhập Niết bàn, chánh pháp trụ ở đời trải qua vô lượng kiếp, đến
nửa đêm sau khi Phật A Di Đà nhập diệt, Bồ tát Quán Thế Âm lại thành Phật, tên
là “Phổ Quang Công Đức Sơn Như Lai”. Chánh pháp trải qua vô lượng kiếp thì vào
nửa đêm Ngài nhập Niết bàn, lúc đó Bồ tát Đại Thế Chí lại thành Phật, tên là
“Thiện Trụ Công Đức Bảo Vương Như Lai”.
Bồ
tát Đại Thế Chí tu pháp môn niệm Phật chỉ một câu Phật hiệu mà nhiếp thâu “sáu
căn” nên đưa đến giác ngộ. Từ niệm Phật đến khi chứng đạo phải trải qua năm
mươi hai giai đoạn là thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, thập địa,
rồi đến đẳng giác, diệu giác, cho nên Bồ tát Đại Thế Chí cùng với năm mươi hai
vị Bồ tát cũng là đại biểu năm mươi hai giai đoạn.
Theo
Kinh Lăng Nghiêm, trong chương “Đại Thế Chí Bồ tát Niệm Phật Viên Thông”, Bồ
tát Đại Thế Chí nói: “Ta nhớ lại trong vô lượng kiếp trước, có Phật ra đời tên
là Vô Lượng Quang, Vô Biên Quang, Vô Ngại Quang Phật, Diệm Vương Quang Phật,
Thanh Tịnh Quang Phật, Hoan Hỷ Quang Phật, Trí Huệ Quang Phật, Bất Đoạn Quang
Phật, Nan Tư Quang Phật, Vô Xưng Quang Phật, Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật. Trong
kiếp đầu tiếp nối mười hai vị Phật ra đời, vị Phật sau cùng là Phật Siêu Nhật
Nguyệt Quang, dạy ta niệm pháp môn niệm Phật, ta nhập vào chánh định, nên gọi
là niệm Phật tam muội ”.
Pháp
môn niệm Phật có hai hạng người, một là hạng chuyên nhớ niệm, một người chuyên
quên, hai hạng người này cũng từng gặp qua rồi. Một người chuyên niệm là chỉ
cho Phật, một người chuyên quên là chỉ cho phàm phu. Phật thì luôn thương nhớ
chúng sanh, chúng sanh thì thường quên Phật. Nếu chúng sanh nghĩ đến Phật thì
hay biết mấy, nhưng ngặt nỗi là ở đâu họ cũng quên, không có tâm thanh tịnh,
tâm giác ngộ.
Phật
vì sao lại nhớ đến chúng sanh? Bởi vì Phật biết tất cả chúng sanh trong quá khứ
là cha mẹ mình, vị lai sẽ thành Phật và cùng chư Phật hiện tại đồng một thể
giác ngộ bình đẳng, cho nên nói “tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều sẽ
thành Phật”. Đây là chỗ vĩ đại của Phật giáo cũng là giáo nghĩa tối cao của
Phật giáo. Phật giáo nói năm giới, cấm sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối,
uống rượu chính là thương yêu bảo hộ tất cả chúng sanh, chuyển hóa chúng sanh
bỏ mê sớm trở về nhà. Nhưng tất cả chúng sanh khi sanh đến thế giới này thì bỏ
gốc theo ngọn, quay lưng với tánh giác của mình làm những điều hợp với trần
tục, nhận giả làm chân, ngay cả quê hương chính mình cũng quên tất cả; quên cả
chư Phật, Bồ tát, cha mẹ hiền từ, cũng quên hết. Tu pháp môn niệm Phật có bốn
cách như sau: một là trì danh niệm Phật, hai là quán tượng niệm Phật, ba là
quán tưởng niệm Phật, bốn là thật tướng niệm Phật. Chỉ sợ người không đủ đức
hạnh, không đủ đạo tâm, khi công phu bị cảnh giới ma làm cho mê hoặc. Như hồi
tôi gặp một trường hợp tại Hồng Kông, có một vị xuất gia ở chùa Từ Hưng, tu
phép “Ban chu tam muội”. “Ban chu tam muội” là thường hành tam muội, ông ấy ở
trong phòng như thế đến chín mươi ngày, chẳng ngồi, chẳng nằm chỉ đứng và đi mà
thôi. Một hôm, tôi nghe ông ta niệm càng lúc tiếng càng lớn rồi nghe tiếng chân
chạy gấp gáp ở trong phòng với tiếng la hét là Phật A Di Đà đã đến rồi, Phật
đến rồi … Tôi thấy hơi kỳ lạ, ghé mắt nhìn vào phòng xem thử, biết không ổn,
tôi bèn hét lên một tiếng thì ông mới tỉnh ngộ và ở lại trạng thái bình thường.
Chuyện gì xảy ra với ông vậy? Là khi đang công phu ông ta thấy đức Phật A Di Đà
đến quỳ trước mặt ông ta. Thấy vậy, ông ta tưởng Phật A Di Đà đến đón mình nên
liền chạy đến quỳ trước Phật, nhưng thật tế Phật sao lại quỳ trước mặt ông ta
chứ? Thực ra, đó chỉ là một con trâu nước biến ra Phật A Di Đà để đến dắt ông
ta đi mà thôi. Mà chính vị Tỳ kheo này đời trước là một con trâu, có công cày
ruộng ở chùa nên khi chết mới đầu thai lại làm thân người xuất gia tu đạo.
Nhưng tánh trâu chưa hết tập khí cũ vẫn còn, cang cường khó điều phục. Nhưng do
ông ta tu pháp Ban chu tam muội có thể dứt trừ tập khí xấu ác đó đi. Tuy vậy,
đạo đức chưa đủ, định lực chưa kiên cố nên ông bị lạc vào cảnh giới ma.
Nếu
như hai người cùng nhau nhớ niệm, mọi người cùng nhau chí thiết nhớ niệm, chẳng
buông lơi, chẳng thất niệm thì sẽ theo nhau như bóng với hình, không bao giờ
rời xa được. Mọi người ai cũng không quên Phật thì ngay đời này có thể gặp
Phật, sau khi vãng sanh thường gần Phật nghe pháp, tu tập, chẳng bao lâu sẽ
thành quả vị giác ngộ. Mười phương chư Phật ngày đêm thương xót hộ trì cho tất
cả chúng sanh, giống như mẹ luôn nhớ nghĩ đến con. Còn con không nghe lời cha
mẹ, bỏ đi không trở về nhà, để cha mẹ ngày đêm trông đợi nhớ thương. Đến khi
con nhớ nghĩ đến cha mẹ khẩn thiết như thế, mọi người trong gia đình mới gặp gỡ
đoàn tụ được.
Nếu
như tất cả chúng sanh trong tâm lúc nào cũng nghĩ đến Phật, nhớ đến Phật, dù
bây giờ chẳng thấy Phật, nhưng tương lai nhất định cũng gặp Phật. Bởi vì chúng
ta cách Phật quá xa, mà không niệm Phật thì càng xa cách hơn nữa. Người tu pháp
môn niệm Phật chẳng phải nhọc công tốn sức phương cách hoặc bí quyết gì cả, chỉ
cần chuyên tâm niệm Phật. Khi tâm hành giả và tâm Phật tương ứng thì trí huệ phát
sanh, sẽ được giải thoát tự tại.
Người
đời dùng những thứ hương thơm để bôi hoa lên thân thể cho thơm, người niệm Phật
thì dùng câu Phật hiệu xông lên mảnh đất tâm của mình để tương ưng với pháp
thân và trí huệ của Phật, cho tánh giác nơi tự tâm hiển lộ Phật tánh. Vì thế
nên nói “Hương quang trang nghiêm”.
Bồ
tát Đại Thế Chí nói: “Khi ta mới phát tâm tu, chuyên lòng niệm Phật, tâm tâm
tương tiếp, không gián đoạn, rồi thể nhập vào vô sinh pháp nhẫn. Hiện bây giờ
ta trở lại thế giới Ta bà này, thường hay gia hộ và nhiếp thọ những ai chuyên
tâm niệm Phật cầu vãng sanh về thế giới Tây phương Cực lạc. Bây giờ Phật hỏi về
pháp môn viên thông, con chẳng chọn những điều gì khác, chỉ chuyên thâu nhiếp
thân tâm, không bị các duyên trần xoay chuyển, tinh tấn thâu nhiếp sáu căn
không bị khởi bởi các duyên trần”.
Tịnh
niệm chính là không khởi các vọng niệm, chỉ nhất tâm niệm Phật, không có niệm
gì khác. Niệm niệm tương tục, không có gián đoạn, niệm Phật niệm đến niệm mà vô
niệm, vô niệm mà niệm, mỗi niệm chẳng rời tịnh niệm, tâm tâm tương ưng với tâm
Phật, chính là “tức tâm tức Phật, tức Phật là tâm” tâm Phật nhất như mà đắc
thành chánh định. Cho nên tôi nói pháp môn “niệm Phật” là đệ nhất.
Người
nào từng tụng kinh, thọ trì, biên chép mười lời đại nguyện của Bồ tát Phổ Hiền,
thì có thể thấy mình sanh về thế giới Tây phương Cực lạc trong hoa sen.
Thế giới Tây phương
Tịnh độ chỉ có người nam không có người nữ. Người sanh về đó đều hóa sanh trong
hoa sen, hoa nở thấy Phật, tức liền được Phật A Di Đà thọ ký, cho đến khi thành
Phật. Sau khi thọ ký, trải qua vô lượng na do tha trong trăm ngàn vạn kiếp, đến
mười phương thế giới chẳng tính được thì tự mình thành tựu trí huệ, tâm tùy
thuận chúng sanh làm lợi ích vô số chúng sanh. Người này ngồi ở tòa Bồ đề đạo
tràng hàng phục Thiên ma và ma quân ngoại đạo, thành Phật, chuyển diệu pháp
luân, giáo hóa chúng sanh, có thể khiến cho tất cả chúng sanh nhiều như số vi
trần ở trong các thế giới phát tâm bồ đề, tùy theo căn tánh của các chúng sanh,
dùng phương tiện quyền xảo để giáo hóa họ. Khi căn tánh của họ thành thục, trải
qua nhiều kiếp làm lợi ích tất cả chúng sanh.
Người nam tu thiện và
chúng sanh nào có thọ trì đọc tụng “Phổ Hiền hạnh nguyện” hoặc nghe được mười
đại nguyện vương của Bồ tát Phổ Hiền, tin tưởng mười đại nguyện vương này, tâm
ưa thích, thân thọ trì, đối trước tượng đọc tụng thọ trì, hoặc nói cho người
khác nghe về mười đại nguyện này, công đức đó không thể nói hết được. Chỉ có
Phật và các bậc Bồ tát La hán mới biết công đức họ nhiều hay ít mà thôi. Khi
các bạn gặp được mười đại nguyện vương của Bồ tát Phổ Hiền thì không nên khởi
tâm nghi hoặc. Nên nói:
Tâm người tu đạo chớ
nghi
Nghi tâm sanh khởi dễ
đi đường tà.
Người
tu đạo, khi nghe những lời của Phật và các bậc Tổ sư giảng nói chớ có sanh tâm
nghi ngờ. Bạn có tâm nghi ngờ thì dễ rơi vào đường tà, nên tin tưởng và chân
thật thọ trì, lắng lòng tiếp nhận đạo lý. Sau đó chí thành thọ trì như thọ trì
mười đại nguyện vương. Tụng lâu rồi, càng thông hiểu, sau khi trì tụng mười đại
nguyện vương, phát tâm biên chép ấn tống, hoặc giảng nói cho người khác nghe
mười đại nguyện vương này.
Mọi người mà hành trì
như thế, chuyên tâm trong một thời gian ngắn thì nguyện lực tu hành và công đức
đều thành tựu. Người nào trì tụng Phổ Hiền hạnh nguyện được phước nhiều vô
lượng vô biên, ở trong biển khổ cứu độ tất cả chúng sanh khiến họ được an vui
lợi lạc, giúp họ thoát khỏi biển khổ sanh tử khổ đau, đạt đến Niết bàn giải
thoát và được vãng sanh về thế giới Cực lạc của Phật A Di Đà.
“A Di Đà Phật” chỉ có
bốn chữ, nhưng bao quát tất cả Phật pháp. Mỗi bộ Kinh do đức Phật Thích Ca Mâu
Ni nói ra, đều có người thưa thỉnh, chỉ riêng Kinh A Di Đà là không người thưa
thỉnh, không ai hỏi mà chỉ tự Phật nói. Tại sao không có người thưa hỏi? Bởi vì
không có người hiểu rõ pháp này. Pháp môn Tịnh độ, chúng ta thấy rất đơn giản,
nhưng thật tế có bốn chữ “A Di Đà Phật” bao quát tất cả tam tạng Kinh điển,
mười hai bộ Kinh.
Mười năm về trước tôi
chuyên niệm Phật có sự cảm ứng, nên làm ra một bài kệ:
A Di Đà Phật vạn pháp
vương
Ngũ thời bát giáo tận
hàm tàng
Hành nhân đản nhân
chuyên trì tụng
Tất chí tịch quang bất
động tràng.
“A Di Đà Phật” là chỉ
câu Phật hiệu, nếu bạn chuyên tâm trì niệm câu Phật hiệu đó, thì tất cả các
pháp bạn đều thông hiểu rõ ràng, cho nên nói “A Di Đà Phật vạn pháp vương”.
“Ngũ thời” là thời Hoa nghiêm, thời A hàm, thời Phương đẳng, thời Bát nhã, thời
Pháp hoa. “Bát giáo” là Tạng, Thông, Biệt, Viên, Đốn, Tiệm, Bí mật, Bất định
giáo. Ngũ thời, bát giáo đều bao hàm trong bốn chữ “A Di Đà Phật”. Cho nên
người tu chỉ cần chuyên tâm trì niệm câu danh hiệu A Di Đà Phật, nhất định đạt
được Thường tịch quang Tịnh độ và tâm như trong đạo tràng bất động.
Có số người nhận định
sai lệch rằng: “Công phu niệm Phật là dành cho ông già bà lão, không phải của
người tri thức”. Đây là hiểu một cách sai lầm. Niệm “A Di Đà Phật” pháp môn
này, người trí thức cũng tu được, ngu si cũng tu được. Nói tóm lại, pháp môn
này dành cho ba hạng người ai cũng tu được đó là hạnh thượng căn, trung căn và
hạ căn.
Vì sao chúng ta phải
niệm A Di Đà Phật? Bởi vì chúng sanh ở thế giới Ta bà rất có duyên với Bồ tát
Quán Thế Âm. Bồ tát Quán Thế Âm ứng hiện ba mươi hai thân để cứu độ họ. Còn đức
Phật A Di Đà lại càng có nhân duyên thù thắng, bởi vì đức Phật A Di Đà là thầy
của Bồ tát Quán Thế Âm, là giáo chủ ở thế giới Cực lạc. Khi xưa, lúc chưa thành
Phật A Di Đà, Ngài tên là Tỳ kheo Pháp Tạng, từng phát ra 48 lời nguyện, mỗi
nguyện đều tiếp dẫn chúng sanh về thế giới Tây phương Cực lạc, mới nguyện thành
Phật.
Thế giới Cực lạc chỉ
có người nam, vì người ở đó đều hóa sinh từ hoa sen ra. Người sinh về thế giới Cực lạc, trước hết
thác sinh đầu thai vào hoa sen. Chúng ta nhất tâm niệm Phật thì hoa sen bên Cực
lạc sẽ lớn từ từ, niệm một câu Phật hiệu, hoa sen từ từ nở ra, niệm nhiều câu
Phật hiệu thì càng lớn ra, đến lúc bằng bánh xe chuyển luân. Khi lâm chung, đức
A Di Đà Phật hiện thân đến tiếp dẫn chúng ta về thế giới Tây phương Cực lạc.
Tánh linh chúng ta ở trong nhụy hoa sen, khi hoa sen nở ra tức thời pháp thân
hiện bày, cho nên nói “hoa nở thấy Phật”. Khi hoa sen nở ra thì bạn sẽ là một
vị Phật tương lai.
Thế giới Cực lạc cách
thế giới Ta bà qua mười vạn ức cõi Phật, người ở thế giới Cực lạc đều từ hoa
sen hóa sanh, cho nên nói: “Nguyện sinh Tây phương Tịnh độ trung, cửu phẩm liên
hoa vi phụ mẫu”. Tất cả chúng sanh niệm “A Di Đà Phật” thì sẽ sinh về thế giới
Tây phương Cực lạc. Phật A Di Đà từng phát nguyện: “Khi tôi thành Phật, mười
phương chúng sanh, nếu xưng danh hiệu tôi, đều sinh về nước của tôi, hóa sinh
trong hoa sen, được quả vị vô thượng chánh đẳng chánh giác”. Do vậy, người nào
ở thế giới Ta bà xưng niệm danh hiệu Phật A Di Đà, khi lâm chung, Phật A Di Đà
đến tiếp dẫn người này vãng sanh Tây phương Tịnh độ.
Thập phương tam thế
Phật
A Di Đà đệ nhất
Cửu phẩm độ chúng sanh
Uy đức vô cùng cực.
Vào thời mạt pháp,
Phật pháp dần đi đến hủy diệt, tất cả
Kinh điển dần biến mất. Vì sao vậy? Vì chúng sanh thiếu phước báu, tội nghiệp
sâu nặng, không có nhân duyên để xem Kinh điển, chẳng cần phải nói tương lai,
hiện bây giờ có số người không có mắt, tay và các bệnh tật, nên một chữ trong
Kinh cũng không thấy, thật là nghiệp chướng làm cho chướng ngại, đây chính là
mạt pháp, người có mắt mà không thấy và hiểu Phật pháp rõ ràng.
Vào thời mạt pháp các
Kinh điển lần hủy diệt hết, đầu tiên là Kinh Lăng Nghiêm, sau đó đến các Kinh
điển khác, cuối cùng là Kinh A Di Đà. Bộ Kinh A Di Đà này sẽ trụ ở đời hơn một
trăm năm để độ tất cả chúng sanh. Đến hết thời gian đó, Kinh A Di Đà cũng diệt
mất, chỉ còn câu hồng danh sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật” trụ ở đời một trăm năm
nữa để độ tất cả chúng sanh. Qua một thời gian chỉ còn lại câu hồng danh bốn
chữ “A Di Đà Phật” lại trụ ở đời một trăm năm nữa độ thoát vô số chúng sanh.
Cuối cùng bốn chữ “A Di Đà Phật” cũng diệt mất luôn. Phật pháp đến lúc này có
thể nói là hoàn toàn hủy diệt.
Kinh A Di Đà, chẳng ai
thưa hỏi mà tự Phật nói ra, bởi vì bộ Kinh này vô cùng quan trọng. Chúng ta là
người học Phật có duyên gặp được pháp môn này, chớ có xem thường bỏ qua. Người
tham thiền, tham câu “Niệm Phật là ai”, đủ thấy trong quá khứ chúng ta đều có
niệm Phật qua, mới biết tham thiền “niệm Phật là ai”. Nếu như không có niệm
Phật qua mà tham câu “Niệm Phật là ai?”, căn bản bạn chưa từng niệm Phật thì ai
niệm Phật đây? Bạn là người chưa từng niệm Phật thì làm sao có thể nói “Niệm
Phật là ai?”. Từ câu thoại đầu “Niệm Phật là ai” đủ biết trong quá khứ mỗi
chúng ta trong đây ai nấy cũng từng niệm Phật qua rồi. Chẳng qua niệm nhiều hay
ít mà thôi, có thành tâm niệm hay lúc niệm lúc không mà thôi. Mọi người chúng
ta siêng năng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, sẽ được vãng sanh về thế giới Tây
phương Cực lạc, thế giới này có vô lượng chúng sanh vui hưởng đầy đủ lạc thú.
Rất
nhiều người cho rằng pháp môn niệm Phật không rõ ràng. Có người thiếu niềm tin
dù họ có niệm thì cũng niệm qua loa, không mấy tha thiết. Tham thiền cũng chính
là niệm Phật, niệm Phật cũng chính là tham thiền. Người hiểu tham thiền mới là
người hiểu niệm Phật, người hiểu niệm Phật mới là người tham thiền. Tham thiền
tức thân là Phật, có thể ngay mình cũng quên luôn, thậm chí ngay Phật cũng
quên, bởi vì họ tự hỏi “Niệm Phật là ai”.
Người niệm Phật nhất
định có cơ duyên sẽ thành Phật, tâm tâm niệm niệm lúc nào cũng nghĩ đến Phật,
cuối cùng nhất định sẽ thành Phật. Người tham thiền lại nói cái “chẳng được”
chính là Phật, bởi vì tham thiền là tìm Phật, chẳng chịu nhận mình là Phật,
tham câu “Niệm Phật là ai?” tìm tới tìm lui chính là hướng ngoại rồi.
Niệm Phật chính là trở
về với Phật, trở về với tâm của chính mình, chẳng cần hướng ngoại mà tìm. Niệm
Phật chính là hòa Phật thành một phiến, nhất định vãng sanh về Tây phương Cực
lạc. Bạn niệm Phật thì Phật niệm lại bạn, kết quả là thành Phật rồi, các bạn
khỏi cần phải nghiên cứu tìm tòi, chỉ chuyên niệm Phật cho tốt là được. Tham
thiền cũng rất tốt, nhưng tham thiền cần phải chịu khổ, thứ nhất cần phải chịu
đau chân mỏi gối; thứ hai mỗi giờ khắc phải xem coi lại chính mình quét sạch
các vọng tưởng chưa. Tham thiền khó hơn niệm Phật, niệm Phật dễ hơn. Các bạn
chưa thấy sự vi diệu thù thắng của việc niệm Phật.
Tôi nói với các bạn
một câu rất chân thành, tôi làm mọi việc mà tâm luôn hoan hỷ là nhờ niệm “Nam
Mô A Di Đà Phật”. Khi ngủ, tôi cũng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”. Ở trong mộng
cũng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”. Khi đứng cũng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”. Bất
cứ lúc nào cũng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”. Bởi vì A Di Đà Phật hòa với tôi lại
thành một.
Nếu
như bạn chỉ nghĩ khi lâm chung niệm Phật thì sanh tâm lành, thật ra chẳng dễ
dàng như thế đâu. Khi lâm chung thân tứ đại này tan ra, thì người này bị nghiệp
lực dẫn dắt thần thức tiếp tục đi qua một cảnh giới khác chuẩn bị cho đời sống
tiếp theo.
Cho
nên nói: “Chim sắp chết, tiếng kêu của nó rất bi ai. Người sắp chết, lời nói
của họ nghe rất hiền”. Người sắp lâm chung cũng thế, trông rất tội nghiệp nếu
ngay lúc đó tâm họ sinh khởi những điều thiện trong một đời họ đã làm việc gì
cho mọi người và cho chính mình. Việc gì đúng, việc gì sai sẽ đều hiển hiện rõ
ràng. Nếu người nào khi sống làm những việc không tốt, lúc hấp hối lại phát
khởi tâm sám hối một cách tha thiết, rồi chỉ cần nghe một danh hiệu Phật, một
danh hiệu Bồ tát hoặc một danh hiệu của một vị Bích chi Phật thì tất cả tội lỗi
dù có vô lượng cũng đều tiêu diệt. Căn lành vô lượng sinh khởi ngay lúc đó. Cho
nên lâm chung là lúc rất quan trọng, vì nó quyết định cuộc sống đời sau hạnh
phúc hay đau khổ. Nhưng phát ra tâm lành để sanh về cảnh giới tốt chẳng phải là
chuyện dễ dàng khi thiếu những nhân duyên tốt.
Vì
sao bình thường chúng ta cần phải niệm Phật? Chính là chuẩn bị đến lúc lâm
chung không bị quên câu Phật hiệu, vì khi bình thường chúng ta niệm, thì khi
lâm chung không bao giờ quên Phật. Nếu bạn muốn khi lâm chung mới niệm, để phát
sinh tâm lành, khi ấy thật chẳng dễ chút nào. Nếu phát sinh được thì thật vô
cùng hiệu nghiệm, chỉ cần nhất tâm sám hối thì ngay lúc đó tất cả tội nghiệp
đều tiêu trừ.
--------- Hết ---------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét